Xem mẫu

  1. XU HƯỚNG ĐÀO TẠO NGHỀ CHO LAO ĐỘNG NÔNG THÔN VIỆT NAM TRONG BỐI CẢNH HỘI NHẬP QUỐC TẾ VÀ THỰC HIỆN TPP ThS. Lê Thị Hoài Thu Trường Đại học Kinh tế Quốc dân Tóm tắt TPP được đánh giá là Hiệp định của thế kỷ XXI. Hiệp định này sẽ có ảnh hưởng rất lớn đến mọi mặt phát triển của nông nghiệp Việt Nam, mà trong đó lực lượng lao động nông thôn đóng vai trò là chủ thể của các tác động đó. Bài viết phân tích các nguy cơ, thách thức cho lực lượng lao động nông thôn khi Việt Nam hội nhập quốc tế và TPP có hiệu lực. Nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực nông nghiệp là con đường được lựa chọn để trang bị cho nông dân, lao động nông thôn ứng phó với các thay đổi lớn trong nông nghiệp sắp tới. Trên cơ sở phân tích thực trạng đào tạo lao động nông thôn của nước ta những năm qua (2009-2013); đánh giá những điểm đạt được và chưa đạt được trong công tác đào tạo lao động nông nghiệp. Từ đó bài viết chỉ ra một số xu hướng trong đào tạo lao động nông thôn nhằm thích ứng với quá trình hội nhập, tăng khả năng cạnh tranh của nông dân Việt Nam khi gia nhập các thị trường lao động nhóm. Chất lượng lao động nông thôn thông qua đào tạo là yếu tố then chốt trong việc giữ vững và đẩy mạnh vị thế nông nghiệp Việt Nam thời hội nhập. 1. Đặt vấn đề Sau 30 năm đổi mới, nông nghiệp Việt Nam đã có những thành tựu phát triển vượt bậc. Thành tựu trong lĩnh vực nông nghiệp đã góp phần tạo nên thành tựu kinh tế, đồng thời, là một yếu tố căn bản tạo nên tính ổn định chính trị - xã hội, từ đó trở thành đòn bẩy quan trọng cho những bước tiến vững chắc của nền kinh tế. Trong quá trình phát triển, cũng như các ngành kinh tế khác, ngành nông nghiệp thường xuyên phải đối mặt với những khó khăn và thách thức, đặc biệt trong những năm gần đây khi Việt Nam tham gia quá trình hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng. Gần đây nhất, cùng với 11 nước thành viên còn lại, Việt Nam đã 417
  2. chính thức kết thúc đàm phán Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP). Theo đó, chỉ vài tháng nữa TPP sẽ được kí kết và các cam kết sẽ có hiệu lực. Tham gia TPP mang đến cơ hội rất lớn cho nông nghiệp của Việt Nam khi được tiếp cận với một thị trường xuất khẩu rộng lớn với nhiều mặt hàng xuất khẩu nông nghiệp chủ lực của Việt Nam có mức thuế bằng 0%. Ngoài ra, cơ hội khác lớn hơn là vấn đề đầu tư xuyên quốc gia đi kèm với khoa học công nghệ tiên tiến và nâng cao trình độ năng lực lao động, tạo điều kiện thuận lợi cho nâng cao quy mô phát triển sản xuất, đẩy mạnh quá trình tái cơ cấu ngành theo hướng nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững. Tuy nhiên, cũng phải nhìn nhận rằng, tham gia Hiệp định TPP, ngành nông nghiệp sẽ phải đối mặt với nhiều thách thức lớn khi phải chịu sức ép cạnh tranh lớn với hàng nhập khẩu ngay trên thị trường trong nước. Tuy cắt giảm thuế nhưng nhiều nước vẫn còn hàng rào phi thuế cao. Các quy định khác của TPP về bảo vệ bản quyền (giống, thuốc bảo vệ thực vật, phân bón, thuốc thú y), lao động, nguồn gốc xuất xứ, bảo vệ môi trường cũng rất chặt chẽ. Đặc biệt, đối với những ngành kém lợi thế, sức cạnh tranh yếu sẽ bị thiệt hại ở nhiều mức độ khác nhau. Do đó, TPP cũng tạo ra những yếu tố có thể kìm hãm phát triển nông nghiệp. Để nắm bắt kịp thời các cơ hội, từ đó đổi mới và phát triển nông nghiệp thành công, cũng cần làm rõ ràng và cụ thể các yếu tố tác động mang tính hạn chế và khả năng tiếp thu cơ hội mới một cách toàn diện. Một trong những yếu tố đó là nông dân - một chủ thể trực tiếp thực hiện đổi mới, phát triển nông nghiệp, nhưng cũng là đối tượng chịu tác động mạnh mẽ, ảnh hưởng nặng nề nhất từ TPP. Khó khăn lớn nhất đối với nông dân và lao động nông nghiệp nói chung là hầu như chưa được đào tạo nghề, dẫn đến hạn chế về trình độ lao động và áp dụng kỹ thuật công nghệ trong sản xuất nông nghiệp. Đồng thời dẫn đến năng suất và chất lượng sản phẩm có sức cạnh tranh thấp. Việc thực hiện còn lỏng lẻo, thiếu các chế tài và biện pháp thực hiện, đặc biệt trong lĩnh vực kiểm soát chất lượng vệ sinh an toàn thực phẩm. Vì vậy, những rào cản kỹ thuật như “biện pháp vệ sinh và kiểm dịch động thực vật (SPS)” có thể là rào cản ngăn chặn khả năng xuất khẩu nông sản Việt Nam sang thị trường các nước. Nếu ngành nông nghiệp và người nông dân không được chuẩn bị kỹ để hội nhâp, không có những chính sách và cơ chế vận hành phù hợp, mở cửa thị trường và thương mại tự do sẽ khiến sản phẩm nội địa có thể bị thua ngay trên sân nhà và sinh kế của nông dân sản xuất nhỏ cũng sẽ bị tác động mạnh. 418
