Xem mẫu
- INTERNATIONAL CONFERENCE FOR YOUNG RESEARCHERS IN ECONOMICS & BUSINESS 2019
ICYREB 2019
XU HƯỚNG MỚI CỦA CHUỖI GIÁ TRỊ TOÀN CẦU
VÀ TÁC ĐỘNG CỦA NÓ TỚI DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA VIỆT NAM
NEW TREND OF GLOBAL VALUE CHAIN AND ITS IMPACT ON VIETNAM’S SMALL
AND MEDIUM-SIZED ENTERPRISES
Trần Thị Thanh Huyền*, Nguyễn Đức Hoàng Thọ**
*Học viện Ngân hàng, ** Trường Đại học Trần Quốc Tuấn
huyenttt@hvnh.edu.vn
TÓM TẮT
Doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) tại Việt Nam mặc dù chiếm tỷ trọng rất lớn trong tổng số các doanh nghiệp trong
nền kinh tế (98,1% - năm 2017) nhưng chỉ đóng góp khoảng 40% vào GDP và chỉ có 20% doanh nghiệp tham gia vào
chuỗi cung ứng toàn cầu. Điều đó góp phần làm cho giá trị gia tăng mà Việt Nam có được khi tham gia chuỗi giá trị
toàn cầu là không đáng kể. Nghiên cứu đề xuất giải pháp nhằm thúc đẩy việc các doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam
tham gia và dịch chuyển lên vị trí cao hơn trong chuỗi giá trị toàn cầu là có ý nghĩa, góp phần khai thác lợi ích do
chuỗi giá trị toàn cầu mang lại đối với nền kinh tế. Điều này càng cần thiết trong bối cảnh chuỗi giá trị toàn cầu đang
có nhiều thay đổi do tác động của xu thế toàn cầu hóa và sự bùng nổ của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0.
Bài viết tập trung làm rõ: (i) Những vấn đề chung về chuỗi giá trị toàn cầu, DNNVV, mối quan hệ giữa chuỗi giá trị
toàn cầu và DNNVV; (ii) tìm hiểu xu hướng mới của chuỗi giá trị toàn cầu; (iii) phân tích mức độ hội nhập của các
DNNVV Việt Nam vào chuỗi giá trị toàn cầu, chỉ ra tác động tích cực và tiêu cực đối với DNNVV Việt Nam khi
chuỗi giá trị toàn cầu thay đổi và (iv) cuối cùng đưa ra kết luận và một số khuyến nghị.
Từ khóa: Chuỗi giá trị toàn cầu, doanh nghiệp nhỏ và vừa, Việt Nam.
ABSTRACT
Although Vietnam’s small and medium-sized enterprises (SMEs) account for a large proportion of the total number of
enterprises in the economy (98,1% - 2017), these enterprises only contribute about 40% to Vietnam’s GDP and only
20% of businesses participate in the global supply chain. This contributes to the fact that the added value that Vietnam
gains from the global value chain is not significant. Examining and proposing solutions to promote the participation
and tier-up in the global value chain of Vietnamese SMEs is meaningful, contributing to exploit the global value
chain’s benefits. This is more especially necessary in the context the global value chain is changing drammatically due
to the impact of new globalization trend and the explosion of the industrial revolution 4.0.
This paper focuses on: (i) briefly discussing about the global value chain, overviewing of SMEs, showing the
relationship between the global value chain and SMEs; (ii) exploring new trends of the global value chain; (iii)
analyzing Vietnamese SMEs’ integration into the global value chain, positive and negative impact of new trends of the
global value chain to Vietnamese SMEs and (iv) finally making conclusions and proposing some recommendations.
Keywords: Global value chain, small and medium-sized enterprises, Vietnam.
1. Phần giới thiệu
1.1. Thảo luận chung về chuỗi giá trị toàn cầu
Trong một vài thập kỷ trở lại đây, xu thế khu vực hóa và toàn cầu hóa đã làm thay đổi phương thức
sản xuất trên phạm vi toàn cầu. Các công đoạn của quá trình sản xuất đang được tiến hành tại nhiều quốc
gia, bởi nhiều công ty thay vì trong phạm vi một quốc gia và được thực hiện bởi một công ty như trước
đây. Những công đoạn đó được tổ chức trong một mạng lưới gọi là chuỗi giá trị toàn cầu1. Một chuỗi giá
trị toàn cầu đề cập đến một loạt các hoạt động xuyên biên giới, từ khâu thiết kế sản phẩm, tìm nguồn cung
ứng nguyên liệu, đến hoạt động sản xuất, tiếp thị, phân phối và cung ứng sản phẩm đến người tiêu dùng
cuối cùng (ESCAP, 2007).
1
Liên quan đến mạng sản xuất toàn cầu, bên cạnh khái niệm chuỗi giá trị toàn cầu, một khái niệm cũng hay được đề
cập đến là chuỗi cung ứng toàn cầu. Nếu như chuỗi giá trị bao gồm cả các chuỗi thuộc bên cung và các chuỗi thuộc
bên cầu thì chuỗi cung ứng là tất cả các hoạt động liên quan đến việc tìm nguồn cung ứng, mua sắm, chuyển đổi và
tất cả các hoạt động hậu cần.
790
- INTERNATIONAL CONFERENCE FOR YOUNG RESEARCHERS IN ECONOMICS & BUSINESS 2019
ICYREB 2019
Sự phát triển của chuỗi giá trị toàn cầu không thể không nhắc đến vai trò của các doanh nghiệp nhỏ
và vừa (DNNVV) (Hình 1). Một số lượng lớn các DNNVV đã tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu với vai
trò là người cung cấp nguyên liệu đầu vào, phân phối hàng hóa hoặc cung cấp dịch vụ kinh doanh2.
