Xem mẫu

  1. TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG XÂY DỰNG VĂN HÓA LIÊN KẾT ĐỂ DOANH NGHIỆP VIỆT NAM HỘI NHẬP TOÀN CẦU BUILD LINKING CULTURE FOR VIETNAMESE ENTERPRISES IN GLOBAL INTEGRATION ThS. Lê Thị Nam Phương Trường SKY-LINE TS. Nguyễn Thị Bích Thu Trường Đại học Kinh tế - Đại học Đà Nẵng bichthu.nguyen69@gmail.com TÓM TẮT Hội nhập quốc tế, tham gia vào sân chơi toàn cầu cơ hội nhiều hơn nhưng thách thức cũng lớn hơn. Đòi hỏi doanh nghiệp Việt Nam phải liên kết với nhau và liên kết với bạn bè thế giới để phát triển và lớn mạnh. Giao thoa văn hóa nhắc nhở chúng ta tìm sự hòa hợp chung giữa phương Đông, phương tây, giữa các quốc gia và giữa các doanh nghiệp. Sự liên kết thực tâm, thực lòng và cân bằng, ngang ngửa đòi hỏi doanh nghiệp và chủ doanh nghiệp phải có nhiều nỗ lực thay đổi, thay đổi căn bản nếp nghĩ, nếp làm việc để trở nên hiệu quả và đáng tin cậy. Văn hóa liên kết sẽ đem lại sức mạnh cho doanh nghiệp, đảm lại lợi thế cạnh tranh và góp phần xây dựng thương hiệu doanh nghiệp Việt. Từ khóa: Liên kết kinh doanh; Hội nhập; Văn hóa doanh nghiệp; Văn hóa liên kết; Giao thoa văn hóa ABSTRACT International integration, participation in the globalization makes enterprises have more opportunities but also greater challenges. This requires Vietnamese enterprises to link together and connect with friends in the world to develop and grow. Acculturation reminds us to find the general harmony among the East, West, among nations and among enterprises. The honest and balanced link requires enterprises and enterprises’ owners to have to make many efforts to change with the fundamental change in thinking and working style to become more efficient and reliable. Linking culture will provide power for enterprises, ensure competitive advantages and contribute to build brands for Vietnamese enterprises. Keywords: Business Link; Integration; enterprises’ culture; linking culture; acculturation 1. Đặt vấn đề Hội nhập toàn cầu đã đặt ra vấn đề lớn mà nhiều nghiên cứu đang tập trung giải quyết đó là vấn đề giao thoa văn hóa. Các nghiên cứu về văn hóa đã chỉ rõ có sự khác biệt văn hóa giữa phương đông và phương tây, giữa các quốc gia, các vùng miền. Sự khác biệt văn hóa là yếu tố khiến hành vi của con người trong cuộc sống nói chung và trong kinh doanh mà cụ thể là trong liên kết kinh doanh được thể hiện và đánh giá khác nhau. Văn hóa ăn sâu vào nếp nghĩ vào hành vi, dẫn đạo hành vi và quyết định cách hiểu và đánh giá hành vi con người trong các hoạt động xã hội nói chung và trong liên kết kinh doanh nói riêng. Đối với các doanh nghiệp miền trung văn hóa doanh nghiệp đang chịu tác động của văn hóa Việt Nam, văn hóa vùng Miền Trung. Khi doanh nghiệp chưa chủ động để xây dựng văn hóa doanh nghiệp, thì nếp nghĩ và hành vi của các cá nhân trong tổ chức đang bị cuốn theo thói quen văn hóa của người Miền trung. Muốn vươn ra toàn cầu, các doanh nghiệp Miền trung nói riêng và doanh nghiệp Việt Nam nói chung cần thoát khỏi tư tưởng làm ăn manh mún, thiếu cam kết trong liên kết kinh doanh. Trở thành những doanh nghiệp đáng tin cậy, sẵn sàng hợp tác, liên kết trong kinh doanh, doanh nghiệp trở thành đầu tầu khiến cả xã hội có tinh thần liên kết thì Việt Nam với vươn ra toàn cầu một cách mạnh mẽ, đủ sức chiếm lĩnh thị trường thế giới. 469