  3. 2. Những thách thức cho lao động nông thôn khi Việt Nam tham gia TPP Với hơn 23 triệu lao động đang làm việc trong lĩnh vực nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản, những thách thức mà lao động nông thôn Việt Nam sẽ gặp phải khi TPP chính thức có hiệu lực, gắn liền với những khó khăn mà ngành nông nghiệp đang phải đối mặt khi hội nhập quốc tế. 2.1. Những thách thức về việc làm và thu nhập khi có sự gia tăng ồ ạt các nguồn hàng nhập khẩu và quy định rào cản kỹ thuật của các nước Nguy cơ mất việc do sự phá sản của các nông hộ Nền nông nghiệp nước ta phổ biến là sản xuất nhỏ, quy mô hộ gia đình là chủ yếu, trình độ kỹ thuật lạc hậu cùng với những ràng buộc về vốn sản xuất. Do vậy, không thể ứng dụng được những kỹ thuật, công nghệ hiện đại, phương pháp sản xuất tiên tiến vào quá trình cung ứng chuỗi sản phẩm nông nghiệp. Các nông hộ sản xuất quy mô nhỏ thường phải chịu rủi ro rất lớn về dịch hại, thời tiết, năng suất quá thấp, chất lượng giống thấp, chi phí đầu vào cao, liên kết chuỗi hầu như không có, rất nhiều khâu trung gian khi đưa sản phẩm đến được người tiêu dùng,... khiến cho giá thành sản phẩm bị đội giá lên rất cao, khó cạnh tranh được với dòng sản phẩm ngoại sẽ chảy ồ ạt vào Việt Nam khi TPP có hiệu lực, vì hầu hết các mặt hàng nông sản xuất khẩu được giảm thuế về 0%, hoặc còn duy trì ở mức thấp và có lộ trình giảm. Bên cạnh đó, khi hội nhập, mỗi quốc gia sẽ tìm mọi biện pháp để bảo hộ nền sản xuất trong nước, vì thế vấn đề hàng rào kỹ thuật và vệ sinh dịch tễ có thể gây ra những rủi ro lớn hơn nhiều so với việc giảm thuế suất về 0%. Trước áp lực này, nguy cơ phá sản của nông hộ là có thể nhìn thấy được, lao động nông thôn không hề có bất cứ một lá chắn kinh tế nào bảo vệ sẽ mất việc, đồng thời có thể phải gánh chịu các thiệt hại kinh tế to lớn do mất thị trường vào doanh nghiệp nhập khẩu hoặc số ít các doanh nghiệp lớn trên thị trường. Ngoài ra, quy trình sản xuất theo lối nông hộ cũng khiến chất lượng nông sản khó đồng nhất. Nguyên liệu để sản xuất nông sản vẫn bị phụ thuộc vào Trung Quốc với chất lượng chưa được kiểm soát cũng khiến cho nông sản Việt Nam khó vượt qua được các đợt kiểm tra chất lượng đột xuất. Việc lượng tồn dư chất hóa học, kháng sinh, vi sinh vật trong nông sản khiến hàng xuất khẩu bị trả lại, gây thiệt hại rất cao. Năng suất và trình độ lao động thấp làm giảm khả năng cạnh tranh khi thị trường lao động bị thay đổi. 419
  4. Năng suất lao động cá nhân cùng năng suất lao động của một nhóm lao động trong doanh nghiệp là cơ sở quan trọng nhất, là chìa khoá cho năng suất lao động xã hội, góp phần tăng khả năng cạnh tranh của mỗi tổ chức, ngành kinh tế hay của quốc gia. Có rất nhiều nhân tố tác động đến năng suất lao động cá nhân, tuy nhiên các nhân tố chủ yếu là các yếu tố gắn với bản thân người lao động (kỹ năng, kỹ xảo, cường độ lao động, thái độ lao động, tinh thần trách nhiệm…), dụng cụ lao động. Sự thành thạo sáng tạo trong sản xuất của người lao động và mức độ hiện đại của công cụ lao động sẽ quyết định năng suất lao động cá nhân cao hay thấp. Trong lịch sử phát triển của mình, Việt Nam có nền tảng là kinh tế nông nghiệp, nhưng do sản xuất manh mún trong một thời gian quá dài, tất cả các yếu tố gắn với cá nhân người lao động kể trên đều trong tình trạng suy thoái nghiêm trọng. Người nông dân cha truyền con nối hiện nay chỉ là những lao động giản đơn, lao động mùa vụ, tác phong rề rà chậm chạp, thiếu sự sáng tạo, không có nhu cầu và khả năng gia tăng quy mô đất đai để tạo dựng những trang trại sản