Xem mẫu

  1. HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA ĐỊNH HÌNH LẠI HỆ THỐNG TÀI CHÍNH TOÀN CẦU VÀ CHIẾN LƯỢC CỦA VIỆT NAM 33. 1Nguyễn Văn Thiện Tâm* Nguyễn Tiến Hùng* Tóm tắt Một bức tranh kinh tế ảm đạm, số lượng giao dịch thương mại sụt giảm, chuỗi giá trị toàn cầu liệu có bị phá hủy, nhiều ngành điêu đứng bởi đại dịch Covid-19, những lệnh phong tỏa và giờ giới nghiêm ở nhiều nơi trên thế giới, là những gì mà rất nhiều báo đài đã nói về năm 2020. Đại dịch Covid-19 bắt đầu từ cuối năm 2019 với những diễn biến khó lường của nó cho đến nay, là một cú sốc đối với mọi mặt của nền kinh tế thế giới. Nhưng hơn hết, đại dịch đã và đang góp phần thúc đẩy quá trình dịch chuyển của dòng vốn quốc tế, cũng như định hình lại chuỗi cung ứng và chuỗi giá trị toàn cầu. Với tầm nhìn của một quốc gia đang phát triển, Việt Nam cần biết tận dụng thời cơ, củng cố nền công nghiệp hỗ trợ, tạo dựng môi trường đầu tư lành mạnh để có thể khai thác tối đa những cơ hội mà dòng vốn đầu tư quốc tế mang lại, góp phần phục hồi nhanh chóng nền kinh tế hậu Covid-19. Từ khóa: Covid-19, dịch chuyển dòng vốn, đầu tư trực tiếp, đầu tư gián tiếp. 1. Đặt vấn đề Thế giới đã, đang và sẽ đối mặt với một cuộc khủng hoảng chưa từng có tiền lệ gây ra bởi đại dịch Covid-19. Covid-19 đã “chạm” đến mọi khía cạnh của nền kinh tế, gây ra rất nhiều khó khăn và thách thức trong công cuộc phòng chống và hồi phục hậu Covid của các quốc gia. Tính đến cuối năm 2020, GDP toàn cầu đã giảm 5.6% so với năm 2019, tăng trưởng của hầu hết các khu vực đều mang một màu ảm đạm. Sự đứt gãy của chuỗi cung ứng toàn cầu đã trở thành đề tài nhận được nhiều sự bàn luận, quan tâm cũng như tranh cãi của nhà kinh tế toàn cầu bởi mối liên hệ của nó đối với dòng vốn quốc tế. Có thể thấy, đại dịch Covid-19 đã gây ra những tác động mang tính tức thì và tiêu cực đến * Trường Đại học Kinh tế TP. HCM | Email liên hệ: tamnvt@ueh.edu.vn 470
  2. HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA ĐỊNH HÌNH LẠI HỆ THỐNG TÀI CHÍNH TOÀN CẦU VÀ CHIẾN LƯỢC CỦA VIỆT NAM dòng vốn quốc tế bao gồm cả dòng vốn đầu tư trực tiếp (FDI) và đầu tư danh mục hay đầu tư gián tiếp (portfolio investment). Những phản ứng của thị trường tài chính trước diễn biến khó lường của đại dịch Covid-19 và những sự kiện kinh tế trước đó đã phần nào cho thấy tính dễ bị tác động của nó. Chính vì thế, nhận biết được sự thay đổi của những thành phần trong thị trường này, nhất là sự dịch chuyển của dòng vốn quốc tế cũng như nguyên nhân và xu thế dịch chuyển trong tương lai là rất cần thiết đối với các nhà hoạch định chính sách, các ngân hàng trung ương, Chính phủ của không chỉ các quốc gia đang phát triển và các nền kinh tế mới nổi mà còn đối với các trung tâm tài chính quốc tế trong việc điều hành và ổn định điều kiện tài chính toàn cầu. 2. Dòng vốn toàn cầu đang “chảy” như thế nào? Trong quá trình phân tích dòng vốn FDI của các quốc gia, dựa trên tính sẵn có của số liệu để có những phân tích mang tính cập nhật hơn nên các nguồn số liệu được sử dụng khác nhau nhưng đều đảm bảo dòng vốn FDI được ghi nhận theo cùng một phương pháp được công bố trong BMD4 ( OECD Benchmark Definition of Foreign Direct Investment) và BPM6 (IMF Balance of payment manual 6) - đó là phương pháp định hướng (directional presentation). Theo đó, để thuận tiện trong việc phân tích dòng vốn tại từng quốc gia, số liệu thống kê chi tiết về FDI theo quốc gia và theo ngành được công bố theo cách trình bày định hướng thay vì phương pháp ghi nhận theo tài sản/nợ (assets/liabilities) vì nó không thể hiện rõ hướng