  2. HỘI THẢO KHOA HỌC QUẢN TRỊ VÀ KINH DOANH – COMB2016 2. Liên kết kinh doanh và hội nhập toàn cầu 2.1. Liên kết kinh doanh Theo tổng hợp của Dương Đình Giám (2007), Liên kết kinh tế là sự hợp tác cùng phát triển của hai hay nhiều bên, không kể quy mô hay loại hình sở hữu. Mục tiêu của liên kết kinh tế là các bên tìm cách bù đắp sự thiếu hụt của mình, từ sự phối hợp hoạt động với đối tác. Điều đó có nghĩa là, liên kết kinh tế có thể xuất hiện giữa các doanh nghiệp (DN) lớn, nhỏ với nhau (Cùng lớn, cùng nhỏ, hay lớn với nhỏ). Mà không phân biệt các DN thuộc loại hình sở hữu nào (DNNN, DN ngoài QD, hay DN có vốn đầu tư nước ngoài). Lợi ích của liên kết kinh tế rất đa dạng: Liên kết kinh tế giúp DN khắc phục những bất lợi về quy mô; Liên kết kinh tế giúp DN phản ứng nhanh với những thay đổi của thị trường; Liên kết kinh tế giúp DN giảm thiểu rủi ro trong kinh doanh. Liên kết kinh tế không phải là một khái niệm mới. Lịch sử kinh tế cho thấy liên kết kinh tế hình thành và phát triển dựa vào các tiền đề kinh tế nhất định và gắn liền với sự phát triển của nền sản xuất xã hội. Quá trình hình thành và phát triển liên kết kinh tế trên thế giới được Dương Đình Tạ (2008) tổng hợp ở bảng 1. Bảng 1: Lịch sử hình thành liên kết kinh tế trên thế giới Thời gian Hình thức liên kết Nội dung liên kết Không xác định Tự phát Trao đổi hàng hóa Thế kỷ 9-10 Hiệp hội ngành nghề Liên kết ngang Thế kỷ 19- đầu thế kỷ 20 Chuỗi giá trị sản phẩm Liên kết dọc 1980 – nay Liên kết mạng Liên kết hỗn hợp (Dương Đình Tạ, 2008) Theo Dương Đình Tạ (2008), Liên kết kinh tế đề cập đến sự hợp tác giữa các đơn vị với nhau để cùng thực hiện một hay nhiều công việc đạt mục tiêu chung. Liên kết kinh tế có thể thực hiện theo phạm vi địa lý như khu vực (ASEAN, AFTA), phạm vi quốc gia, phạm vi tỉnh, thành phố…, Nó cũng có thể thực hiện giữa các chủ thể với nhau (doanh nghiệp với doanh nghiệp, cá nhân với doanh nghiệp…). Theo từ điển thuật ngữ kinh tế (Khuê, 2001), liên kết kinh tế được định nghĩa như sau :”Liên kết kinh tế là hình thức hợp tác và phối hợp do các đơn vị kinh tế tự nguyện tiến hành nhằm thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển theo hướng có lợi nhất, trong khuôn khổ pháp luật nhà nước. Mục tiêu là tạo ra mối quan hệ kinh tế ổn định thông qua các hợp đồng kinh tế hoặc các quy chế họat động để tiến hành phân công sản xuất, khai thác tốt tiềm năng của từng đơn vi tham gia liên kết hoặc để cùng nhau tạo thị trường chung, bảo vệ lợi ích cho nhau.” Về mặt hình thức, liên kết kinh tế phải là sự hợp tác và phối hợp giữa các đơn vị kinh tế. Chúng ta có thể phân loại liên kết theo chiều ngang, liên kết theo chiều dọc hoặc liên kết ngành (Frank Pyke, 2000): - Liên kết theo chiều dọc: Là mối liên kết giữa người mua hàng, nhà phân phối, các tập đòan, các doanh nghiệp địa phương đến các doanh nhiệp vừa và nhỏ hình thành chuỗi giá trị sản phẩm. Nhìn chung liên kết theo chiều dọc không giới hạn về mặt địa lý, và quy mô doanh nghiệp. Thông thường các doanh nghiệp lớn tại các nước phát triển có thể gia công hàng hóa ở các nước đang phát triển để tận dụng lợi thế so sánh của cá nước này như chi phí lao động thấp, nguồn tài nguyên dồi dào… Liên kết này hình thành các đơn hàng giúp các doanh nghiệp vừa và nhỏ có thể thực hiện được một hay nhiều khâu trong chuỗi giá trị. Loại hình liên kết này thường thấy ở các sản phẩm như may mặc, giày dép, vật liệu xây dựng, trang trí nội thất. 470
  3. TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG - Liên kết theo chiều ngang: Là mối liên kết giữa các doanh nghiệp trong ngành với các doanh nghiệp của các ngành khác có liên quan (cung cấp nguyên vật liệu, các sản phẩm, dịch vụ bổ trợ phát triển kinh doanh…). Liên kết này thường giới hạn ở phạm vi địa địa lý cụ thể hay thông qua các hiệp hội ngành nghề. Trong liên kết theo chiều ngang, các doanh nghiệp cùng ngành có thể phối hợp với nhau để cung cấp hàng hóa cho đơn hàng lớn, các doanh nghiệp đầu vào và doanh nghiệp cung cấp dịch vụ bổ trợ cũng đóng vai trò quan trọng. - Liên kết ngành: Liên kết theo chiều ngang và liên kết theo chiêu dọc có thể nhóm thành hàng trăm, thậm chí hàng ngàn doanh nghiệp liên quan đến nhau trong một lĩnh vực cụ thể. Một phân loại liên kết khác, theo N. Nuradin Hussain (2000) thì liên kết kinh tế các doanh nghiệp có thể phân thành 3 mô hình chính: Liên minh (alliances), cụm liên kết (cluster) và mạng liên kết (network). - Liên minh phản ánh hình thức liên kết giữa các công ty thông qua những thỏa thuận hoặc hợp đồng cụ thể như gia công, liên doanh, đồng minh chiến lược, nhượng quyền, tập đoàn, công ty mẹ - công ty con; - Cụm liên kết (hay còn gọi là cụm/quận công nghiệp industrial cluster/district). Hình thức liên kết này có những nét tương đồng với liên kết theo chiều ngang được giới hạn trong những khu vực địa lý nhất định. Hiện nay trên thế giới có nhiều nghiên cứu về cụm liên kết, các nghiên cứu này về cơ bản thống nhất với nhau về định nghĩa, tuy nhiên cũng có một số khác biệt. Các nghiên cứu của Viện nghiên cứu phát triển kinh tế trường đại học Suxex của Anh cho rằng cụm liên kết là sự tập trung về mặt địa lý của các công ty cạnh tranh, bổ trợ, độc lập và các ngành có quan hệ kinh doanh qua lại với nhau và/hoặc cùng có nhu cầu về nhân lực, công nghệ, và cơ sở hạ tầng. Michael Porter lại đề cập sâu hơn dến vai trò của các tổ chức nghiên cứu và xúc tiến thương mại, ông định nghĩa rằng liên kết cụm bao gồm một nhóm các công ty có mối liên hệ với nhau và các cơ quan hữu quan trong một ngành riêng biệt bao gồm nhà sản xuất, cung cấp dịch vụ, nhà cung cấp, trường đào tạo và các hiệp hội ngành nghề. Nhìn chung các định nghĩa về cụm liên kết đều tập trung vào các yếu tố vị trí địa lý của liên kết, đối tượng liên kết và ngành nghề liên kết. Liên kết cụm đã có nhiều đóng góp vào sự phát triển kinh tế đặc biệt là phát triển ngành, phát triển vùng. Tuy nhiên trong bối cảnh toàn cầu hoá hiện nay, các mối liên kết thường mở rộng ra ngoài phạm vi địa lý của một tỉnh, khu vực, quốc gia hay khu vực và mang tính toàn cầu. Và lúc này khái niệm liên kết mạng được đề cập. - Liên kết mạng chỉ một nhóm các công ty hợp tác với nhau không phân biệt về địa lý. Liên kết mạng lưới bao gồm cả các liên kết theo chiều ngang giữa các doanh nghiệp cùng ngành nghề, liên kết theo chiều dọc giữa các doanh nghiệp tham gia vào chuỗi giá trị sản phẩm. Đối tượng liên kết được mở rộng gồm các doanh nghiệp, các hiệp hội, các viện nghiên cứu đào tạo, tổ chức xúc tiến thương mại. Không gian địa lý cũng mở rộng ra khỏi phạm vị địa phương, vùng, quốc gia, khu vực đến phạm vi toàn cầu. Ngân hàng Thế giới định nghĩa rằng liên kết mạng là một mạng lưới sản xuất của các công ty độc lập (bao gồm cả những nhà cung cấp chuyên biệt), các tổ chức sản xuất tri thức (trường đại học, viện nghiên cứu), các tổ chức cầu nối (công ty môi giới, tư vấn) và khách hàng, liên kết với nhau. Mô hình liên kết mạng có nhiều nét tương đồng với liên kết ngành. 471
  4. HỘI THẢO KHOA HỌC QUẢN TRỊ VÀ KINH DOANH – COMB2016 2.2. Văn hóa liên kết – Bản sắc của văn hóa doanh nghiệp Theo Farmer (1990), văn hóa của một tổ chức (doanh nghiệp) có thể được hiểu như tổng hòa các giả thiết được cho là đúng, các niềm tin và giá trị mà các thành viên của tổ chức ấy cùng chia sẻ và được diễn đạt thông qua cách nói ngắn gọn “ làm gì, làm như thế nào, và ai sẽ làm việc ấy” Theo trích dẫn của Đỗ Minh Cương (2002), George De Sainte Marie cho rằng “Văn hóa doanh nghiệp là tổng hợp các giá trị, các biểu tượng, huyền thoại, nghi thức, các điều cấm kỵ, các quan điểm triết học, đạo đức tạo thành nền móng sâu xa của doanh nghiệp”. Theo Tổ chức lao động quốc tế (ILO) “Văn hóa doanh nghiệp là sự trộn lẫn đặc biệt các giá trị, các tiêu chuẩn, thói quen và truyền thống, những thái độ ứng xử và lễ nghi mà toàn bộ chúng là duy nhất đối với một doanh nghiệp đã biết”. Định nghĩa được phổ biến và chấp nhận rộng rãi nhất là định nghĩa của Edgar Schein (1989) “Văn hóa doanh nghiệp là tổng hợp những quan niệm chung mà các thành viên trong công ty học được trong