xuất quy mô lớn, có cơ hội tiếp cận công nghệ hiện đại. Những điều này, kéo theo nguy cơ mất việc của lao động nông thôn, đồng thời tư duy ngại thay đổi, trì trệ cũng làm cản trở những thăng tiến nghề nghiệp khi các lao động này thay đổi chỗ làm. Bên cạnh đó, nguồn nhân lực của Việt Nam trẻ và dồi dào nhưng trình độ chuyên môn kỹ thuật thấp. Năm 2013, lực lượng lao động qua đào tạo chỉ chiếm gần 18%, năm 2015, tỷ lệ này là 19,5%. Lao động nông nghiệp cũng không ngoại lệ. Điều này có thể gây thất nghiệp và giảm thu nhập khi các ngành nghề phát triển mạnh nhờ TPP và đòi hỏi yêu cầu cao về chất lượng lao động. Bên cạnh đó, lao động từ các nước láng giềng có thể là sự cạnh tranh gay gắt cho Việt Nam khi mà Cộng đồng Kinh tế ASEAN (AEC) chính thức hình thành. 2.2. Thách thức từ thực thi các tiêu chuẩn quốc tế về lao động Khi tham gia TPP, ngoài việc phải áp dụng các tiêu chuẩn về lao động của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO), các quốc gia thuộc TPP sẽ phải áp dụng nhiều tiêu chuẩn cao hơn nữa. Trong đó, đáng lưu ý là “đảm bảo các điều kiện lao động chấp nhận được” gồm tiền công tối thiểu, thời giờ làm việc, an toàn vệ sinh lao động, lao động trẻ em. Về cơ bản, pháp luật Việt Nam hiện nay đã có những quy định cụ thể về tiền công tối thiểu, thời gian làm việc và an toàn vệ sinh lao động, lao động trẻ 420
  5. em. Nhưng hiệu quả thực tế của những chuẩn mực này vẫn còn nhiều điểm chưa đáp ứng được yêu cầu theo TPP. Điều đó đồng nghĩa với việc chúng ta sẽ không được hưởng mức thuế nhập khẩu 0% từ các nước thành viên nếu không cải thiện các tiêu chuẩn này. Thu nhập của người lao động Việt Nam nhìn chung còn thấp; lương tối thiểu mới chỉ đáp ứng khoảng 70% nhu cầu tối thiểu và khoảng 80% lao động Việt Nam không có tích lũy hoặc chỉ có mức tích lũy dưới 2 triệu đồng một người mỗi tháng. Mức lương tối thiểu tại Việt Nam hiện nay theo nhiều đánh giá vẫn chưa thể đáp ứng nhu cầu sinh hoạt tối thiểu và tích lũy tiết kiệm tối thiểu. Trên thực tế, nhiều doanh nghiệp chế biến nông sản trong nước khi gia công hay hợp tác sản xuất với nước ngoài đã đáp ứng tiêu chuẩn lao động cao (như tiêu chuẩn sạch, xanh, trách nhiệm xã hội). Tuy nhiên, việc đảm bảo an toàn, vệ sinh lao động tại đa số các doanh nghiệp Việt Nam hiện vẫn chưa được đảm bảo. Các trang thiết bị, công cụ bảo hộ an toàn cho người lao động còn thiếu thốn, chế tài xử phạt của nhà nước đối với các doanh nghiệp vi phạm an toàn, vệ sinh lao động chưa có tính răn đe cao. Ngoài ra, còn có một thực tế là tỷ lệ lao động nông thôn ở lứa tuổi 40-55 là rất cao. Giới hạn về tuổi tác chính là một rào cản khi sản xuất nông nghiệp có những thay đổi mạnh mẽ thời gian tới. Dù thế, nhóm lao động này thời gian qua lại không hề có tích lũy tiết kiệm, vì vậy khi đối diện với nguy cơ mất việc, đây có thể là một gánh nặng đối với an sinh xã hội. Tóm lại, để có được thành công từ TPP, Việt Nam sẽ phải hết sức nỗ lực, biến thách thức thành cơ hội nhằm đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế, giải quyết việc làm và tăng thu nhập cho người lao động. Theo đó, nước ta cần có những điều chỉnh cần thiết và chủ động hơn trong việc đẩy mạnh chất lượng nguồn lao động để đáp ứng nhu cầu của các doanh nghiệp mở rộng đầu tư sản xuất khi TPP có tác động thúc đẩy xuất khẩu. 3. Thực trạng đào tạo nghề cho lao động nông thôn Việt Nam hiện nay Nhận thức rõ được các cơ hội cũng như các nguy cơ có thể tác động đến nông nghiệp và lao động nông thôn, Chính phủ Việt Nam đã có rất nhiều nỗ lực trong việc xây dựng, củng cố nền tảng tri thức nghề nghiệp cho đội ngũ lao động này. Tuy nhiên vẫn còn rất nhiều bất cập trong công tác đào tạo nghề cho lao động nông thôn hiện nay. 421