chảy của dòng vốn. Sự khác biệt trong số liệu giữa các tổ chức này đến từ thời gian sửa đổi cũng như các số liệu của UNCTAD đã được điều chỉnh (adjusted). Từ những làn sóng đầu tiên của đại dịch, các tổ chức trên thế giới như IMF, World bank hay UNCTAD đã dự báo dòng FDI toàn cầu gắn với dịch chuyển chuỗi có thể giảm xuống. Và thực tế số liệu đã chứng minh các dự báo trên là hoàn toàn chính xác. Hình 1 đã minh họa rõ nét xu hướng này đối với 3 nhóm: các nước phát triển, đang phát triển, đang chuyển đổi cùng với mức thay đổi của thế giới. Có thể thấy, năm 2020, dòng vốn FDI toàn cầu đã sụt giảm 42%, tương đương 849 tỷ USD so với năm 2019 (1.5 tỷ USD). Tổng lượng vốn FDI thế giới lần đầu tiên giảm xuống dưới 1 tỷ USD kể từ năm 2005, cũng như thấp hơn mức giảm của FDI toàn cầu dưới sự tác động của khủng hoảng tài chính 2007-2008. Tình trạng này diễn ra ở tất cả các nhóm quốc gia nhưng với mức độ ảnh hưởng khác nhau. Cụ thể, FDI chủ yếu giảm mạnh ở các nước phát triển, lên đến gần 70% so với năm 2019, tương đương với gần 229 tỷ USD. Trong khi đó, nhóm các nước đang phát triển cũng không nằm ngoài quy luật chung của thế giới nhưng với một mức khiêm tốn hơn, chỉ vào khoảng 12% so với năm trước. Đối với từng nhóm nước thì tỷ lệ thu hút vốn FDI cũng khác biệt tùy thuộc vào 471
  3. HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA ĐỊNH HÌNH LẠI HỆ THỐNG TÀI CHÍNH TOÀN CẦU VÀ CHIẾN LƯỢC CỦA VIỆT NAM khu vực địa lý và sự tham gia trên chuỗi cung ứng cũng như chuỗi giá trị toàn cầu. Do đó, để hiểu rõ hơn mức giảm chung của từng nhóm nước hay thế giới, chúng ta cần xét đến những quốc gia chiếm tỷ trọng lớn trong FDI toàn cầu, hay có ảnh hưởng lớn đến nền kinh tế chung. Hình 1: FDI inflows (tỷ USD) - Dòng vốn vào trong giai đoạn 2007 – 2020, phân chia theo khu vực kinh tế Nguồn: UNCTAD. Hình 2: Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Mỹ và vốn đầu tư trực tiếp từ Mỹ ra nước ngoài, giai đoạn 2012-2020 (Tỷ USD) 600000 500000 400000 300000 200000 100000 0 -100000 2012 2013 2014 2015 2016 2017 2018 2019 2020 -200000 -300000 FDI inflows FDI outflows Nguồn : Tác giả tổng hợp từ US. Bureau of Economics Analysis Là một nền kinh tế lớn nhất trên thế giới, Mỹ đồng thời cũng là quốc gia có hoạt động đầu tư FDI nổi trội. Vì thế, sự thay đổi trong dòng vốn đầu tư FDI tại Mỹ cần được phân tích cụ thể vì nó có thể góp phần giải thích cho các xu hướng đang diễn ra trên thế giới. 472
  4. HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA ĐỊNH HÌNH LẠI HỆ THỐNG TÀI CHÍNH TOÀN CẦU VÀ CHIẾN LƯỢC CỦA VIỆT NAM Trước hết, dòng vốn vào Mỹ giảm hơn 40% so với năm 2019. Số liệu từ Cơ quan phân tích kinh tế của Mỹ (BEA) cho thấy sự sụt giảm dòng vốn vào chủ yếu đến từ các MNEs ở các nước có đầu tư trực tiếp lớn vào Mỹ từ trước đến nay như Đức, Nhật và Anh (Hình 3). Điều này có thể được lý giải bởi tình hình Covid rất phức tạp tại Mỹ với số ca nhiễm và số ca tử vong tăng cao chóng mặt, cũng như tác động của cuộc bầu cử tổng thống Mỹ vào cuối năm. Bên cạnh đó, dòng vốn đầu tư ra nước ngoài của Mỹ cũng chỉ giảm nhẹ nhưng so với nửa cuối năm 2019 thì nửa đầu năm 2020 vẫn có phần khả quan hơn. Hình 3: Vốn đầu tư trực tiếp vào Mỹ từ các đối tác chính giai đoạn 2012 – 2020 (Tỷ USD) 250000 200000 150000 100000 50000 0 2012 2013 2014 2015 2016 2017 2018 2019 2020 -50000 -100000 -150000 Canada Germany United Kingdom Japan Nguồn : Tác giả tổng hợp từ US. Bureau of Economics Analysis Các quốc gia trong Liên minh châu Âu cũng trải qua năm 2020 với nhiều biến động về dòng vốn FDI. Cụ thể, dòng vốn chảy vào