Hình 1: Mô hình về một chuỗi giá trị toàn cầu
Nguồn: Masato Abe (2015)
1.2. Tổng quan về doanh nghiệp nhỏ và vừa
Mặc dù có nhiều quan niệm và cách phân loại khác nhau về DNNVV tại nhiều quốc gia, tuy nhiên
quan niệm về loại hình doanh nghiệp này thường được dựa trên số lượng người lao động, giá trị doanh
thu, giá trị tài sản/vốn hoặc là sự kết hợp của các chỉ số kể trên. Biến số thường được sử dụng phổ biến
nhất là số lượng người lao động. Một số lượng lớn các quốc gia thuộc OECD (Tổ chức hợp tác Kinh tế và
Phát triển), bao gồm cả EU (Liên minh châu Âu), các quốc gia đang phát triển và các nền kinh tế đang
chuyển đổi đặt mức giới hạn trên của số lượng lao động trong các DNNVV là nằm trong khoảng 200-250.
Trong khi đó, một số quốc gia như Nhật Bản, Mỹ cho phép mức lao động được thuê tối đa là 300-500
người lao động (Abe và cộng sự, 2012).
DNNVV ở Việt Nam, theo Luật hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa 20173, có số lao động tham gia
bảo hiểm xã hội bình quân năm không quá 200 người và đáp ứng một trong hai tiêu chí: (i) tổng nguồn
vốn không quá 100 tỷ đồng; hoặc (ii) tổng doanh thu của năm trước liền kề không quá 300 tỷ đồng. Như
vậy, DNNVV ở Việt Nam được phân chia dựa trên các tiêu chí: (i) tổng số lao động tham gia bảo hiểm xã
hội trung bình năm; và (ii) tổng nguồn vốn (hoặc tổng doanh thu) của năm. Các tiêu chí này được vận
dụng khác nhau đối với ba khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản; công nghiệp và xây dựng; thương mại
và dịch vụ.
2
Cung cấp dịch vụ kinh doanh: Nhà cung cấp dịch vụ hậu cần của bên thứ ba, là tổ chức tài chính hoặc công ty
nghiên cứu và phân tích thị trường.
3
Được Quốc Hội khóa XIV, kỳ họp thứ 3 thông qua ngày 12/6/2017 (có hiệu lực từ ngày 01/01/2018).
791
- INTERNATIONAL CONFERENCE FOR YOUNG RESEARCHERS IN ECONOMICS & BUSINESS 2019
ICYREB 2019
Bảng 1: Phân loại doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam
Doanh nghiệp siêu nhỏ Doanh nghiệp nhỏ Doanh nghiệp vừa
Lao Doanh Nguồn Lao Doanh Nguồn Lao Doanh Nguồn
động thu vốn động thu vốn động thu vốn
Nông, 10 3 tỷ 3 tỷ 10-100 3-50 tỷ 3-20 100-200 50-200 20-100
lâm người đồng đồng người đồng tỷ đồng người tỷ đồng tỷ đồng
nghiệp và trở trở trở
thủy sản xuống xuống xuống
Công 10 3 tỷ 3 tỷ 10-100 3-50 tỷ 3-20 tỷ 100-200 50-200 20-100
nghiệp và người đồng đồng người đồng đồng người tỷ đồng tỷ đồng
xây dựng trở trở trở
xuống xuống xuống
Thương 10 10 tỷ 3 tỷ 10-50 10-100 3-50 tỷ 50-100 100-300 50-100
mại và người đồng đồng người tỷ đồng đồng người tỷ đồng tỷ đồng
dịch vụ trở trở trở
xuống xuống xuống
Nguồn: Nghị định 39/2018/NĐ-CP ngày 11/3/2018 quy định chi tiết một số điều
của Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa
Dựa theo tiêu chí lao động, DNNVV ở Việt Nam bao gồm có doanh nghiệp siêu nhỏ (sở hữu số
lượng lao động ít hơn 10 người), doanh nghiệp nhỏ (có dưới 100 lao động, riêng khu vực thương mại dịch
vụ quy định số lượng người lao động là 10-50) và doanh nghiệp có quy mô vừa (100-200, riêng khu vực
thương mại dịch vụ là 50-100 lao động).
Với quy mô nhỏ thậm chí siêu nhỏ, các DNNVV mang những đặc điểm đặc thù như tập trung phát triển
tại thị trường ngách, yêu cầu về vốn đầu tư thấp và định hướng khách hàng. Đối với các doanh nghiệp này,
không có sự tách bạch giữa quyền sở hữu và quản lý nên người quản lý doanh nghiệp có xu hướng đáp ứng
với biến động thị trường một cách linh hoạt và nhanh chóng (Abe và cộng sự, 2012). Theo Kyaw (2008), sự
phát triển của tinh thần doanh nhân có mối liên hệ mật thiết với sự phát triển của các doanh nghiệp vừa và nhỏ,
do chúng được hình thành, nuôi dưỡng và điều hành bởi các doanh nhân.