quá trình giải quyết các vấn đề nội bộ và xử lý các vấn đề với môi trường xung quanh”. Theo Farmer (1990), văn hóa của một tổ chức có thể được hiểu như tổng hòa các giả thiết được cho là đúng, các niềm tin và giá trị mà các thành viên của tổ chức ấy cùng chia sẻ và được diễn đạt thông qua cách nói ngắn gọn “ làm gì, làm như thế nào, và ai sẽ làm việc ấy” . Theo Farmer (1990), sự thất bại trong việc hiểu biết những cách thức tương tác giữa văn hóa tổ chức và chiến lược tạo ra những thay đổi đã dự định cũng đồng nghĩa với sự thất bại của chính những chiến lược ấy. Những nghiên cứu của Wilms (1996); Zell (1997), Kezar & Eckel, (2000) đã phản ánh một thực tế là văn hóa tổ chức có thể tạo điều kiện hoặc ngăn cản việc tạo ra thay đổi tùy theo mức độ phù hợp giữa văn hóa hiện có và những đổi mới được đề xuất. Những nghiên cứu khác (Kabanoff, Waldersee & Cohen, 1995) đã phát hiện rằng kiểu văn hóa tổ chức (như văn hóa tinh hoa, văn hóa dựa trên tài năng và phẩm chất, văn hóa lãnh đạo hay đồng sự) có thể giúp tiên đoán tính chất của nhận thức về sự thay đổi trong tổ chức. Cũng giống như Farmer, Kabanoff, Waldersee & Cohen nhấn mạnh tầm quan trọng của sự hiểu biết về văn hóa tổ chức trong việc đề xướng đổi mới. Theo Nguyễn Mạnh Quân (2012), xây dựng văn hoá doanh nghiệp thực chất: (1) Về nội dung, là xây dựng và đạt được sự đồng thuận về một hệ thống các giá trị, triết lý hành động và phương pháp ra quyết định đặc trưng cho phong cách của doanh nghiệp và cần được tuân thủ nghiêm túc; (2) Về mục đích, là thiết kế và triển khai các chương trình hành động nhằm đưa hệ thống các giá trị và phương pháp hành động vào trong nhận thức và phát triển thành năng lực hành động của các thành viên tổ chức; và (3) Về tác độngmong muốn, là hỗ trợ cho các thành viên để chuyển hoá hệ thống các giá trị và triết lý hành động đã nhận thức và năng lực đã hình thành thành động lực và hành động thực tiễn. Đối với bài báo, Văn hóa liên kết có thể xem là tổng hòa các giả thiết được cho là đúng, các niềm tin và giá trị mà các thành viên của tổ chức ấy cùng chia sẻ về lien kết kinh tế và được diễn đạt thông qua cách nói ngắn gọn “làm gì để liên kết, liên kết như thế nào, và ai sẽ triển khai việc liên kết”. 2.3. Phương pháp nghiên cứu Bài báo dựa trên quan điểm của văn hóa tổ chức để đánh giá và bàn luận về những khía cạnh văn hóa không phù hợp hoặc đã lạc hậu khiến các doanh nghiệp gặp cản trở trong việc thực hiện mong muồn liên kết để vươn ra toàn cầu. Dựa trên các số liệu thứ cấp, thông qua phương pháp phân tích, so sánh và tổng hợp, bài báo sẽ đưa ra những phân tích chuẩn tắc nhằm đánh giá và khuyến nghị về lợi ích việc xây dựng văn hóa liên kết trong bối cảnh Việt Nam hội nhập toàn cầu một cách sâu, rộng. 472
  5. TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG Thảo luận nhóm và lấy ý kiến cá nhân đối với 147 sinh viên kinh tế - thế hệ kế cận các doanh nhân hiện tại trong công cuộc chinh phục toàn cầu, đối với đặc thù văn hóa của chủ nghĩa đặc trưng và chủ nghĩa cộng đồng theo Fons Trompenaars, Charles Hampden-Turner (2006). 3. Văn hóa liên kết và hội nhập của doanh nghiệp Việt Nam 3.1. Hội nhập toàn cầu và giao thoa văn hóa trong liên kết kinh doanh Fons Trompenaars, Charles Hampden-Turner (2006), phân biệt văn hóa thể hiện chủ nghĩa phổ biến là văn hóa “Có thể định nghĩa cái tốt và cái đúng, và có thể luôn luôn áp dụng chúng” với văn hóa thể hiện chủ nghĩa đặc trưng là văn hóa “Tập trung nhiều hơn vào các nghĩa vụ của các quan hệ và các hoàn cảnh riêng”. Trong bối cảnh toàn cầu hóa, đang có sự giao thoa giữa các văn hóa mang chủ nghĩa đặc trưng và chủ nghĩa phổ biến để hội nhập và có thể làm việc cùng nhau. Hình 1. Hòa hợp giữa chủ nghĩa phổ biến và chủ nghĩa đặc trưng (Fons Trompenaars, Charles Hampden-Turner (2006) Sự