  6. Theo báo cáo của Cục thống kê, đến thời điểm 01/7/2015, lao động 15 tuổi trở lên đang làm việc trong 9 tháng năm nay ước tính 52,72 triệu người, giảm 177,3 nghìn người so với cùng kỳ năm trước, trong đó lao động làm việc trong ngành nông, lâm nghiệp và thủy sản là 23,35 triệu người, giảm 1523,7 nghìn người, chiếm 44,3%; lao động công nghiệp và xây dựng là 11,85 triệu người, tăng 756,4 nghìn người, chiếm 22,5%; lao động dịch vụ là 17,52 triệu người, tăng 590 nghìn người, chiếm 33,2%. [3] Bảng 1. Thống kê lực lượng lao động khu vực nông nghiệp, nông thôn giai đoạn 2013-2015 Quí 2/ Chỉ tiêu Quí 2/ 2014 Quí 2/ 2015 2013 Lực lượng lao Thành thị 16, 29 16 03 16,87 động (triệu Nông thôn 37, 40 37,68 37,45 người) Số lao động Nông, lâm nghiệp, 24,83 25,09 23,35 đang làm việc thủy sản (triệu người) Công nghiệp 10,84 11,26 11,85 Dịch vụ 16,55 17,03 17,52 Nguồn: Tổng cục Thống kê Như vậy, so với cùng ký năm trước lực lượng lao động (LLLĐ) trong lĩnh vực nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản đã giảm tỷ trọng trong tổng số lao động đang làm việc. Tuy thế LLLĐ ở khu vực nông thôn vẫn chiếm tỷ lệ xấp xỉ 69% trong tổng số lao động cả nước, và theo tính toán của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn mỗi năm sẽ có thêm khoảng 1 triệu người đến tuổi lao động. Như vậy, theo mục tiêu, mỗi năm sẽ có khoảng 2 triệu lao động nông thôn cần được đào tạo nghề để chuyển đổi sang các ngành nghề phi nông nghiệp. Tuy nhiên, công tác đào tạo nghề cho lao động nông thôn ở nước ta chưa được coi trọng đúng mức. Nhiều bộ, ngành, địa phương, cán bộ và xã hội nhận thức chưa đầy đủ về đào tạo nghề cho lao động nông thôn, coi đào tạo nghề chỉ là cứu cánh, có tính thời điểm, không phải là vấn đề quan tâm thường xuyên, liên tục và có hệ thống. Công tác đào tạo nghề cho lao động nông thôn còn cầm chừng, chưa có sự vào cuộc quyết liệt của lãnh đạo các cấp, công tác điều tra, khảo sát và dự báo nhu cầu dạy nghề cho lao động nông thôn còn gặp nhiều khó khăn. Ngoài ra, nhiều nông dân chưa nhận thức đầy đủ về tầm quan trọng của việc đào tạo nghề nên 422
  7. không mặn mà với các trung tâm dạy nghề. Nhiều gia đình chỉ tính đến việc cho con em mình theo học nghề khi không đủ chỉ tiêu để theo học bất kỳ hệ đào tạo nào khác. Thực tế cho thấy, công tác đào tạo nghề mới chỉ thu hút được 25% số lao động trẻ ở nông thôn tham gia, và tỷ lệ này còn thấp hơn ở nhóm lao động đã có tuổi (trên 35 tuổi). Để giải quyết thực trạng đào tạo nghề cho lao động nông thôn nước ta, ngày 27/11/2009, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 1956/QĐ-TTg phê duyệt Đề án “Đào tạo nghề cho lao động nông thôn đến năm 2020” (gọi tắt là Đề án 1956). Trong Quyết định này đã thể hiện rõ quan điểm của Đảng và Nhà nước ta là: “Đào tạo nghề cho lao động nông thôn là sự nghiệp của Đảng, Nhà nước, của các cấp, các ngành và xã hội nhằm nâng cao chất lượng lao động nông thôn, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn. Nhà nước tăng cường đầu tư để phát triển đào tạo nghề cho lao động nông thôn, có chính sách bảo đảm thực hiện công bằng xã hội về cơ hội học nghề đối với mọi lao động nông thôn, khuyến khích, huy động và tạo điều kiện để toàn xã hội tham gia đào tạo nghề cho lao động nông thôn”. Đề án 1956 đã đề ra mục tiêu tổng quát: “Bình quân hằng năm đào tạo nghề cho khoảng 1 triệu lao động nông thôn, trong đó đào tạo, bồi dưỡng 100.000 lượt cán bộ, công chức xã. Nâng cao chất lượng và hiệu quả đào tạo nghề, nhằm tạo việc làm, tăng thu nhập của lao động nông thôn; góp phần chuyển dịch cơ cấu lao động và cơ cấu kinh tế, phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn…”. Đối tượng của Đề án này là lao động nông thôn trong độ tuổi lao động, có trình độ học vấn và sức khỏe phù hợp với nghề cần học. Trong đó ưu tiên đào tạo nghề cho các đối tượng là người thuộc diện được hưởng chính sách ưu đãi, người có công với cách mạng, hộ nghèo, hộ có thu nhập tối đa bằng 150% thu nhập của hộ nghèo, người dân tộc thiểu số, người tàn tật, người thuộc diện có đất thu hồi… Đề án đã đề ra đồng bộ các chính sách đối với người học nghề, chính sách đối với người dạy nghề (bao gồm giáo viên, giảng viên trong các cơ sở dạy nghề; cán bộ kỹ thuật, kỹ sư, người lao động có tay nghề cao tại các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất, kinh doanh và các trung tâm khuyến nông, lâm, ngư, nông dân sản xuất giỏi tham gia dạy nghề) và chính sách đối với các cơ sở dạy nghề cho lao động nông thôn. Một trong những khác biệt của đào tạo nghề cho lao động nông thôn theo Đề án 1956 so với các chương trình, dự án trước đó về dạy nghề cho nông dân, là yêu cầu cao về “đầu ra”. Theo mục tiêu của Đề án 1956, từ nay đến năm 2015, 423