Do sự ràng buộc về quy mô, bản thân các DNNVV cũng gặp những trở ngại nhất định trong quá
trình hoạt động, bao gồm: khó đạt được lợi thế kinh tế nhờ quy mô trong việc mua các yêu tố đầu vào;
không thể xác định thị trường tiềm năng và thường không thể tận dụng các cơ hội thị trường đòi hỏi khối
lượng lớn, chất lượng phù hợp, tiêu chuẩn đồng nhất và cung cấp thường xuyên; khó tiếp cận các dịch vụ
kinh doanh (chẳng hạn đào tạo, thông tin thị trường và dịch vụ hậu cần); hạn chế trong việc tiếp cận các
yếu tố đầu vào đặc biệt như công nghệ và kỹ năng; có khả năng thương lượng thấp4, cả đối với việc mua
sắm yếu tố đầu vào và bán hàng hóa (nghĩa là, giá thấp và chi phí cao, dẫn đến thu nhập thấp và ít lợi
nhuận). Bên cạnh đó, các DNNVV còn gặp một loạt các trở ngại khác như khả năng tiếp cận thị trường
yếu; mức độ áp dụng công nghệ thấp; hạn chế trong việc phát triển thương hiệu; cơ cấu nợ cao; năng lực
quản lý yếu; chất lượng nguồn nhân thấp; hỗ trợ thể chế không phù hợp5 và mạng lưới kinh doanh không
đầy đủ.
1.3. Mối liên hệ giữa chuỗi giá trị toàn cầu và doanh nghiệp nhỏ và vừa
Chuỗi giá trị toàn cầu có một cấu trúc chặt chẽ với vai trò chính thuộc về một công ty đa quốc gia.
Công ty này được hỗ trợ bởi một số nhà cung cấp hàng đầu, mà những nhà cung cấp hàng đầu này lại
được hỗ trợ bởi các nhà cung cấp khác… Điều này tạo nên một cấu trúc tầng chặt chẽ, bao gồm các
doanh nghiệp lớn và nhỏ.
4
Do có quy mô nhỏ nên DNNVV là người chấp nhận giá trên thị trường.
5
Tại nhiều quốc gia, các DNNVV thậm chí còn bị phân biệt đối xử so với các doanh nghiệp lớn.
792
- INTERNATIONAL CONFERENCE FOR YOUNG RESEARCHERS IN ECONOMICS & BUSINESS 2019
ICYREB 2019
Nhìn chung, việc tham gia một chuỗi giá trị toàn cầu với vai trò là một nhà cung ứng cấp thấp tỏ ra
là phù hợp với các DNNVV, đặc biệt là các DNNVV ở các nền kinh tế có thu nhập thấp. Tuy nhiên, các
doanh nghiệp DNNVV ở vị trí này thường dễ bị thay thế bởi các nhà cung cấp khác có lợi thế so sánh tốt
hơn (chẳng hạn có chi phí lao động thấp hơn) (Abonyi, 2005). Vấn đề đặt ra đối với các DNNVV là một
mặt làm thế nào để gia nhập chuỗi giá trị toàn cầu, mặt khác dịch chuyển lên vị trí cao hơn trong chuỗi
giá trị bằng cách nâng cấp hàm lượng giá trị gia tăng trong các hoạt động của mình. Tìm hiểu về vấn đề
này, Harvie và cộng sự (2010, 2015) chỉ ra rằng các yếu tố và đặc điểm chính có tác động tích cực đến
khả năng của các DNNVV tham gia vào mạng lưới sản xuất khu vực và dịch chuyển lên vị trí cao hơn
trong chuỗi giá trị là năng suất lao động, tỷ lệ sở hữu nước ngoài, mức độ ổn định tài chính, chi phí tín
dụng, khả năng đáp ứng các tiêu chuẩn quốc tế về hàng hóa và mức độ ứng dụng công nghệ thông tin (CNTT).
Trong đó, CNTT được coi là yếu tố cốt lõi, tác động đến khả năng đổi mới của doanh nghiệp (thể hiện
qua khả năng thiết lập một nhà máy mới, cải tiến máy móc hiện có và mua sắm máy móc mới, mức độ
sẵn sàng áp dụng chiến lược kinh doanh mới). Những DNNVV có trình độ công nghệ tốt, cùng với năng
suất lao động cao và mức độ đóng góp đáng kể của vốn nước ngoài đã được chứng minh là có khả năng
dịch chuyển cao hơn trong chuỗi giá trị.
Hình 2: Mạng sản xuất toàn cầu/khu vực và DNNVV
Nguồn: Abonyi (2005)
Việc tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu có thể mang lại nhiều lợi ích đáng kể cho các DNNVV.
Yuhua và Bayhaqi (2013) cho rằng lợi ích mà các DNNVV có thể thu được khi tham gia chuỗi giá trị
toàn cầu là: (i) Năng lực kỹ thuật được nâng cao; (ii) nhu cầu đối với các sản phẩm và dịch vụ hiện có của
doanh nghiệp tăng lên, năng lực hoạt động được tối ưu hóa và hiệu quả sản xuất được cải thiện; (iii) cơ
hội hợp tác với các doanh nghiệp (cả thượng nguồn và hạ nguồn) trong mạng sản xuất toàn cầu góp phần
tạo uy tín cho các DNNVV, giúp các doanh nghiệp này dễ dàng hơn trong việc tiếp cận tài chính cũng
như thu hút các nguồn vốn đầu tư nước ngoài và nhân lực chất lượng cao; (iv) định hướng các DNNVV
tham gia vào quá trình quốc tế hóa một cách từ từ và bền vững. Tuy nhiên, cần lưu ý rằng, nếu bản thân
các DNNVV không xây dựng năng lực thì những cơ hội, lợi ích kể trên sẽ bị bỏ lỡ.
Bên cạnh những lợi ích có thể đạt được, các DNNVV có thể phải đối mặt với nhiều thách thức khi
tham gia chuỗi giá trị toàn cầu. Những thách thức này có thể được phân chia thành 4 nhóm, liên quan đến:
Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp, mức độ quốc tế hóa, mức độ tự do hóa thương mại và kỹ năng
quản lý.