khu vực này giảm 71% so với năm 2019 gây ra bởi việc thoái vốn mạnh tại các quốc gia trước đây từng là những nơi thu hút nguồn vốn lớn như Hà Lan, Thụy Sĩ. Nhìn chung, có rất ít các quốc gia thành viên có dòng vốn vào tăng. Cụ thể, 17 quốc gia có FDI giảm trong khi đó vẫn ghi nhận sự gia tăng vốn FDI tại các quốc gia như Pháp, Tây Ban Nha và Thụy Điển trong hai quý đầu năm 2020 – góp phần vực dậy dòng vốn FDI từ Quý II-2020 (Hình 4). Trong khi đó, một bức tranh trái ngược được thể hiện trong Hình 5 đối với dòng vốn FDI chảy từ các nước thành viên đến các quốc gia khác, dòng vốn ra vào hai quý đầu năm 2020 giảm so với cùng kỳ năm trước ở hầu hết các quốc gia. Nguyên nhân chủ yếu đến từ việc thoái vốn đầu tư từ Bỉ và Áo. 473
  5. HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA ĐỊNH HÌNH LẠI HỆ THỐNG TÀI CHÍNH TOÀN CẦU VÀ CHIẾN LƯỢC CỦA VIỆT NAM Hình 5: Vốn đầu tư trực tiếp vào các Hình 4: Vốn đầu tư từ các quốc gia EU quốc gia Liên minh châu Âu (Tỷ USD) ra nước ngoài (Tỷ USD) Nguồn: OECD, FDI in figures, October 2020. Tiếp đến, để có thể có cái nhìn cụ thể về chuyển biến của dòng vốn FDI, chúng ta có thể xem xét những thay đổi trong các hình thức chính của FDI là vốn sở hữu ngoài lợi nhuận tái đầu tư (equity), reinvestment of earnings (lợi nhuận tái đầu tư) và debt instrument (vay nợ). Theo đó, sự vận động của FDI được thể hiện ở hai thành phần chính trong vốn chủ sỡ hữu là greenfield (hình thức đầu tư mới) và hợp nhất sát nhập (M&A). Hình 6, cho thấy, hai hình thức đầu tư này đều giảm mạnh so với năm 2019, đặc biệt là hình thức đầu tư mới. Đầu tư mới giảm 37% trong nửa đầu năm 2020 so với cùng kỳ năm trước. Trong khi đó, trong 3 quý đầu năm, các hoạt động hợp nhất sát nhập cũng giảm 15%. Hình 6: Xu hướng đầu tư quốc tế trong ba quý đầu năm 2020 Nguồn: UNCTAD 474
  6. HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA ĐỊNH HÌNH LẠI HỆ THỐNG TÀI CHÍNH TOÀN CẦU VÀ CHIẾN LƯỢC CỦA VIỆT NAM Tại Mỹ, dòng vốn FDI giảm chủ yếu do nguồn vốn chủ sở hữu bị thu hẹp. Xu hướng này đã bắt đầu từ năm 2015, với sự tác động của Covid-19, năm 2020 chứng kiến một sự sụt giảm rõ rệt. Theo đó, giá trị ròng của các giao dịch M&A năm 2019 giảm gần 50% so với năm 2018, đến năm 2020 con số là 41%. Trong khi đó, các dự án đầu tư mới về cả đăng ký và thực hiện năm 2019 đều giảm so với năm 2018. Hình 7: Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Mỹ phân theo hình thức đầu tư, giai đoạn 2012 – 2020 (Triệu USD) Nguồn : Simeon Djankov, Eva (Yiwen) Zhang (2020) Hình 8: Đầu tư mới vào Mỹ giai đoạn 1997 – 2019 (Tỷ USD) Nguồn: BEA 475
  7. HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA ĐỊNH HÌNH LẠI HỆ THỐNG TÀI CHÍNH TOÀN CẦU VÀ CHIẾN LƯỢC CỦA VIỆT NAM Khác với những cuộc khủng hoảng kinh tế trước đây, khủng hoảng phi kinh tế gây ra bởi đại dịch Covid-19 dẫn đến sự trì trệ và đứt gãy của chuỗi cung ứng toàn cầu, ảnh hưởng lên những “giao điểm” quan trọng nhất trên chuỗi giá trị toàn cầu như Trung Quốc, Mỹ. Bên cạnh đó, các quốc gia đang phát triển khác với sự tham gia ngày càng tích cực và mạnh mẽ vào chuỗi cung ứng cũng chịu nhiều tác động đáng kể. Không những thế, đối với các quốc gia đang phát triển và các nền kinh tế mới nổi, FDI là một trong những nguồn lực góp phần vào hồi phục kinh tế hậu Covid -19. Chính vì thế, việc xem xét hiện trạng dòng vốn đầu tư trực tiếp tại các quốc gia này là cần thiết để xem liệu đại dịch này có làm cho các MNCs đưa ra những quyết định về thay đổi phân bổ địa lý của các chuỗi sản xuất ở nước ngoài hay không. Như đã đề cập ở trên, dòng vốn chảy vào