  8. 70% số lao động nông thôn sau khi được đào tạo nghề có việc làm phù hợp với nghề được đào tạo và tỷ lệ này đạt được là 80% vào những năm sau đó. Kết quả đạt được của Đề án qua hai giai đoạn 2009-2013 Theo tổng hợp của Ban chỉ đạo thực hiện Đề án từ báo cáo của các địa phương trên cả nước, trong giai đoạn từ 2010 đến 2013, cả nước đã hỗ trợ dạy nghề cho 1,6 triệu lao động nông thôn. Số người học nghề có việc làm mới hoặc làm nghề cũ nhưng có năng suất và thu nhập cao hơn đạt 79,7%. Trong đó trên 627 nghìn người làm nghề phi nông nghiệp được doanh nghiệp tuyển dụng hoặc bao tiêu sản phẩm chiếm 56,3%; trên 62 nghìn người đã thoát nghèo; gần 50 nghìn người có thu nhập trung nay đã có thu nhập khá; số có việc làm trong lĩnh vực nông nghiệp 522 nghìn người, chiếm 43,7%. Công tác chỉ đạo, điều hành và tổ chức dạy nghề cho lao động nông thôn được tăng cường.[1] Bên cạnh đó, dù mới triển khai thực hiện từ năm 2010, nhưng các ngành, các địa phương đã có những hoạt động thiết thực, sáng tạo, đã đưa ra nhiều mô hình dạy nghề và hình thức dạy nghề thích hợp. Một số mô hình đã bước đầu triển khai có hiệu quả, như mô hình đào tạo nghề cho lao động ở các vùng chuyên canh, vùng nguyên liệu cho các cây công nghiệp như thuốc lá, chè…(có sự phối hợp giữa địa phương và các doanh nghiệp); mô hình dạy nghề cho lao động trong các làng nghề (sự phối hợp giữa địa phương, các cơ sở dạy nghề và các làng nghề); mô hình dạy nghề ngắn hạn cho người nông dân ở cộng đồng (sự phối hợp giữa địa phương, tổ chức xã hội - nghề nghiệp và các trung tâm khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư)… Hoạt động dạy nghề cho nông dân và lao động nông thôn không chỉ huy động các cơ sở chuyên dạy nghề mà còn thu hút được sự tham gia của các viện nghiên cứu, các trường đại học; sự tham gia giảng dạy của những lao động kỹ thuật từ các doanh nghiệp; những nghệ nhân, người có tay nghề cao trong các làng nghề… Bản thân người nông dân và lao động nông thôn là những đối tượng được thụ hưởng chính sách cũng đã tích cực, ủng hộ chủ trương của Chính phủ, từ việc xác định được nhu cầu học nghề của mình phù hợp với nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội của địa phương đến việc tham gia đầy đủ các khóa đào tạo. Qua thí điểm một số mô hình đào tạo nghề cho lao động vùng chuyên canh ở một số địa phương (như Lạng Sơn, Cao Bằng, Tây Ninh, Gia Lai…) cho thấy, kỹ năng nghề của người nông dân đã được nâng lên, do đó năng suất lao động, chất lượng cây trồng và thu nhập đã tăng lên rõ rệt. Đặc biệt, trong quá trình đào tạo, người nông dân còn được cung cấp những kỹ năng về hội nhập kinh tế, về các tiêu chuẩn an toàn, vệ sinh thực phẩm của thế giới và Việt Nam; 424
  9. về cách ứng xử với môi trường (công nghệ sạch) và bước đầu còn được trang bị những kiến thức về khởi sự doanh nghiệp. Những kết quả bước đầu này đã tạo động lực để thu hút những lao động nông thôn khác trong thôn, bản, làng, xã tham gia các khoá đào tạo nghề được tổ chức tại địa bàn. Các doanh nghiệp, các cơ sở dạy nghề tham gia dạy nghề cho nông dân và lao động nông thôn, không chỉ thuần túy dạy nghề mà còn tư vấn, hướng dẫn người nông dân cách thức tổ chức sản xuất kinh doanh, bảo đảm “đầu ra” hoặc là sản phẩm hoặc là tiếp nhận lao động sau khi được học nghề. Tại những địa bàn nghèo, các doanh nghiệp ngoài việc hỗ trợ kinh phí đào tạo nghề, còn hỗ trợ đầu tư các công trình xã hội, như trường học, xây dựng đường liên thôn, liên bản…, góp phần xóa đói, giảm nghèo, bảo đảm an sinh xã hội, xây dựng nông thôn mới. Những hạn chế trong việc thực hiện Đề án đào tạo nghề cho lao động thôn Mặc dù công tác đào tạo nghề cho lao động nông thôn đã có nhiều thay đổi. Tuy nhiên, kết