793
- INTERNATIONAL CONFERENCE FOR YOUNG RESEARCHERS IN ECONOMICS & BUSINESS 2019
ICYREB 2019
Bảng 2: Thách thức đối với DNNVV khi tham gia chuỗi giá trị toàn cầu
Thách thức Khả năng và giới hạn
- Quy mô nhỏ dẫn tới chi phí sản xuất cao tương đối
- Ít được người tiêu dùng lựa chọn và không có khả năng tiếp cận các
Khả năng cạnh tranh công ty dẫn đầu
- Hỗ trợ và giúp đỡ mang tính thể chế không đầy đủ
- Thiếu nguồn nhân lực và tài chính cần thiết
- Không có khả năng quốc tế hóa hoạt động kinh doanh do hạn chế
trong năng lực phân tích, thâm nhập và phân đoạn thị trường nước
Mức độ quốc tế hóa
ngoài
- Hạn chế về mặt kỹ thuật để đóng vai trò là người cung ứng cho các
doanh nghiệp nước ngoài
- Không quan tâm, không nhận thức được cơ hội và thách thức do các
Mức độ tự do hóa hiệp định thương mại tự do mang lại
thương mại - Không có kiến thức và kỹ năng để tiếp nhận các hiệp định thương mại
tự do
- Thiếu kiến thức về chiến lược và công nghệ mới
- Hạn chế hiểu biết về thương mại điện tử
Kỹ năng quản lý - Không có khả năng thuê lao động có tài năng và chất lượng một cách
phù hợp
- Không có khả năng chống lại các biện pháp phi cạnh tranh
Nguồn: Masato Abe (2015)
2. Xu hướng phát triển mới của chuỗi giá trị toàn cầu
Chuỗi giá trị toàn cầu đã không ngừng phát triển và thích ứng với những xu hướng và phát triển
mới mang tính toàn cầu. Những biến đổi này bao gồm:
2.1. Cường độ giao dịch trong chuỗi giá trị ngày càng yếu đi
Sự thay đổi đầu tiên và quan trọng nhất của chuỗi giá trị toàn cầu trong thời gian gần đây là cường
độ giao dịch trong các chuỗi giá trị ngày càng yếu đi. Chuỗi giá trị toàn cầu đang đạt đến mức trưởng
thành và tốc độ gia công quan sát được trong những năm 1990 khó có thể lặp lại trong tương lại. Nguyên
nhân nằm sau sự suy giảm tốc độ này được cho là do sự thay đổi cấu trúc ở Trung Quốc cũng như sự
chậm lại của tự do hóa thương mại đa phương.
Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Trung Quốc trong những năm 1990 và việc quốc gia này gia
nhập WTO vào năm 2001 đã thúc đẩy thương mại toàn cầu phát triển thông qua các chuỗi giá trị toàn cầu
và khu vực. Tuy nhiên, quá trình tái cân bằng giữa đầu tư và tiêu dùng ở Trung Quốc sau một thời gian
tăng trưởng nóng đã làm suy giảm nhu cầu nhập khẩu của quốc gia này, từ đó góp phần vào sự chậm lại
gần đây của thương mại toàn cầu (P. Wozniak và M. Galar, 2018).
Sự chậm lại của quá trình tự do hóa thương mại trên phạm vi toàn cầu còn có nguyên nhân một
phần là do xu hướng bảo hộ mậu dịch ngày càng gia tăng giữa các quốc gia và khu vực. Cuộc chiến
thương mại giữa Mỹ và Trung Quốc là một minh chứng cho xu hướng bảo hộ đó. Tác động của cuộc
chiến này tới nền kinh tế của Mỹ và Trung Quốc còn cần phải tiếp tục xem xét và đánh giá tuy nhiên ảnh
hưởng của nó đến mạng lưới sản xuất toàn cầu là không hề nhỏ. Chuỗi cung ứng toàn cầu có nguy cơ bị
phá vỡ bởi cuộc chiến tranh thương mại này. Thay vì xây dựng chuỗi cung ứng toàn cầu, nhiều công ty
đang có xu hướng lựa chọn việc xây dựng các chuỗi cung ứng khu vực. Trong bối cảnh mới, các công ty,
794
- INTERNATIONAL CONFERENCE FOR YOUNG RESEARCHERS IN ECONOMICS & BUSINESS 2019
ICYREB 2019
tập đoàn sẽ đặt các nhà máy sản xuất của mình tại nhiều châu lục khác nhau, chẳng hạn một cơ sở sản
xuất riêng biệt để phục vụ thị trường Bắc Mỹ, một cơ sở khác để phục vụ thị trường Trung Quốc cũng
như phần còn lại của thế giới.
2.2. Lao động không còn là yếu tố quan trọng nhất ảnh hưởng tới định hình chuỗi giá trị toàn cầu
Thay vì cân nhắc đến yếu tố chi phí lao động để lựa chọn địa điểm sản xuất như trước đây, các
công ty đa quốc gia đang dần quan tâm tới các yếu tố khác, chẳng hạn khả năng tiếp cận lao động có tay
nghề, tài nguyên thiên nhiên, sự gần gũi với người tiêu dùng và chất lượng cơ sở hạ tầng. Nguyên nhân
gây ra sự dịch chuyển này được cho là một mặt xuất phát từ sự gia tăng chi phí lao động ở các quốc gia,
mặt khác là do nỗ lực của các công ty đa quốc gia trong việc đáp ứng với sự thay đổi nhu cầu của người
tiêu dùng bằng cách chuyển từ sản xuất hàng loạt sang sản xuất theo yêu cầu của khách hàng.