các nước đang phát triển chiểm tỷ trọng lớn nhất trong tổng số FDI toàn cầu. Việc giảm không đáng kể nguồn vốn tại khu vực này nhờ vào việc dòng vốn vào Trung Quốc đã hồi phục trở lại cùng với sự thu hút vốn thành công từ Ấn Độ. Mặc dù vào giai đoạn đầu của dịch Covid, sự trì trệ hoàn toàn của hệ thống cung ứng toàn cầu xuất phát từ tình hình dịch nghiêm trọng tại Trung Quốc, mắt xích quan trọng nhất trong chuỗi cung ứng, nơi gia công hàng đầu của thế giới dẫn đến các công ty đa quốc gia có khuynh hưởng rút vốn dần ra khỏi thị trường này nhằm giảm sự phụ thuộc cũng như rút gọn chuỗi cung ứng, FDI vào Trung Quốc vẫn tăng 4% trong năm 2020, dù chỉ là một mức tăng nhẹ nhưng cũng chứng minh được sự thành công của Trung Quốc trong việc phòng chống dịch cũng như chính sách ổn định đầu tư hay các chương trình hỗ trợ nhằm níu giữ các nhà đầu tư nước ngoài sau giai đoạn phong tỏa. Bên cạnh Trung Quốc, Ấn Độ cũng ghi nhận sự gia tăng 13% về dòng vốn FDI, chủ yếu tập trung vào kinh tế số thông qua các giao dịch thu mua. Trong khi đó, Đông Nam Á là nơi có dòng vốn FDI giảm nhiều nhất trong nhóm các nước đang phát triển ở châu Á, với mức giảm lên đến 31%. Điều này đến từ việc dòng vốn FDI giảm ở hầu hết các quốc gia trong khu vực này. Tuy vậy, vai trò đầu tàu trong thu hút FDI ở khu vực này vẫn không thay đổi. Điều này được chứng minh thông qua việc các dự án đầu tư mới chỉ giảm ở mức 14%, thấp hơn nhiều so với các nhóm nước khác. Các nước Đông Nam Á, trong năm 2020, đã thu hút về 70 tỷ USD các dự đầu tư mới, là nơi nhận được nhiều dòng vốn này nhất trong nhóm các nước đang phát triển. Từ những phân tích trên có thể thấy, dịch Covid đã gây ra những biến động rõ nét đến dòng vốn FDI. Liệu Covid có phải là nguyên nhân duy nhất dẫn đến sự dịch chuyển này hay chỉ là chất xúc tác cho những thay đổi đã diễn ra từ trước đây. Để trả lời nghi vấn này, chúng ta cần xem lại những sự kiện kinh tế - chính trị những năm trở lại đây để có câu trả lời xác đáng. Khi quan sát lại hình 1, trong một vài năm trở lại đây, dòng vốn FDI đã có giai đoạn suy giảm mạnh, có khi bão hòa trước khi đối mặt với dịch Covid-19. Điều này cho thấy, dòng 476
  8. HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA ĐỊNH HÌNH LẠI HỆ THỐNG TÀI CHÍNH TOÀN CẦU VÀ CHIẾN LƯỢC CỦA VIỆT NAM vốn đã có sự dịch chuyển từ trước xuất phát từ nhiều nguyên nhân. Trước khi chạm đáy vào năm 2020, dòng vốn FDI toàn cầu đã giảm sâu vào năm 2018, gần chạm mốc của cuộc khủng hoảng tài chính. Lý do xuất phát từ những thay đổi chính sách thuế của Trump liên quan đến đầu tư làm cho lượng vốn vào quốc gia này giảm rõ rệt. Dòng vốn đầu tư từ các doanh nghiệp Mỹ cũng “quay đầu” về nước dẫn đến việc lần đầu tiên trong lịch sử, dòng vốn ra của Mỹ là một số âm. Song song với hành động này của các công ty Mỹ là sự giảm mạnh trong dòng vốn vào của các nước châu Âu, vì đây là những điểm đến đầu tư của các công ty này. Ngoài ra, cũng không thể không nhắc đến những căng thẳng trong mối quan hệ Mỹ - Trung dẫn đến những trừng phạt bắt đầu từ tháng 8-2018 hay kịch bản về Brexit đã gây ra những xáo trộn trong dòng vốn FDI toàn cầu. Bên cạnh đó, yếu tố quan trọng nhất cần được đề cập đó là độ mở thương mại toàn cầu đã có dấu hiệu chậm lại trong những năm trở lại đây. Thật vậy, thế giới đã đạt đỉnh toàn cầu hóa vào năm 2008 với tốc độ hội nhập kinh tế tăng chưa từng thấy. Cùng với sự phát triển của vận tải quốc tế, sự hoàn thiện của hệ thống thông tin và công nghệ đã góp phần hình thành nên chuỗi giá trị toàn cầu. Tăng trưởng toàn cầu tăng và tỷ lệ nghèo đói giảm