khác biệt trong hành vi của nền văn hóa theo chủ nghĩa đặc trưng và chủ nghĩa phổ biến được mô tả ở bảng... sẽ mang lại những tác động không nhỏ nên hành vi liên kết, tạo dựng và duy trì quan hệ liên kết trong hoạt động nói chung và trong kinh doanh nói riêng. Bảng 2. Chủ nghĩa phổ biến và chủ nghĩa đăc trưng (Fons Trompenaars, Charles Hampden-Turner (2006),) Chủ nghĩa phổ biến Chủ nghĩa đặc trưng 1. Tập trung nhiều vào luật lệ hơn là các mối  Tập trung nhiều vào các mối quan hệ hơn là luật quan hệ lệ 2. Các hợp đồng hợp pháp sẵn sàng được  Các bản hợp đồng hợp pháp sẵn sàng được chỉnh soạn thảo sửa. 3. Một người đáng tin cậy là người tôn trọng  Một người đáng tin cậy là người tôn trọng những lời nói hay hợp đồng của anh ta. sự phụ thuộc lẫn nhau đang thay đổi. 4. Chỉ có một sự thật, đó là cái đã được đồng  Có vài nhận thức về sự thật liên quan đến từng ý. người tham gia. 5. Thoả thuận là thoả thuận.  Các mối quan hệ phát triển. Fons Trompenaars, Charles Hampden-Turner (2006) cũng đã chỉ rõ (Bảng 3 và 4 )trong công việc khi con người ở các nền văn hóa mang các đặc trưng khác nhau làm việc cùng nhau họ cần phải 473
  6. HỘI THẢO KHOA HỌC QUẢN TRỊ VÀ KINH DOANH – COMB2016 vô cùng thấu hiểu văn hóa, chuẩn bị kỹ lưỡng, để được tin cậy và đánh giá tốt các biểu hiện cần được thực hiện theo chuẩn mực văn hóa. Động thời người doanh nhân cần làm chủ bản thân, thấu hiểu để đánh giá đúng hành vi của đối tác. Bảng 3. Lời khuyên khi đàm phán kinh doanh (Fons Trompenaars, Charles Hampden-Turner (2006)) Khi người ở nền văn hóa theo chủ nghĩa đặc Khi người ở nền văn hóa chủ nghĩa phổ biến trưng làm việc với người ở nền văn hóa theo làm việc với người theo theo chủ nghĩa đặc chủ nghĩa phổ biến hãy: trưng hãy:  Chuẩn bị các lập luận và các bài trình bày  Chuẩn bị cho “những quanh co” hay “điều “duy lý”, “chuyên nghiệp” để thúc đẩy sự không thích hợp” mang tính cá nhân mà đồng thuận. không có vẻ giống với bất cứ nơi nào.  Không coi các thái độ lạnh lùng, “bàn  Không coi các thái độ cá nhân, “làm quen với chuyện kinh doanh” là khiếm nhã. bạn” là những câu chuyện phiếm.  Nếu còn nghi ngờ thì hãy chuẩn bị kỹ càng  Cẩn thận xem xét những ngụ ý cá nhân của cho các nền tảng về luật pháp với một luật “những giấy thông hành” luật pháp của bạn. sư Bảng 4. Lời khuyên đối với nhà quản lý (Fons Trompenaars, Charles Hampden-Turner (2006)) Người theo chủ nghĩa phổ biến sẽ: Người theo theo chủ nghĩa đặc trưng sẽ:  Người theo chủ nghĩa phổ biến  Xây dựng các mạng lưới không chính thức và  Đấu tranh cho các thủ tục kiên định và đồng tạo ra các hiểu biết riêng tư. nhất.  Cố gắng thay đổi các kiểu hoạt động theo yêu  Thiết lập các phương cách chính thức để thay cầu không chính thức. đổi cách làm kinh doanh.  Sửa đổi các mối quan hệ với bạn, từ đó bạn sẽ  Sửa đổi hệ thống từ đó hệ thống sẽ sửa đổi sửa đổi hệ thống. bạn  Tạo đòn bẩy một cách bí mật.  Thông báo những thay đổi một cách rộng rãi.  Tìm kiếm sự công bằng bằng cách đối xử với  Tìm kiếm sự công bằng bằng cách đối xử với tất cả các trường hợp tùy vào năng lực đặc tất cả các trường hợp giống nhau. biệt của họ. 3.2. Liên kết của doanh nghiệp Việt Nam để vượt qua khó khăn và hội nhập toàn cầu Theo Vũ Quốc Tuấn (2016), Từ nhiều năm nay, các quan hệ liên kết, liên doanh đã được thực hiện giữa các doanh nghiệp: giữa doanh nghiệp nhỏ và vừa với nhau; giữa doanh nghiệp nhỏ và vừa với doanh nghiệp lớn, tổng công ty hoặc giữa doanh nghiệp trong nước với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài... Qua khảo sát tại nhiều doanh nghiệp ở các vùng, có thể thấy các mối liên kết thường tập trung ở các lĩnh vực sau: - Liên kết trong việc tìm đầu ra (thị trường) cho sản phẩm: Đây là hình thức liên kết quan trọng nhất hiện nay, bởi vì có hợp đồng thì doanh nghiệp mới mạnh dạn