2.3. Chuỗi giá trị toàn cầu ngày càng phức tạp và mở rộng
Chuỗi giá trị toàn cầu ngày càng trở nên phức tạp và mở rộng, khiến cho sự đổ vỡ một phần của
chuỗi giá trị có thể gây ra hiệu ứng bất lợi mang tính toàn cầu trong toàn bộ chuỗi. Theo OECD, một công
ty càng mở rộng hoạt động trên phạm vi toàn cầu thì càng dễ bị tổn thương bởi những sự kiện bất ngờ.
Một sự thay đổi của bất kỳ yếu tố nào trong chuỗi có thể có tác động lớn đến tổng chi phí thương mại và
hiệu quả của sản xuất nói chung. Một sự kiện xảy ra đối với việc sản xuất xe ô tô BMW trong năm 2017
là một ví dụ cho tính dễ đổ vỡ đó. Sự thiếu hụt hệ thống lái của Bosch xuất phát từ một nhà cung cấp phụ
ở Ý đã làm gián đoạn quy trình sản xuất hàng nghìn xe BMW, từ đó ảnh hưởng đến nhiều chi nhánh sản
xuất ở Đức, Nam Phi và Trung Quốc (Nieminen và cộng sự, 2017).
2.4. Chuỗi giá trị toàn cầu đang chịu tác động mạnh mẽ bởi cuộc cách mạng công nghệ 4.0
Cách mạng công nghiệp 4.0 đang và sẽ có những tác động lớn đến mạng sản xuất toàn cầu, trong
đó có chuỗi giá trị toàn cầu. Quá trình số hóa hoạt động sản xuất ngày càng gia tăng kết hợp với tiến bộ
công nghệ như trí tuệ nhân tạo, tự động hóa và vận chuyển tự hành có thể rút ngắn chuỗi giá trị toàn cầu
(Zachariadis, 2019). Công nghệ 4.0 được dự kiến sẽ làm thay đổi việc tổ chức mạng lưới sản xuất, thiết
lập lại các chức năng kinh doanh của chuỗi giá trị (nghiên cứu và phát triển; logistics và lập kế hoạch, tiến
hành sản xuất; chức năng hành chính và hỗ trợ). Sự tương tác giữa máy móc với máy móc, máy móc với
con người sẽ cho phép tạo ra các sản phẩm đặc thù. Theo Bogers và cộng sự (2016), rất dễ xảy ra khả
năng chuyển từ chuỗi cung ứng tập trung sang chuỗi cung ứng phi tập trung, mà điều này gây ra việc định
hình lại các chuỗi giá trị toàn cầu. CMCN 4.0 cùng với dữ liệu lớn và internet vạn vật cũng sẽ làm tăng
giá trị của dịch vụ sau bán hàng (Gereffi, 2017), tạo ra sự tích hợp dữ liệu lớn hơn giữa các công ty và vì
thế giảm bớt các khâu trung gian của quá trình sản xuất (Sasson và Johnson, 2016).
3. Tác động của sự đổi mới chuỗi giá trị toàn cầu tới doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam
3.1. Hội nhập của các doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam vào chuỗi giá trị toàn cầu
Nếu như trong năm 2005, trong số 106.616 doanh nghiệp của toàn bộ nền kinh tế, khu vực DNNVV
chiếm tỷ trọng 95% thì đến năm 2017 tỷ trọng DNNVV đã lên tới 98,1%. Riêng trong khu vực DNNVV,
doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ là chủ yếu, doanh nghiệp vừa chiếm tỷ trọng không cao. Trong số 507.800
DNNVV của năm 2017, tỷ trọng của doanh nghiệp vừa chỉ khoảng 1,67%, tương đương với gần 8,5 nghìn
doanh nghiệp, trong khi đó tỷ trọng của doanh nghiệp siêu nhỏ là 76% (Bộ Kế hoạch và Đầu tư, 2017).
DNNVV mặc dù chiếm tỷ trọng rất lớn trong tổng số các doanh nghiệp tại Việt Nam nhưng chỉ
đóng góp khoảng 40% vào GDP và chỉ có 20% doanh nghiệp tham gia vào chuỗi cung ứng toàn cầu, thấp
hơn nhiều các nước trong khu vực Asean như Thái Lan là 30%, Malaysia là 46% (theo nghiên cứu của Tổ
chức Tài chính Quốc tế - IFC). Liên tục trong những năm qua, dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào
Việt Nam tăng và 56% trong số đó được đổ vào lĩnh vực sản xuất, chế tạo. Tuy nhiên, kết quả nghiên cứu
của Ngân hàng Thế giới tại Việt Nam cho thấy số doanh nghiệp Việt Nam (trong đó chủ yếu là DNNVV)
tham gia các chuỗi cung ứng của các doanh nghiệp đầu tư trực tiếp nước ngoài là hết sức hạn chế, đặc
795
- INTERNATIONAL CONFERENCE FOR YOUNG RESEARCHERS IN ECONOMICS & BUSINESS 2019
ICYREB 2019
biệt ở những lĩnh vực đòi hỏi công nghệ cao như sản xuất ô tô, thiết bị điện tử. Hầu hết doanh nghiệp Việt
mới chỉ tham gia chuỗi cung ứng thứ cấp nên giá trị gia tăng không cao. Khảo sát chỉ số PCI của Phòng
Thương mại và Công nghiệp Việt Nam cũng cho thấy đa số doanh nghiệp tư nhân Việt Nam bán hàng
hóa, cung cấp dịch vụ cho các công ty tư nhân trong nước (64%) và chỉ có 15% doanh nghiệp tư nhân
Việt Nam bán hàng hóa, dịch vụ cho doanh nghiệp nước ngoài tại Việt Nam.