xuống rõ ràng. Tuy nhiên, dấu hiệu suy giảm của toàn cầu hóa được thể hiện qua chính sách của các quốc gia như Mỹ hay Trung Quốc. Cụ thể, dưới thời của tổng thống Donald Trump, nước Mỹ đã đi theo chính sách “America first”. Điều này thể hiện rõ nhất ở việc Mỹ đã rút khỏi hiệp định TPP ngay khi Donald Trump đắc cử, nước Mỹ dần quay về chế độ bảo hộ với những chính sách thuế, rào cản thương mại nhằm bảo vệ an ninh quốc gia và nền kinh tế trong nước, điển hình đó là cuộc thương chiến Mỹ-Trung như đã đề cập trước đó. Trước những căng thẳng của thương chiến, Trung Quốc cũng đưa ra kế hoạch 5 năm trong đó đáng chú ý nhất là chính sách “tuần hoàn kép” nhằm chống lại những đáp trả của Mỹ. Trung Quốc muốn tăng trưởng trong tương lai dựa vào sản xuất, tiêu dùng, phân phối hàng hóa và dịch vụ nội địa. Thực chất, trước những khuynh hướng bảo hộ hiện tại, Trung Quốc đã dần giảm bớt phụ thuộc vào xuất khẩu từ nhiều năm nay. Số liệu cho thấy tỷ trọng xuất khẩu trong GDP đã giảm từ 31% năm 2008 xuống còn 17% năm 2019. Trung Quốc vẫn là một quốc gia xuất khẩu lớn trên thế giới, chính sách “tuần hoàn kép” không có nghĩa sẽ quay lưng lại với thương mại toàn cầu mà là hướng đến sự định hình lại của chuỗi cung ứng. Bởi lẽ, hơn ai hết, Trung Quốc hiểu rõ những lợi ích của toàn cầu hóa những cũng biết chắc được những rủi ro đáng gờm của sự đứt gãy các kết nối thương mại (deglobalization). Từ những phân tích trên có thể thấy, trước khi có bị tác động bởi đại dịch Covid-19, đã có rất nhiều yếu tố dẫn đến sự suy giảm của xu hướng toàn cầu hóa và Covid-19 chỉ là chất xúc tác cho quá trình này diễn ra nhanh hơn với sự dịch chuyển dòng vốn FDI và 477
  9. HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA ĐỊNH HÌNH LẠI HỆ THỐNG TÀI CHÍNH TOÀN CẦU VÀ CHIẾN LƯỢC CỦA VIỆT NAM tái cơ cấu chuỗi cung ứng, chuỗi giá trị toàn cầu. Theo đó, có 4 xu hướng chính để định hình chuỗi cung ứng bao gồm: rút ngắn chuỗi (reshoring); đa dạng chuỗi (diversification); khu vực hóa chuỗi (regionalization); và nhân rộng chuỗi (replication). Trong tình hình hiện nay, các công ty đa quốc gia có thể sẽ rút ngắn chuỗi giá trị để bảo vệ mình khỏi sự sụp đổ của chuỗi cung ứng. Bên cạnh đó, họ có thể đa dạng hóa khu vực địa lý nhằm giảm các cú sốc tại một số khu vực cụ thể, từ đó giảm chi phí để có thể đối phó với các cuộc khủng hoảng. Đầu tư danh mục là một loại tài sản dễ biến động. Vì vậy, cũng tương tự như dòng vốn FDI, dòng vốn gián tiếp đã phản ứng rất nhanh với cú sốc gây ra bởi đại dịch Covid. Hình 9: Dòng vốn đầu tư gián tiếp vào các thị trường mới nổi, ngoại trừ Trung Quốc Nguồn: Annamaria de Crescenzio et al (2020) Hình 9 sử dụng số liệu từ viện tài chính quốc tế IIF đã cho thấy trong năm 2020, đặc biệt vào giai đoạn tháng 3, 4, thời kỳ dịch Covid lên đến đỉnh điểm, dẫn đến sự phong tỏa ở hàng loạt các quốc gia, số lượng ca nhiễm và tử vong tăng lên hàng giờ, nhiều quốc gia rơi vào tình trạng mất kiểm soát, dòng vốn đầu tư gián tiếp tháo chạy khỏi các quốc gia mới nổi và đang phát triển. Điều khác biệt trong chuyển động của dòng vốn trong năm 2020 là quy mô và tốc độ của sự thoái vốn. Có thể thấy, sự dừng đột ngột của dòng vốn diễn ra nhanh và trầm trọng hơn so với các sự kiện trong những năm gần đây như khủng hoảng tài chính toàn cầu 2008, Taper tantrum năm 2013 hay việc bán tháo trên thị trường chứng khoán Trung Quốc năm 2015 – hơn 100 tỷ USD đã được rút khỏi các quốc gia này chỉ sau hơn 2 tháng kể từ đại dịch. Đầu tư danh mục giữa tại những nước phát triển cũng 478