vay vốn để sản xuất. Một số doanh nghiệp ở Bình Dương, Nam Định, Quảng Ninh, Hà Nội về lĩnh vực gốm sứ, đồ gỗ, mây tre... còn đơn hàng cũ hoặc có đơn hàng mới cũng đã san sẻ cho các doanh nghiệp trong ngành, giúp cho các doanh nghiệp này duy trì được sản xuất. Ông Nguyễn Văn Trung, Hội làng nghề Phú Xuyên (Hà Tây) cho biết trong một container hàng (sản phẩm mây tre đan) xuất đi Iran có sự tham gia của trên 30 cơ sở vệ tinh trong xã Phú Vinh. Hình thức liên kết này đòi hỏi các doanh nghiệp tham gia phải bảo đảm chất lượng, mẫu mã sản phẩm đúng như cam kết và có hợp đồng chặt chẽ bảo đảm quyền lợi của các bên. 474
  7. TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG - Liên kết giữa các công đoạn sản xuất ra một sản phẩm: trong các doanh nghiệp làng nghề, đó là phân công chuyên môn hóa, như có doanh nghiệp chuyên đi mua nguyên liệu; có doanh nghiệp chuyên làm sạch, tẩy trắng nguyên liệu (như mây, tre); có doanh nghiệp chuyên sản xuất; có doanh nghiệp chuyên vận chuyển hoặc làm đầu mối tiêu thụ... Nhiều doanh nghiệp làng nghề mây tre đan ở Hà Tây (cũ) thực hiện liên kết theo cách này, cử người đi Hòa Bình, Vĩnh Phúc để mua mây, tre... Hình thức này có tác dụng giảm bớt chi phí sản xuất rõ rệt so với cách làm của từng doanh nghiệp riêng lẻ. - Liên kết nhau về vốn: Tuy Chính phủ đã đề ra nhiều chính sách giúp đỡ doanh nghiệp giải quyết khó khăn về vốn, song số doanh nghiệp nhỏ và vừa, doanh nghiệp làng nghề tiếp cận được nguồn vốn ngân hàng chưa nhiều Do vậy, một dạng liên kết khá phổ biến trong doanh nghiệp hiện nay là trợ giúp nhau về vốn bằng nhiều hình thức. Nhiều doanh nghiệp ở Quy Nhơn, Quảng Nam cho nhau vay với lãi suất thấp; có những doanh nghiệp ở Nam Định, Hà Tây ứng trước vốn để doanh nghiệp tiến hành sản xuất (có khi đến 30 - 40% chi phí sản xuất) mà không phải trả lãi... - Liên kết san sẻ với nhau về nhân lực: Trong một số ngành như mây tre đan, may mặc, hiện có doanh nghiệp thiếu việc làm, dôi lao động, lại có doanh nghiệp còn hợp đồng, những doanh nghiệp này đã nhận lao động ở doanh nghiệp thiếu việc để giúp nhau san sẻ việc làm trong lúc khó khăn. Một số doanh nghiệp quy mô lớn còn giúp doanh nghiệp nhỏ và vừa tổ chức các lớp bổ túc nghiệp vụ, nâng cao tay nghề cho người lao động, chuẩn bị điều kiện mở rộng sản xuất sau này, khi giai đoạn khó khăn kết thúc. - Liên kết bố trí lại dây chuyền sản xuất: Các doanh nghiệp giúp nhau tổ chức lại các phòng, ban, các phân xưởng, qua đó, hợp lý hóa sản xuất, hạ giá thành, kể cả mua lại, tự nguyện sáp nhập doanh nghiệp, tạo điều kiện nâng cao hiệu quả kinh doanh. Một số doanh nghiệp còn giúp nhau tổ chức bộ phận thiết kế, đổi mới mẫu mã, tiếp cận các yêu cầu mới của thị trường trong nước và thế giới. Hình thức này được triển khai chưa nhiều. Tuy nhiên, liên kết chưa thật rộng rãi và hiệu quả chưa cao. Liên kết kinh tế chưa trở thành nhu cầu bức xúc trong hoạt động của doanh nghiệp. Ngay trong một doanh nghiệp, nhu cầu liên kết kinh tế, nếu có xuất hiện, cũng chỉ tồn tại trong ý tưởng của các lãnh đạo doanh nghiệp, mà chưa trở thành nhu cầu của tất cả thành viên trong doanh nghiệp. Thực tế điều hành sản xuất kinh doanh cho thấy, chính các cán bộ quản lý cấp trung gian là những người dễ dàng nhận ra các nhu cầu về liên kết nhất, mà nếu họ không nêu ra, thì chủ doanh nghiệp cũng khó lòng mà nhận thấy. Đó là chưa kể, nếu những người lao động trực tiếp không nhận thức rõ được các lợi ích của liên kết kinh tế, thì trong công việc, họ sẽ không triệt để tuân thủ các quy định của các hợp đồng kinh tế, và do vậy sẽ dẫn đến hiệu quả không cao của doanh nghiệp khi thực hiện các liên kết kinh tế. Ở một khía cạnh khác, liên kết kinh tế, nhiều khi lại được thực hiện bởi các mệnh lệnh hành chính, như sự sáp nhập, hình thành các tổng công ty, công ty mẹ - công ty con ..., nên hiệu quả thực sự của liên kết kinh tế không cao, đôi khi lại có tác dụng ngược lại. (Dương Đình Giám, 2007). 