Khảo sát được thực hiện bởi Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển hội nhập khoa học và công nghệ
quốc tế vào năm 2015 đối với 262 doanh nghiệp có quy mô từ 10 tỷ đồng trở xuống trên phạm vi cả nước
cho thấy có 53,1% doanh nghiệp không tham gia chuỗi cung ứng toàn cầu, phần lớn sản phẩm của các
doanh nghiệp được tiêu thụ trong nước, các hợp đồng dài hạn (3 năm trở lên) chủ yếu với các đối tác
trong nước (43% doanh nghiệp được hỏi) trong khi chỉ có 12% doanh nghiệp có hợp đồng với đối tác
nước ngoài (Nhung và Hợp, 2016).
Rào cản lớn nhất ngăn cản các DNNVV của Việt Nam hội nhập vào chuỗi giá trị toàn cầu chính là
chất lượng sản phẩm, dịch vụ thấp và không đồng đều. Vấn đề này đặc biệt đáng quan tâm trong bối cảnh
thị trường quốc tế ngày càng thắt chặt các tiêu chuẩn kỹ thuật, kiểm dịch, môi trường và liên quan đến
sức khỏe người tiêu dùng. Trên thực tế, DNNVV Việt Nam chủ yếu vẫn coi việc đổi mới sản phẩm là
cách để giảm chi phí chứ không phải để nâng cao chất lượng sản phẩm (theo một nghiên cứu của Ngân
hàng Thế giới). Cùng với vấn đề về chất lượng sản phẩm, quá trình tham gia chuỗi cung ứng và chuỗi giá
trị toàn cầu của các DNNVV Việt Nam còn tồn tại một số bất cập, bao gồm trình độ công nghệ kỹ thuật
kém, lao động tay nghề thấp, thiếu kinh nghiệm làm việc với đối tác nước ngoài và khả năng kết nối tài
chính kém. Việc thiếu kênh phân phối, năng lực thương mại hạn chế cũng như thiếu thông tin về xu thế,
công nghệ, thị trường, sản phẩm, đối thủ cạnh tranh hay nhà cung cấp,... cũng gây ra trở ngại cho các
DNNVV Việt Nam khi tham gia chuỗi giá trị toàn cầu. Một vấn đề cũng rất đáng quan ngại nữa là các
DNNVV chưa sẵn sàng tham gia vào quá trình hội nhập nói chung, vào chuỗi giá trị toàn cầu nói riêng.
DNNVV Việt Nam mong muốn trở thành nhà cung ứng cho các công ty đa quốc gia chỉ để phục vụ cho
nhu cầu nâng cao uy tín và làm đẹp hồ sơ năng lực doanh nghiệp trong quá trình ký kết đơn hàng với các
đối tác khác. Cơ hội học tập, chuyển giao công nghệ từ các công ty nước ngoài không được đánh giá cao.
Các DNNVV mặc dù luôn sẵn sàng hợp tác để trở thành nhà cung cấp cho các công ty đa quốc gia nhưng
lại không có cam kết mạnh mẽ cho các thay đổi và đầu tư để đáp ứng yêu cầu trong dài hạn. Các doanh
nghiệp này thường cố gắng đầu tư nguồn lực và cơ sở hạ tầng trong ngắn hạn để đối phó với các yêu cầu
đặt ra bởi các công ty đa quốc gia chứ chưa chủ động kiểm soát và nâng cao năng lực sản xuất nội bộ của
doanh nghiệp (Nguyên, 2017).
3.2. Tác động đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam trong bối cảnh thay đổi của chuỗi giá trị
toàn cầu
Những xu hướng phát triển gần đây của chuỗi giá trị toàn cầu có khả năng tác động mạnh mẽ đến
hoạt động của các DNNVV Việt Nam. Những tác động đó có thể biểu hiện ra dưới hai khả năng: Tác
động tích cực và tác động tiêu cực đan xen với nhau.
Tác động tích cực lớn nhất của sự đổi mới chuỗi giá trị toàn cầu tới các DNNVV Việt Nam là việc
các công ty đa quốc gia đang rục rịch rời khỏi Trung Quốc và chuyển một phần sản xuất sang các nước
lân cận trong đó có Việt Nam do tác động của cuộc chiến thương mại Mỹ Trung. Một ví dụ điển hình cho
xu hướng này chính là động thái của công ty Apple thời gian gần đây. Apple đã yêu cầu các nhà cung ứng
lớn ước tính chi phí của việc dịch chuyển một phần sản xuất sang các nước Đông Nam Á6. Cũng theo xu
hướng này, Samsung Electronics Co., Ltd trong năm 2018 đã thông báo sẽ chấm dứt hoạt động các nhà
máy sản xuất điện thoại di động tại Trung Quốc và tuyên bố cần khoảng 500 doanh nghiệp cung ứng tại
6
Những nhà cung ứng này bao gồm Foxconn Technology, Pegatron và Wistron (những công ty lắp ráp iPhone),
Quanta Computer (nhà sản xuất MacBook), Compal Electronics (nhà sản xuất iPad cho Apple) và Inventec,
Luxshare-ICT và GoerTek (các nhà sản xuất AirPod cho Apple).