  10. HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA ĐỊNH HÌNH LẠI HỆ THỐNG TÀI CHÍNH TOÀN CẦU VÀ CHIẾN LƯỢC CỦA VIỆT NAM cho thấy cùng một xu hướng. Dữ liệu từ OECD cho 9 tháng đầu năm 2020 minh họa cho sự sụt giảm của cả dòng vốn vào và ra tại Mỹ, Nhật Bản và các nước châu Âu. Có thể thấy, tại Mỹ, dòng vốn dù giảm nhưng ít hơn so với các nước cùng được quan sát. Bên cạnh đó, dòng vốn đầu tư gián tiếp ra nước ngoài từ Mỹ cũng ít biến động hơn. Mặc dù, các khoản đầu tư danh mục rất “nhạy cảm” và mức độ giảm sâu hơn nhưng nó cũng mau chóng phục hồi hơn so với dòng vốn FDI trước những điều chỉnh của ngân hàng trung ương hay các chính sách, gói cứu trợ từ chính phủ. Hình 10: Dòng vốn đầu tư gián tiếp 9 tháng đầu năm 2020 tại một số nước phát triển Nguồn: Annamaria de Crescenzio et al (2020 3. Thách thức và cơ hội cho việt nam Việc tập trung phân tích Mỹ, Trung Quốc và các quốc gia châu Âu đều có lý do của nó khi đây đều là những đối tác thương mại lớn của Việt Nam, góp phần quan trọng trong việc phát triển, duy trì hoạt động trên chuỗi giá trị toàn cầu cũng như phát triển kinh tế. Chính vì thế, những thay đổi tại các quốc gia này chắc chắn sẽ có tác động ít nhiều đến nền kinh tế Việt Nam Trong bức tranh ảm đạm của nền kinh tế toàn cầu, Việt Nam nổi lên như một quốc gia vừa kiểm soát dịch tốt vừa có tăng trưởng dương trong năm 2020. Chính điều này đã góp phần giúp Việt Nam trở thành một điểm đến hấp dẫn với các nhà đầu tư. Tuy nhiên, 479
  11. HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA ĐỊNH HÌNH LẠI HỆ THỐNG TÀI CHÍNH TOÀN CẦU VÀ CHIẾN LƯỢC CỦA VIỆT NAM có thật sự các dòng vốn đang dịch chuyển về Việt Nam, cũng như liệu Việt Nam có tận dụng được thời điểm vàng này để bứt phá trên bản đồ kinh tế thế giới hay không. Hình 11: Kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam trong 5 năm vừa qua Nguồn: Tổng cục Thống kê Việt Nam Trong những năm gần đây, sự tham gia tích cực vào chuỗi cung ứng toàn cầu đã góp phần giúp tăng trưởng xuất khẩu của Việt Nam có bước tiến đáng kể. Kim ngạch xuất nhập khẩu tăng đều qua các năm và góp phần quan trọng vào tăng trưởng GDP của Việt Nam. Bên cạnh đó, số liệu từ GSO cho thấy, lượng vốn FDI vào Việt Nam liên tục tăng trong những năm gần đây, nhất là sau khi gia nhập vào WTO. FDI đóng một vai trò vô cùng quan trọng và chủ chốt trong xuất nhập khẩu của Việt Nam. Ví dụ như ngành công nghiệp chế tạo là một động lực của nền kinh tế Việt Nam, đóng góp đến hơn 70% tổng kim ngạch xuất khẩu nhưng gần 90% xuất khẩu trong ngành này đến từ các doanh nghiệp FDI. Chỉ một minh chứng đơn giản này có thể thấy được sự cần thiết của FDI đối với nền kinh tế Việt Nam. Tính riêng trong năm 2020, doanh nghiệp đầu tư nước ngoài chiếm 72,3% kim ngạch xuất khẩu và 64.3% kim ngạch nhập khẩu của cả nước.2 Biểu đồ dưới đây cho thấy, cũng tương tự như xu hướng chung của thế giới, dòng vốn FDI vào Việt Nam năm qua đã giảm khoảng 20% so với năm 2019. Tuy nhiên, so với các quốc gia khác như Singapore (37%), Indonesia (24%), Thailand (50%), Malaysia (68%)3, có thể 2 Cổng thông tin Bộ Kế hoạch và Đầu tư. 3 Global Investment Trend Monitor, No. 38, UNCTAD. 480