4. Thực trạng văn hóa liên kết trong kinh doanh Đối với người Việt Nam “Một bồ cái lý không bằng một tí cái tình “(tục ngữ). Lối sống trọng tình đã dẫn đến cách ứng xử hết sức linh hoạt và thích ứng nhanh với điều kiện hoàn cảnh cụ thể: Ở bầu thì tròn, ở ống thì dài, Đi với bụt mặc áo cà sa/ Đi với ma mặc áo giấy (tục ngữ). Lối sống linh hoạt, trọng tình, dân chủ là những đặc điểm tích cực, nhưng mặt trái của nó là đặc điểm tâm lý áp đặt, 475
  8. HỘI THẢO KHOA HỌC QUẢN TRỊ VÀ KINH DOANH – COMB2016 tuỳ tiện, tâm lý "hòa cả làng", coi thường pháp luật: "Phép vua thua lệ làng", "Đưa nhau đến trước cửa quan, bên ngoài là lý bên trong là tình”. Để xác lập nguyên nhân của rào cản văn hóa có đang cản trở hoạt động liên kết trong kinh doanh của doanh nghiệp Việt Nam hay không, nhóm tác giả lặp lại nghiên cứu để phát hiện sự khác biệt giữa nền văn hóa theo chủ nghĩa đặc trương và nền văn hóa theo chủ nghĩa phổ biến của Fons Trompenaars, Charles Hampden-Turner (2006) đối với trường hợp “Bạn đang ở trong một chiếc ô tô do một người bạn của bạn điều khiển. Anh ta đâm vào một người đi bộ. Bạn biết là anh ta đã lái xe ít nhất là 70km một giờ tại khu vực của thành phố mà tốc độ tối đa chỉ được phép là 40km một giờ. Không có nhân chứng nào. Luật sư của người bạn đó nói rằng nếu bạn tuyên thệ trước toà rằng anh ta chỉ lái xe với tốc độ 40km một giờ, bạn của bạn có thể tránh khỏi bị kết tội nghiêm trọng”. Thảo luận nhóm và lấy ý kiến cá nhân đối với 147 sinh viên kinh tế - thế hệ kế cận các doanh nhân hiện tại trong công cuộc chinh phục toàn cầu. Kết quả nhận được 75 sinh viên (chiếm 51%) trả lời sẽ nói sự thật dù bạn mình sẽ bị phạt, 72 sinh viên (chiếm 49%) trả lời sẽ nói dối để bảo vệ bạn. Kết quả này nếu so sánh với quan sát và đúc rút từ kinh nghiệm làm việc của người viết đã lý giải phần nào cách biểu hiện trong liên kết kinh doanh của người Việt Nam và cụ thể là người miền Trung: Các doanh nghiệp vẫn dừng ở mức độ hợp tác nhỏ và chưa thật hiệu quả. Sự đố kỵ trong kinh doanh vẫn thường trực, liên kết chưa thật lòng nên thường xuyên xảy ra: - Tình trạng hợp tác xong ăn cắp công nghệ. - Khi thực hiện cam kết khả năng thực hiện kế hoạch không được tốt và viện dẫn muôn vàn lý do để thay đổi lời hứa. - Khi cung cấp không đáp ứng đúng giá trị đưa vào khi ký hợp đồng. - Trong trao đổi kinh doanh hay dấu khuyết điểm, rủi ro ... Thiếu thông tin nên các bên thường không lường trước được vấn đề, khi xảy ra không xử lý được. - Rất nhiều doanh nghiệp lao đao, khốn đốn do liên kết dần dần niềm tin vào sức mạnh của liên kết mất đi. - Trong khi đi xin việc người lao động hay nói tốt và sẵn sang nói không đúng sự thật để thuyết phục nhà tuyển dụng là mình tốt và phù hợp với công việc nên khi vào làm không làm được việc. Người sử dụng lao động không nỡ đuổi ai, chỉ biết la mắng xong rồi lại du di nên làm nản lòng những người lao động đang tích cực, nỗ lực cống hiến cho tổ chức. 4.1. Giải pháp xây dựng văn hóa liên kết Trong làm ăn kinh tế các doanh nghiệp cần hiểu rằng chúng ta đang chịu sức ép hội nhập rất lớn, thách thức tái cấu trúc, phân công lại lao động dẫn đến lien kết trở thành tất yếu nếu doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển. Khi hội nhập quốc tế, con người văn minh được cả thế giới công nhận đó là: con người tử tế, con người hiệu quả. Vì sao phải tử tế: nếu không tử tế sẽ bị loại khỏi cuộc chơi toàn cầu và mang còn tính quốc thể; Vì sao người hiệu quả: hiệu quả là câu chuyện sống còn của doanh nghiệp. Doanh nghiệp cần thấm nhuần nguyên tắc xây dựng lòng tin. Để niềm tin của các đối tác tăng lên doanh nghiệp cần: - Chân thành trong hợp tác: Giữ lời hứa, bỏ ăn cắp nghề, dấu nghề. 476