796
- INTERNATIONAL CONFERENCE FOR YOUNG RESEARCHERS IN ECONOMICS & BUSINESS 2019
ICYREB 2019
Việt Nam cho đến năm 2020. Như vậy, các DNNVV của Việt Nam đang đứng trước cơ hội rất lớn từ quá
trình chuyển dịch của chuỗi giá trị toàn cầu. Mặc dù vậy, những cơ hội đó sẽ không thể trở thành hiện
thực nếu các doanh nghiệp không biết tận dụng, khai thác. Việt Nam đang phải cạnh tranh với nhiều quốc
gia trong việc trở thành một mắt xích quan trọng trong chuỗi cung ứng toàn cầu. Các đối thủ có thể liệt kê
ra bao gồm Malaysia (cũng có lợi thế về chi phí lao động thấp, môi trường chính trị ổn định), Indonesia,
Phillipines (có ưu thế về công nghệ), Ấn Độ (vừa có lực lượng lao động trẻ, đông đảo lại có thế mạnh về
lĩnh vực dịch vụ và CNTT) hay Mexico (với chi phí lao động tương đối thấp và có vị trí địa lý gần với Mỹ).
Bên cạnh xu hướng phát triển chuỗi giá trị theo hướng khu vực, cách mạng công nghiệp 4.0 đang
tạo điều kiện cho các DNNVV tham gia sâu hơn vào chuỗi giá trị toàn cầu nhờ xu hướng mở rộng quy
mô sản xuất toàn cầu theo hướng mở. Với phương thức sản xuất được hỗ trợ mạnh mẽ bởi internet vạn
vật và trí tuệ nhân tạo, các công ty đa quốc gia liên kết sâu hơn bằng cách mở rộng mạng lưới thuê ngoài
nhằm giảm chi phí. Xu hướng này tạo điều kiện thuận lợi cho các DNNVV của Việt Nam vốn rất năng
động, linh hoạt trong việc thay đổi phương thức sản xuất và có nhiều ý tưởng sáng tạo. Thêm nữa, việc
ứng dụng mạnh mẽ CNTT cũng giúp cho các DNNVV tăng cường kết nối với các công ty đa quốc gia,
tiếp cận các công nghệ hiện đại với chi phí thấp và phương thức vận hành hiệu quả. Sự tiến bộ của khoa
học công nghệ một mặt giúp rút ngắn quá trình sản xuất, chuyên môn hóa các quy trình sản xuất theo
hướng chính xác và hiệu quả, tuy nhiên mặt khác cũng gây ra những tác động tiêu cực nhất định đến các
doanh nghiệp DNNVV Việt Nam nếu muốn tham gia sâu hơn vào chuỗi giá trị toàn cầu. Quy trình sản
xuất hàng loạt được thay thế bằng quy trình sản xuất theo yêu cầu (số lượng sản xuất nhỏ, quy trình sản
xuất ngắn lại) một mặt tạo cơ hội nhưng mặt khác cũng là sức ép đối với các DNNVV do đòi hỏi về sự
chuyên nghiệp, ổn định trong sản xuất. Nếu như trước đây, sản xuất một số lượng sản phẩm nhiều với
thời gian giao hàng lâu, doanh nghiệp còn có khả năng sửa sai hoặc điều chỉnh quy trình sản xuất cho
hiệu quả thì hiện nay sức ép về thời gian cũng như đòi hỏi về chất lượng sản phẩm có thể khiến chi phí
sản xuất của doanh nghiệp bị đội lên, từ đó ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp.
4. Kết luận và khuyến nghị
Mặc dù Việt Nam đã và đang hội nhập sâu vào kinh tế khu vực và toàn cầu, tuy nhiên lợi ích do
quá trình hội nhập mang lại cho nền kinh tế vẫn còn khiêm tốn, thể hiện qua giá trị gia tăng mà các doanh
nghiệp Việt Nam (trong đó DNNVV chiếm trọng lớn) có được khi tham gia chuỗi giá trị toàn cầu vẫn còn
tương đối thấp. Trong bối cảnh xu thế hội nhập thương mại toàn cầu đang có nhiều thay đổi, xu hướng
ứng dụng CNTT ngày càng gia tăng tại các quốc gia, chuỗi giá trị toàn cầu đang có sự chuyển biến đáng
kể, từ đó tạo ra những tác động tích cực và gây ra tác động tiêu cực đối với nền kinh tế Việt Nam nói
chung, các doanh nghiệp DNNVV nói riêng. Thách thức mà các doanh nghiệp DNNVV Việt Nam phải
đối mặt là rất nhiều, tuy nhiên nếu chủ động tận dụng được các cơ hội, hệ thống doanh nghiệp này vẫn có
tiềm năng phát triển trở thành một khu vực năng động và cạnh tranh trong khu vực và toàn cầu. Các
DNNVV một mặt cần tích cực tham gia chuỗi giá trị toàn cầu, mặt khác cần tìm ra các biện pháp phù hợp
để dịch chuyển lên vị trí cao hơn trong chuỗi giá trị bởi chỉ khi các doanh nghiệp Việt Nam, trong đó có
các DNNVV, trở thành những nhà cung ứng địa phương cấp 1 cho các công ty đa quốc gia thì giá trị gia
tăng của Việt Nam trong chuỗi giá trị toàn cầu mới được cải thiện.
Vấn đề mấu chốt mà các doanh nghiệp DNNVV hiện nay cần quan tâm là cần nâng cao khả năng
cạnh tranh và khả năng kết nối.
- Đối với vấn đề nâng cao khả năng cạnh tranh
Khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam nói chung, các doanh nghiệp DNNVV nói
riêng chỉ có thể đạt được nếu quan tâm trước tiên đến hai yếu tố, đó là: (i) Nâng cao năng lực công nghệ
và (ii) nâng cao chất lượng nguồn nhân lực.