  12. HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA ĐỊNH HÌNH LẠI HỆ THỐNG TÀI CHÍNH TOÀN CẦU VÀ CHIẾN LƯỢC CỦA VIỆT NAM thấy, những nỗ lực của chúng ta trong phòng chống dịch và các biện pháp ổn định tâm lý nhà đầu tư đã phần nào phát huy hiệu quả. Hình 12: Dòng vốn FDI đăng ký và thực hiện tại Việt nam từ năm 2005 – 2020 80000 70000 60000 50000 40000 30000 20000 10000 0 2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013 2014 2015 2016 2017 2018 2019 2020 Tổng vốn đăng ký (Triệu đô la Mỹ) (*) Tổng số vốn thực hiện (Triệu đô la Mỹ) Nguồn: Tác giả tổng hợp từ Tổng cục Thống kê Dưới tác động của dịch Covid-19 cũng như thương chiến Mỹ - Trung, đã có nhiều nhận định cho rằng Việt Nam sẽ được hưởng lợi từ việc dòng vốn dịch chuyển ra khỏi Trung Quốc và chuyển đến các quốc gia khác như Việt Nam hay Bangladesh, nhất là các ông lớn về công nghệ hay các ngành thâm dụng lao động. Tuy vậy, thực tế cho thấy nhiều tập đoàn hàng đầu thế giới vẫn chưa sẵn sàng dịch chuyển ra khỏi Trung Quốc. Hơn 70% doanh nghiệp Mỹ tại Trung Quốc chưa có kế hoạch rút khỏi thị trường này nhưng vẫn đang trong quá trình tìm kiếm các thị trường khác để tránh sự phụ thuộc vào Trung Quốc. Điều này cho thấy, vẫn còn một khoảng thời gian nữa để Việt Nam có thể chuẩn bị kỹ càng hơn trong việc đón đầu cũng như tận dụng được những cơ hội từ nguồn vốn FDI. Tại sao phải cần chuẩn bị kỹ hơn bởi lẽ hiện nay, nếu quan sát vào chuỗi giá trị toàn cầu (GVCs), sẽ thấy mặc dù phần lớn các ngành của nước ta đều tham gia tích cực vào chuỗi giá trị nhưng chỉ tập trung ở downstream. Nghĩa là các công ty vẫn chủ yếu phải nhập nguyên liệu đầu vào và bán thành phẩm từ các quốc gia khác để sản xuất hàng hóa xuất khẩu. Hình 134 cho thấy 3 ngành quan trọng nhất trong xuất khẩu của Việt nam là: thiết bị vận tải, thiết bị điện tử và máy tính, máy móc và thiết bị đều giảm dần vị trí của nó trên chuỗi giá trị. Mặc cho sự tham gia mạnh mẽ vào GVCs, tỷ trọng giá trị gia tăng của sản 4 Vị trí trên chuỗi giá trị toàn cầu của một ngành sẽ được tính theo công thức của Koopman et al. (2011) 𝑮𝑽𝑪𝒑𝒐𝒔𝒊 = 𝑳𝒏(𝟏 + 𝑰𝑽𝑨𝒋𝒕 ) − 𝑳𝒏(𝟏 + 𝑭𝑽𝑨𝒋𝒕 ). Trong đó, IVA là indirect value added và FVA là foreign value added share of gross export. Số liệu từ TiVA chỉ sẵn có đến năm 2015 đối với Việt Nam. 481
  13. HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA ĐỊNH HÌNH LẠI HỆ THỐNG TÀI CHÍNH TOÀN CẦU VÀ CHIẾN LƯỢC CỦA VIỆT NAM phẩm nước ngoài trong tổng xuất khẩu vẫn cao hơn so với giá trị giá tăng từ hàng hóa nội địa (Hình 14). Khi so sánh với các quốc gia khác trong ASEAN, APEC hay Thái Lan, giá trị gia tăng nội địa của Việt Nam tại các ngành chủ lực là thấp (Hình 15). Hình 13: Vị trí trên chuỗi giá trị toàn cầu của 9 ngành công nghiệp sản xuất của Việt Nam Hình 14: Tỷ trọng giá trị gia tăng của nước ngoài trong tổng xuất khẩu (% - FVA) của chín lĩnh vực sản xuất của Việt Nam . Nguồn: Tính toán của tác giả dựa trên số liệu từ OECD TiVA. 482
  14. HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA ĐỊNH HÌNH LẠI HỆ THỐNG TÀI CHÍNH TOÀN CẦU VÀ CHIẾN LƯỢC CỦA VIỆT NAM Hình 15: Giá trị gia tăng nội địa của một số ngành công nghiệp sản xuất chủ lực của Việt Nam năm 2016 90 80 70 60 50 40 30 20 10 0 Textiles, wearing apparel, Computers, electronic and Transport equipment Machinery and leather and related electrical equipment equipment, nec products VNM THA APEC ASEAN Nguồn: Tác giả tổng hợp từ GSO Từ những hiện trạng của dòng vốn FDI và năng lực tham gia trên chuỗi giá trị, Việt Nam cần phải nỗ lực hơn nữa để cải thiện ngành công nghiệp hỗ trợ trong nước, nâng cao nâng lực của các doanh nghiệp sản xuất bán thành phẩm nhằm có thể cạnh tranh với các doanh nghiệp nước ngoài, trở thành nhà cung cấp cho các doanh nghiệp FDI. Bên cạnh đó, cũng cần phải đảm bảo các yêu cầu về lao động và môi trường để tránh trường hợp mới đây xảy ra tại Trung Quốc khi hàng loạt các nhãn hiệu may mặc nổi tiếng đồng loạt tuyên bố không sử dụng bông tại Tân Cương. Dẫu vậy, vẫn có những tín hiệu tích cực đối với việc thu hút FDI