  9. TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG - Giữ nguyên tắc win-win: Tăng độ cởi mở, hợp tác với triết lý mình phải đem lợi cho họ, họ sẽ hợp tác với mình. - Sáng suốt: biết các mẫu người để có thể hợp tác, phải có dự phòng với các mẫu người khác. Muốn thay đổi để hội nhập doanh nghiệp Việt Nam cần tái cấu trúc doanh nghiệp, cần khởi nghiệp lại – làm mới hoàn toàn doanh nghiệp để đảm bảo doanh nghiệp có con người mới. Khởi nghiệp trở lại: doanh cần biết phải chữa cái gì, cần đi tìm người giải quyết. Chủ doanh nghiệp, đặc biệt doanh nghiệp đang thành công thường cho rằng mình luôn đúng. Trong khi xã hội đang thay đổi, ai biết và chuẩn bị trước thì sẽ thành công, vì vậy chủ doanh nghiệp phải chủ động học hỏi. Mỗi khi cơ hội đến chủ doanh nghiệp luôn giằng xé trong cân nhắc liên kết, mình được cái gì... làm sao để đón cơ hội đó. Trong khi đối tác đến lien kết với ta đã có hệ thống khảo sát của họ. Ví vậy doanh nghiệp luôn đứng trước câu hỏi: mình phải tham vấn với ai, mời ai cùng liên kết, làm sao tương đồng được với đối tác mà không ở thế yếu thế. Bản thân chủ doanh nghiệp phải đổi mới. Để có thể thấu hiểu mình và thay đổi chủ doanh nghiệp phải: Nâng cấp mình; Đi học;Tìm tư vấn, phải thuê chuyên gia (thuê cả chuyên gia nước ngoài). Cần kiện toàn pháp luật, đặc biệt là pháp luật về hợp đồng. Thay đổi văn hóa nền tảng phải có sự tham gia tích cực của giáo dục. 5. Kết luận Hội nhập quốc tế, tham gia vào sân chơi toàn cầu cơ hội nhiều hơn nhưng thách thức cũng lớn hơn. Đòi hỏi doanh nghiệp Việt Nam phải liên kết với nhau và liên kết với bạn bè thế giới để phát triển và lớn mạnh. Sự liên kết thực tâm, thực lòng và cân bằng, ngang ngửa đòi hỏi doanh nghiệp và chủ doanh nghiệp phải có nhiều nỗ lực thay đổi, thay đổi căn bản nếp nghĩ, nếp làm việc để trở nên hiệu quả và đáng tin cậy. Văn hóa liên kết sẽ đem lại sức mạnh cho doanh nghiệp, đảm lại lợi thế cạnh tranh và góp phần xây dựng thương hiệu doanh ngiệp Việt cần có sự nỗ lực và chung tay góp sức của toàn xã hội. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] Eckel.P, Hill.B & Green.M. On change: En route to transformation. Washington, D.C.: American Council on Education, An occasional paper series of the ACE project on leadership and institutional transformation, 1998. [2] Farmer.D.W, Strategies for change, In D.W. Steeples (Ed.). Managing change in higher education (pp.7-18). New directions for higher education, Vol.71. San Francisco: Jossey – Bass Publishers. [3] Fons Trompenaars, Charles Hampden-Turner, Chinh phục các làn song văn hóa, NXB Tri thức. 2006. [4] Kabanoff B., Waldersee R. & Cohen M., Espoused values and organizational change themes. Academy of Management Journal, 38 (4), 1075-1104, 1995. [5] Kashner J. B., Changing the corporate culture, In Managing change in higher education (pp.19- 28). New directions for higher education, Vol.71. San Francisco: Jossey – Bass Publishers. [6] Kezar A. & Eckel P., The Effect of Institutional Culture on Change Strategies in Hinger Education: Universal Princippals or Culturally Responsive Concept? Manuscript submitted for publication, 2000. [7] Đỗ Minh Cương, Văn hoá kinh doanh và triết lý kinh doanh, NXB Chính trị Quốc gia Hà Nội, 477
  10. HỘI THẢO KHOA HỌC QUẢN TRỊ VÀ KINH DOANH – COMB2016 2002. [8] Dương Đình Tạ, http://lienketkinhte.blogspot.com/2008/05/lin-kt-kinh-t.html. [9] Vũ Quốc Tuấn, Doanh nhân Sài gòn online, http://www.doanhnhansaigon.vn/kinh-te/lien-ket-de- ton-tai-va-phat-trien/1818/ [10] Dương Đình Giám, Liên kết kinh tế một nhu cầu cấp bách đối với phát triển kinh tế - xã hội hiện nay, TCCN số tháng 1/2007. [11] Nguyễn Mạnh Quân, Chuyên đề Văn hóa doanh nghiệp, Cục phát triển doanh nghiệp – Bộ Kế hoạch đầu tư, 2012. 478
nguon tai.lieu . vn