- Trang Chủ
- Nông nghiệp
- Xây dựng mô hình nâng cao thu nhập của người dân thông qua liên kết tổ chức ứng dụng đồng bộ các kỹ thuật tái canh cây cà phê tăng hiệu quả kinh tế tại 4 xã xây dựng nông thôn mới: CưNi, EaKmut, Cư Yang và Cư Huê huyện EaKar, tỉnh Đắk Lắk
Xem mẫu
- Trong đó, tại Thái Nguyên thu nhập của 1ha mô hình sản xuất chè VietGAP đạt cao nhất
284.344.200 đồng/ha (năm 2016), tăng 26,9% so với ngoài mô hình.
- Lãi của 1ha mô hình sản xuất chè VietGAP đạt từ 3.255.700 đồng/ha – 151.924.000
đồng/ha (năm 2015) và 3.614.200 đồng/ha - 185.944.200 đồng/ha (năm 2016). Trong
đó, lãi của 1ha mô hình sản xuất chè VietGAP tại Phú Thịnh đạt cao nhất đạt
185.944.200 đồng/ha (năm 2016) tăng 31,2% so với ngoài mô hình; thấp nhất tại Tân
Lập đạt 3.255.700 đồng/ha (năm 2015).
- Lãi của 1 tấn chè chế biến theo công nghệ dự án tăng từ 26,4% - 301,0% (năm 2015)
và 89,8% - 257,5% (năm 2016) so với chế biến theo kỹ thuật hiện hành. Trong
đó, lãi của 1 tấn chè chế biến theo công nghệ của dự án tại Phú Thịnh cao nhất đạt
25.600.000 đồng/tấn (năm 2016), tăng 239,1% so với chế biến theo kỹ thuật hiện hành.
3. Xây dựng được 03 mô hình liên kết sản xuất chè tại Tân Lập, Sơn Hùng, Phú Thịnh
- Hình thức liên kết hộ nông dân trồng chè ‘‘Tổ hợp tác sản xuất chè VietGAP’’
- Liên kết giữa hộ dân với cơ sở chế biến, tiêu thụ là‘‘Liên kết sản xuất theo hợp đồng’’.
Thông qua liên kết, đã nâng cao hiệu quả sản xuất chè của các hộ nông dân, các cơ sở
chế biến.
4. Dự án đã đào tạo, tập huấn chuyển giao kỹ thuật sản xuất chè theo VietGAP và công
nghệ chế biến chè xanh chất lượng cao cho người dân tại Phú Thọ, Hà Giang và Thái
Nguyên (kỹ thuật sản xuất chè VietGAP 09 lớp cho 320 người và công nghệ chế biến
chè xanh chất lượng cao 6 lớp cho 180 người).
5. Tổ chức 03 hội nghị đầu bờ để trao đổi kỹ thuật sản xuất chè theo VietGAP; chế biến
chè xanh chất lượng cao và liên kết trong sản xuất chè tại Thái Nguyên, Hà Giang và
Phú Thọ.
I. Thông tin chung
Tên Đề tài: Xây dựng mô hình nâng cao thu nhập của người dân thông qua liên kết tổ
chức ứng dụng đồng bộ các kỹ thuật tái canh cây cà phê tăng hiệu quả kinh tế tại 4 xã
xây dựng nông thôn mới: CưNi, EaKmut, Cư Yang và Cư Huê huyện EaKar, tỉnh Đắk
Lắk
Thời gian thực hiện: 2015-2016
Cơ quan chủ trì: Viện Khoa học Kỹ thuật Nông Lâm nghiệp Tây Nguyên
1139
- Chủ nhiệm đề tài: Đinh Thị Tiếu Oanh
ĐTDĐ: Email:
1. Đặt vấn đề
Việt Nam là một trong những nước sản xuất cà phê vối hàng đầu của thế giới.