của Việt Nam. Theo khảo sát về chất lượng môi trường kinh doanh của The Economist intelligent unit, Việt Nam đang có những điểm số cạnh tranh hơn so với Trung Quốc về chính sách thu hút FDI, kiểm soát ngoại hối cũng như thị trường lao động. Việc định hình lại chuỗi cung ứng cũng đến từ nguyên nhân chi phí nhân công tăng lên ở một số quốc gia như Trung Quốc, nhưng các chuỗi sản xuất vẫn có xu hướng chuyển về các nước đang phát triển khác thay vì các nước phát triển. Do đó, việc rút ngắn chuỗi cung ứng hậu Covid sẽ tăng lên nhưng những hấp dẫn từ hoạt động gia công vẫn thu hút các MNCs. Việt Nam có chi phí lao động vẫn rất cạnh tranh so với các quốc gia khác trong khu vực nhưng để có thể gia tăng vị thế của mình trên chuỗi giá trị, chúng ta không nên chỉ tập trung vào nguồn nhân công giá rẻ mà còn cần phát huy đội ngũ lao động lành nghề để có thể thực hiện được những khâu quan trọng mang lại nhiều giá trị gia tăng hơn. 483
  15. HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA ĐỊNH HÌNH LẠI HỆ THỐNG TÀI CHÍNH TOÀN CẦU VÀ CHIẾN LƯỢC CỦA VIỆT NAM 4. Kết luận Bài phân tích đã phần nào cho thấy được sự sụt giảm của cả dòng vốn đầu tư trực tiếp và gián tiếp ở hầu hết các quốc gia trên thế giới dưới tác động của đại dịch Covid-19 cũng như xu hướng trong tương lai gần khi đại dịch vẫn rất khó lường trước. Đồng thời cũng chứng minh được xu hướng dịch chuyển này không chỉ mới bắt đầu khi đại dịch xảy ra mà đã manh nha và diễn ra từ những năm trước đó dưới tác động của các yếu tố khác nhau như chính sách của các cường quốc Mỹ, Trung hay sự giảm độ mở thương mại toàn cầu, v.v…. Bên cạnh đó, chuỗi cung ứng toàn cầu cũng đã có những thay đổi nhằm thích ứng với tính chất khác thường của cuộc khủng hoảng gây ra bởi Covid-19. Là một mắt xích ngày càng phát triển trên chuỗi giá trị toàn cầu, bên cạnh những cơ hội trong đón đầu những nguồn vốn mới, những thách thức mà Việt Nam phải đối mặt cũng không hề dễ dàng, trong đó, quan trọng nhất là việc xây dựng một ngành công nghiệp hỗ trợ vững chắc để có thể phát huy được hết năng lực cạnh tranh của chúng ta và gia tăng giá trị trên chuỗi giá trị toàn cầu. Tài liệu tham khảo Annamaria de Crescenzio et al (2020). Global policy responses to capital flow volatility. OECD on the level, truy cập tại https://oecdonthelevel.com/2020/12/23/global-policy-responses-to- capital-flow-volatility/ Douglas A. Irwin (23/04/2020). The pandemic adds momentum to the deglobalization trend. Peterson institution for international economics, truy cập tại https://www.piie.com/blogs/realtime-economic-issues-watch/pandemic-adds-momentum- deglobalization-trend IMF (2020). Emerging Market Capital Flows under COVID: What to Expect Given What We Know. Special Series on COVID-19. IIF (2020). IIF Capital Flows Tracker – February 2021 Scaling Down. OECD (2008). OECD Benchmark definition of foreign direct investment 4th. Paris. France OECD (2020). COVID-19 and Global Capital Flows. Paris. France. Simeon Djankov, Eva (Yiwen) Zhang (2020). The recent fall in FDI flows to the US. VOXEUCEPR truy cập tại https://voxeu.org/article/recent-fall-fdi-flows-us The Economist Intelligent unit (2021). Rising star: Vietnam’s role in Asia’s shifting supply chains. London. United Kingdom. UNCTAD (2020a). Impact of the Covid-19 pandemic on Trade and development. New York. UNCTAD (2020b). Investment trends monitor No38. New York. United States. UNCTAD (2020c). World investment report. New York. United States. World Bank (2021). Uneven recovery. Washington, DC. United States. 484
nguon tai.lieu . vn