quả, hiệu quả dạy nghề cho lao động nông thôn chưa đạt được như mục tiêu của Đề án. Việc xác định danh mục nghề đào tạo cho lao động nông thôn còn dàn trải, chưa xuất phát từ quy hoạch sản xuất nông nghiệp, quy hoạch xây dựng nông thôn mới và yêu cầu làm nông nghiệp tiên tiến hiện đại gắn với tái cơ cấu ngành nông nghiệp. Một số tỉnh thành phố phê duyệt định mức chi phí theo thời gian khóa học hoặc theo nhóm nghề nông nghiệp đào tạo là chưa đúng theo quy định. Một số địa phương, nhu cầu về công nhân kỹ thuật công nghiệp tại các huyện thị khá cao, trong khi ngành nghề đào tạo cho lao động nông thôn của tỉnh lại thiên về kỹ thuật nông nghiệp. Có tỉnh, hệ thống các khu công nghiệp phát triển nhanh, nhu cầu công nhân lành nghề về công nghiệp nặng tăng nhưng tỉnh lại mở các lớp may công nghiệp, trồng cây cảnh, hoặc nuôi trồng thủy sản. Bên cạnh đó, có tình trạng đúng chuyên môn đào tạo nhưng chất lượng nguồn nhân lực thấp không đáp ứng được nhu cầu lao động của doanh nghiệp. Thực trạng đó đã gây ra tình trạng vừa thừa, vừa thiếu không đáp ứng được nhu cầu lao động thực tế của địa phương. Nhiều lao động đã được đào tạo nghề nhưng khi làm việc tại các doanh nghiệp, khu công nghiệp lại không đáp ứng đủ tiêu chuẩn.[4] Một số địa phương thí điểm sát nhập cơ sở giáo dục dạy nghề với Trung tâm giáo dục thường xuyên, nhưng thực hiện không thống nhất, lúng túng trong trong tổ chức hoạt động, chưa phát huy được số biên chế cán bộ, giáo viên đông đảo của trung tâm giáo dục thường xuyên và dạy nghề, giới thiệu việc làm cho người lao động trên địa bàn. Một số địa phương chưa thực hiện đúng chỉ đạo của Ban chỉ đạo Trung ương về việc: Không tổ chức dạy nghề cho lao động nông 425
  10. thôn khi chưa xác định được nơi làm việc và mức thu nhập có được sau khi học nghề. Công tác kiểm tra, giám sát, thống kê kết quả, hiệu quả dạy nghề cho lao động nông thôn còn hạn chế, nhất là ở cấp xã. [1] Bên cạnh đó, việc thực hiện chính sách đối với giáo viên, giảng viên dạy nghề còn nhiều bất cập. Để nâng cao trình độ cho lao động nông thôn, trong quá trình dạy nghề nông dân cần phải được tiếp cận với tri thức khoa học tiên tiến hiện đại trong lĩnh vực nông nghiệp. Điều này đòi hỏi đội ngũ giáo viên giảng viên phải có trình độ chuyên môn cao cũng như cách tiếp cận phù hợp đối với đối tượng người học có trình độ hạn chế. Đồng thời, các cơ sở đào tạo phải được trạng bị các phương tiện giảng dạy đồng bộ. Mặc dù cả hai vấn đề này đã được đề cập đến trong Đề án, tuy nhiên trong quá trình tổ chức thực hiện còn nhiều bất cập. Hơn thế nữa, đối với vấn đề hội nhập quốc tế trong phát triển nông nghiệp, cũng như các trở ngại, khó khăn cho nông dân khi Việt Nam tham gia các Hiệp định thương mại nói chung và TPP nói riêng vẫn chưa được đề cập đến trong nội dung đào tạo. Nông dân nói chung và lao động được đào tạo nói riêng vẫn chưa được chuẩn bị về tâm lí cũng như có kế hoạch sản xuất để thích ứng với các thay đổi của thị trường khi các hiệp định thương mại trên có hiệu lực. 4. Xu hướng đào tạo nghề cho lao động nông thôn Việt Nam trong bối cảnh tham gia TPP Từ việc phân tích các thách thức cho lao động nông thôn trong đó có nông dân Việt Nam khi gia nhập TPP và thực trạng đào tạo nghề cho lao động nông thôn hiện nay, có thể thấy quá trình công nghiệp hoá, đô thị hoá, và hội nhập quốc tế đã, đang và sẽ làm “dư thừa” một lượng lao động nông nghiệp và đã tạo ra cầu về lao động phi nông nghiệp. Một lượng lao động nông nghiệp buộc phải chuyển sang các nghề khác tại nông thôn hoặc trở thành lao động công nghiệp. Mặt khác, để đảm bảo an ninh lương thực, nuôi sống 99 triệu dân vào năm 2020 và duy trì lợi thế cạnh tranh về xuất khẩu lương thực và hàng nông sản, Việt Nam phải áp dụng mạnh mẽ tiến bộ của khoa học và công nghệ vào sản xuất nông nghiệp để tăng năng suất lao động và nâng cao chất lượng sản phẩm hàng hoá. Điều này đòi hỏi người nông dân phải trở thành những “chuyên gia” trong lĩnh vực nông nghiệp, phải trở thành những nông dân hiện đại. Từ đây hình thành những xu hướng chuyển dịch, đồng thời hình thành các nhóm lao động có nhu cầu khác nhau và do đó tạo ra những xu hướng trong đào tạo nghề cho lao động nông thôn. 426