Trong nền kinh tế dựa trên tri thức, các ứng dụng của CNTT có thể đem đến cơ hội tuyệt vời cho
các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong việc phát triển và vận dụng các ý tưởng sáng tạo vào hoạt động sản
797
- INTERNATIONAL CONFERENCE FOR YOUNG RESEARCHERS IN ECONOMICS & BUSINESS 2019
ICYREB 2019
xuất kinh doanh. Một trong những ứng dụng của sự phát triển CNTT chính là internet. Như đã biết, nhờ
có internet, thương mại điện tử đang ngày càng nở rộ, giúp các DNNVV giảm thiểu đáng kể chi phí, từ đó
khắc phục được tối đa những hạn chế vốn có như khả năng hạn chế trong việc tiếp cận thị trường mới hay
cạnh tranh với những doanh nghiệp lớn. Để có thể ứng dụng công nghệ vào hoạt động kinh doanh, các
DNNVV cần phải đối mặt với vấn đề chi phí đầu tư, cũng như thiếu cơ sở hạ tầng và kỹ năng CNTT.
Liên quan đến vấn đề này, vai trò chủ động của các DNNVV là vô cùng quan trọng, tuy nhiên chính phủ
cũng cần đứng ra hỗ trợ doanh nghiệp với vai trò bà đỡ, thông qua: phát triển cơ sở hạ tầng viễn thông; có
chính sách hỗ trợ đối với hoạt động nghiên cứu và đổi mới công nghệ cho doanh nghiệp cũng như hỗ trợ
chuyển giao công nghệ và cung cấp thông tin.
Nhằm tối ưu hóa hiệu quả của việc ứng dụng và đổi mới công nghệ, nâng cao chất lượng nguồn
nhân lực là một giải pháp mang tính lâu dài và bền vững. Việc phát triển nguồn nhân lực của các
DNNVV đòi hỏi một sự tiếp cận toàn diện, rộng khắp, liên quan đến: vấn đề cải cách giáo dục; khuyến
khích tinh thần doanh nhân và đổi mới sáng tạo trong xã hội; cơ chế khuyến khích tinh thần tự học và đào
tạo; các chương trình hỗ trợ của chính phủ. Cùng với các biện pháp, chính sách hỗ trợ của Nhà nước, vai
trò của bản thân các doanh nghiệp cũng rất quan trọng. Bên cạnh chú trọng tới vấn đề đào tạo kỹ năng
chuyên môn cho người lao động, các doanh nghiệp cần quan tâm tới việc đào tạo cho người lao động kỹ
năng CNTT, ngoại ngữ, văn hóa, cũng như các kiến thức về pháp lý và hậu cần.
- Đối với vấn đề nâng cao khả năng kết nối
Tìm giải pháp nâng cao năng lực kết nối DNNVV Việt Nam với chuỗi giá trị toàn cầu đã và đang
nhận được sự quan tâm đặc biệt của Chính phủ. Dự án USAID LinkSME (kinh phí 22,1 triệu USD) được
khởi động vào ngày 24/9/20197 là một minh chứng cho điều đó. Dự án này được thiết lập với kỳ vọng cải
thiện hệ sinh thái kết nối chuỗi cung ứng cho DNNVV Việt Nam, thông qua việc tạo ra những thay đổi
mang tính hệ thống của môi trường kinh doanh (cải cách thể chế, đơn giản hóa quy định, thủ tục hành
chính), từ đó nâng cao năng lực cạnh tranh, tăng cường năng lực liên kết cho DNNVV trong các chuỗi giá
trị, tạo tác động lan tỏa, khuyến khích nhiều DNNVV tự tin và chủ động vươn ra các thị trường quốc
tế. Như vậy, sự quyết tâm của Chính phủ là rất cao và những hỗ trợ, ưu đãi mà Chính phủ đang và sẽ tạo
ra là rất lớn, có tham gia được vào chuỗi giá trị toàn cầu hay không phụ thuộc rất lớn vào mong muốn và
nỗ lực của bản thân các doanh nghiệp DNNVV. Các doanh nghiệp cần xác định việc tham gia cung ứng
sản phẩm cho các công ty đa quốc gia là nhu cầu tự thân, là điều kiện tiên quyết để tồn tại và phát triển
trong bối cảnh nền kinh tế hội nhập ngày càng sâu rộng như hiện nay để từ đó đề ra chiến lược kinh
doanh phù hợp.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Abe, M., Troilo, M., Juneja, J. S. and Narain, S. (2012), Policy Guidebook for SME Development
in Asia and Pacifc. Bangkok: United Nations Economic and Social Commission for Asiaand the Pacifc
(ESCAP).
[2] Abonyi, G. (2005), “Transformation of Global Production, Trade and Investment: Global
Value Chains and International Production Networks”, paper presented to the Expert Group Meeting on
SMEs’ Participation in Global and Regional Supply Chains, UNESCAP, Bangkok, November.
[3] Bogers, M., Hadar, R. and Bilberg, A. (2016), “Additive manufacturing for consumer-centric
business models: implications for supply chains in consumer goods manufacturing”, Technological
Forecasting and Social Change, Vol. 102, pp. 225-239.
[4] Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2017), Sách trắng doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam, Hà Nội.
[5] ESCAP (2007), Linking Greater Mekong Subregion Enterprises to International Markets: The
Role of Global Value Chains, International Production Networks and Enterprise Clusters, Studies in
Trade and Investment No. 59. Bangkok: United Nations.
7
https://bnews.vn/thuc-day-nang-luc-ket-noi-cua-doanh-nghiep-nho-va-vua/134563.html.
798
nguon tai.lieu . vn