  11. Xu hướng thứ nhất là: từ nông dân sản xuất truyền thống trở thành nông dân sản xuất hiện đại. Đây sẽ là nhóm lao động nông thôn có thể duy trì vị thế và nâng cao năng lực cạnh tranh của Việt Nam trong lĩnh vực xuất khẩu nông sản khi tham gia TPP. Công tác đào tạo nghề cho nhóm đối tượng này cần cho họ thấy rõ được lợi ích cũng như khó khăn khi gia nhập thị trường nông sản thế giới. Bên cạnh việc hiểu rõ các quy định, tiêu chuẩn của mỗi quốc gia, mỗi thị trường thì nội dung đào tạo cũng cần cung cấp cho họ những tri thức hiện đại về sản xuất nông nghiệp và quản lí kinh tế. Tùy theo khả năng nhận thức và tiềm lực tài chính của mỗi cá nhân mà nhóm đối tượng này có thể trở thành các chủ trang trại, nông dân tham gia hợp tác xã nông nghiệp (tổ, hội nhóm,…) hay nông dân tham gia chuỗi liên kết. Thực tế thì nhóm nông dân tham gia hợp tác xã nông nghiệp và tham gia chuỗi liên kết đã hình thành và sẽ phát triển mạnh trong tương lai. Về hình thức đào tạo, do đặc thù của sản xuất nông nghiệp, người nông dân làm việc theo mùa vụ, nên các khoá đào tạo cần gắn với việc vừa học, vừa làm việc của người nông dân, hoặc phải lựa chọn thời gian nông nhàn của người dân để tổ chức khoá học cho phù hợp. Mặt khác, do tính đa dạng của vật nuôi, cây trồng nông nghiệp, các khoá học nên được tổ chức gắn với thời kỳ sinh trưởng của vật nuôi, cây trồng. Điều này đòi hỏi việc xây dựng chương trình đào tạo phải rất linh hoạt và khoa học. Xu hướng thứ hai: từ lao động nông nghiệp (nông dân) sang lao động phi nông nghiệp ở nông thôn. Trong bối cảnh cơ cấu lại nền kinh tế, cơ cấu lại sản xuất nông nghiệp trong quá trình hội nhập hiện nay, xu hướng chuyển dịch ngành nông nghiệp và kinh tế ở nông thôn, là chuyển mạnh sang phát triển các ngành nghề mới, dựa trên nền tảng công nghệ ngày càng hiện đại. Với định hướng phát triển nông nghiệp xuất khẩu nên cần chú trọng đào tạo cho lao động những ngành, nghề chế biến nông sản phẩm xuất khẩu, nhằm đáp ứng được yêu cầu lao động của các doanh nghiệp, kể cả các doanh nghiệp hoạt động ở nông thôn. Mặt khác, cơ cấu lại nền kinh tế là giảm thiểu các ngành, nghề và sản phẩm có hàm lượng lao động cao. Theo xu hướng này, công tác đào tạo lao động nông thôn có thể tận dụng các ngành thủ công truyền thống là thế mạnh của địa phương, hoặc định hướng phát triển ngành nghề tiểu thu công nghiệp mới phù hợp với định hướng của địa phương. Xu hướng thứ ba: từ lao động nông nghiệp hoặc lao động phi nông nghiệp ở nông thôn trở thành lao động công nghiệp tại các khu công nghiệp, doanh nghiệp 427
  12. sản xuất kinh doanh, dịch vụ ở nông thôn. Theo xu hướng này, công tác đào tạo nghề cho lao động nông thôn phải bám sát với tình hình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước và từng địa phương, đáp ứng nhu cầu sản xuất, kinh doanh và có hiệu quả thiết thực. Trong quá trình đào tạo, đồng thời với việc nắm thông tin về nhu cầu sử dụng lao động, cần thiết phải khảo sát nhu cầu học nghề của đối tượng, nghĩa là cần có sự phân nhóm đối tượng để tổ chức các khoá đào tạo phù hợp. Do đặc thù của sản xuất ở nông thôn là có thể sử dụng lao động từ rất trẻ cho đến sau độ tuổi lao động (theo quy định của pháp luật lao động). Vì vậy, có thể có những đối tượng chỉ có thể tham gia được các khoá đào tạo ngắn hạn, nhưng cũng có nhóm đối tượng (ví dụ từ 16- 24 tuổi) có thể và có điều kiện tham gia các khoá đào tạo dài hạn. Mặt khác, cần thiết phải phân các nhóm đối tượng trên trình độ học vấn. Đối với những người có trình độ học vấn thấp, họ có thể theo học các khoá dạy nghề ngắn hạn. Ngược lại, đối với những người có học vấn cao hơn (THCS, PHPT..) có đủ điều kiện có thể theo các khoá học nghề ở trình độ trung cấp hoặc cao đẳng nghề. Hơn nữa, cũng phải khảo sát đặc điểm và thói quen canh tác của người nông dân ở các vùng miền khác nhau để có thể có các hình thức đào tạo phù hợp. Đồng thời trong quá trình đào tạo cần xây dựng được mối liên kết giữa chất lượng đào tạo với nhu cầu của các doanh nghiệp trên địa bàn. Nhằm giải quyết bài toán việc làm đầu ra cho các đối tượng được đào tạo. Xu hướng thứ tư: lao động nông thôn chuyển thành lao động công nghiệp, dịch vụ ở các đô thị (dịch chuyển nơi cư trú). Trên thực tế thì xu hướng này đã diễn ra trong nhiều năm gần đây, khi rất nhiều lao động nông thôn đổ về các thành phố kiếm việc. Việc đào tạo nghề cho các đối tượng này thường rất khó xác định đúng được nhu cầu thực sự của người học. Lao động thường tự phát đổ về các thành phố, đô thị (cũ và mới) gặp việc gì làm việc đấy, phần lớn là lao động phổ thông không qua đào tạo. Ưu điểm của nhóm đối tượng này là tuổi đời khá trẻ (16 - 35 tuổi), do đó nếu được đào tạo thì khả năng lĩnh hội tri thức sẽ rất cao. Xu hướng thứ năm: Tạo ra một dòng di dân quốc tế mới, thông qua xuất khẩu lao động hoặc ra định cư ở nước ngoài với người thân. Đối với nhóm đối tượng này, việc đào tạo nghề gần như bắt buộc và kết quả đầu ra là lao động phải đáp ứng được yêu cầu của đối tác nước ngoài. Do đó, chương trình đào tạo, cách thức tổ chức và đánh giá kết quả đầu ra sẽ bám sát theo nhu cầu của doanh nghiệp nước về lĩnh vực mà lao động được đào tạo. Theo xu hướng này, chúng ta sẽ 428
  13. tránh được hiện tượng người được đào tạo xong không có được việc làm. Tuy nhiên có một thực tế là, lượng lao động sau khi hoàn thành hợp đồng xuất khẩu lao động tạo các nước phát triển hơn, thường không có xu hướng tham gia vào thị trường trong lao động trong nước khi trở về. Điều này làm lãng phí một lượng lao động vừa có trình độ cao, vừa có nhiều kinh nghiệm thực tế làm việc. Qua những phân tích ở trên, có thể thấy mục tiêu của dạy nghề cho lao động nông thôn (dù là cho nhóm đối tượng nào) là tạo cho họ có một nghề để có thể tự tạo việc làm trong nông nghiệp (tăng năng suất lao động) hoặc tìm được việc làm phi nông nghiệp (ở nông thôn hoặc ngoài nông thôn). Nói cách khác, dạy nghề cho lao động nông thôn phải gắn với giải quyết việc làm cho người lao động. Đây là vấn đề cốt lõi đối với dạy nghề cho lao động nông thôn, nhất là đối với nhóm lao động cần phải chuyển sang làm trong lĩnh vực phi nông nghiệp, công nghiệp. Nếu không gắn được với việc làm thì người nông dân sẽ không tham gia học nghề nữa và nguồn lực xã hội sẽ bị lãng phí. Do đó, trong quá trình đào tạo nghề rất cần thiết có sự kết hợp chặt chẽ với các doanh nghiệp, các cơ sở sản xuất để họ một mặt tham gia vào quá trình đào tạo; mặt khác có thể tạo cơ hội cho người học được tham gia vào quá trình sản xuất của doanh nghiệp từ khi còn học và sau khi học nghề xong là có thể làm việc được ngay với nghề nghiệp của mình. 5. Kết luận Rõ ràng là nông dân nói riêng và lao động nông thôn nói chung là nhóm đối tượng chịu tác động mạnh của việc tham gia TPP. Tương lai có thể trở thành “nông dân chuyên nghiệp”, đủ năng lực quản lí các trang trại có quy mô lớn, các hợp tác xã đích thực, liên kết doanh nghiệp ở cả đầu vào và đầu ra của sản xuất nông nghiệp trong chuỗi giá trị ngành hàng, hoặc có thể trở nên trắng tay, mất việc, phải bán đất cho những doanh nghiệp lớn và chuyển dịch ngành nghề, phụ thuộc rất nhiều vào khả năng nắm bắt cơ hội của chính họ trên cơ sở những chính sách hỗ trợ của Nhà nước. Chất lượng lao động mà nông dân được thụ hưởng thông qua thực hiện chính sách đào tạo nghề của Nhà nước chính là một căn cứ xác đáng để đánh giá khả năng thích ứng của lao động nông thôn trong điều kiện hội nhập quốc tế mới. 429
  14. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, Công văn Chỉ đạo công tác dạy nghề cho lao động nông thôn, Tổng cục dạy nghề, 2013. 2. Báo cáo tình hình kinh tế xã hội. Tổng cục thống kê, năm 2013, 2014, 6 tháng 2015. 3. Thủ tướng Chính phủ, Quyết định số 1956/ QĐ-TTg phê duyệt Đề án đào tạo lao động nông thôn đến năm 2020. 4. Vấn đề đào tạo nghề cho lao động nông thôn ở Việt Nam hiện nay, http://www.ncseif.gov.vn/sites/vie/Pages/vandedaotaonghecho-nd- 15916.html. 430
nguon tai.lieu . vn