Đến nay, cả nước có khoảng 650.000 ha, cà phê kinh doanh 549.130 ha, trong đó 90%
diện tích tập trung ở vùng Tây Nguyên. Hiện nay, việc tái canh cây cà phê ở Tây Nguyên
nói chung và việc tái canh ngay trên đất cà phê già cỗi đang là vấn đề hết sức khó khăn
cho người trồng cà phê cũng như đối thách thứcvới ngành cà phê Việt Nam, đặc biệt khi
diện tích cà phê tái canh ngày càng gia tăng. Theo số liệu thống kê của Cục trồng trọt
(2013), nước ta có khoảng 15% diện tích cà phê trên 20 năm tuổi và 25% diện tích cà
phê từ 15 - 20 năm tuổi, tương đương với khoảng 140.000 - 160.000 ha diện tích cà phê
cần được tái canh trong 5 - 10 năm tới.
Trong thực tiễn, các diện tích cà phê trồng lại trên nền đất cũ thường bị chết,
nguyên nhân chủ yếu bộ rễ bị hư hại do tuyến trùng trong đất tấn công và nấm bệnh xâm
nhập làm thối nhanh rễ cà phê; hoặc sinh trưởng kém do vấn đề quản lý kỹ thuật (cây
giống không đảm bảo chất lượng, không tuân thủ nghiêm quy trình tái canh cà phê do
Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn ban hành năm 2010 và 2013, đặc biệt là vấn
đề luân canh, cải tạo đất, xử lý đất....) dẫn đến việc tái canh tác cà phê thường không có
hiệu quả (tỷ lệ thành công thấp). Đây là vấn đề đang tồn tại cần có các biện pháp giải
quyết để ngành cà phê phát triển ổn định, bền vững. Tuy nhiên, đã có một số diện tích
cà phê của các công ty hoặc của các hộ nông dân tái canh thành công khi được áp dụng
biện pháp luân canh với cây trồng khác từ 2 - 4 năm, còn hầu hết việc tái canh ngay cây
cà phê trên đất vừa nhổ bỏ cà phê cũ có nhiễm tuyến trùng đều thất bại chiếm 88% (Chế
Thị Đa, 2012).
Huyện EaKar có diện tích canh tác cà phê 8.042 ha, trong đó diện tích thu hoạch
là 7.110 ha (Niên giám thống kê Đắk Lắk, 2015). Theo định hướng phát triển nông lâm
nghiệp huyện EaKar giai đoạn 2011 - 2020 thì cà phê vẫn là cây công nghiệp trồng chủ
lực của huyện, sau một thời gian dài tăng và giảm diện tích ở những phần diện tích
không phù hợp, phần diện tích hiện tại sẽ được duy trì ổn định (Báo cáo tổng kết huyện
EaKar, 2016). Thực hiện đề án phát triển cà phê bền vững, nhằm tăng hiệu quả sản xuất
giá trị sản phẩm, cà phê sẽ được bố trí ở các xã: EaKar, Xuân Phú, Cư Huê, Ea Đar,
EaKmut, Cư Ni, Cư Yang, Ea Ô.
Trong chương trình xây dựng nông thôn mới tại tỉnh Đắk Lắk, mục tiêu là thúc
đẩy mạnh, nhanh và bền vững cơ cấu kinh tế của tỉnh theo hướng công nghiệp hóa, hiện
đại hóa, hoàn thành cơ bản công tác quy hoạch xây dựng nông thôn mới cấp xã và đề án
nông thôn mới các cấp: xã, huyện, tỉnh. Từ mục tiêu trên, huyện EaKar đã đưa Chương
1140
- trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới thực hiện trên 14 xã, đồng thời xác
định được lộ trình xây dựng nông thôn mới cho 05 xã giai đoạn 2011-2015 (trong đó có
xã Cư Ni và xã EaKmut), 06 xã giai đoạn 2011-2020 (trong đó có Cư Huê, Cư Yang).
Đối với thực tế trong sản xuất cà phê tại địa bàn huyện EaKar tỉnh Đắk
Lắk, đã có một số mô hình tái canh thành công như Công ty TNHH MTV cà phê 720 và
721. Tuân thủ quy trình tái canh của Bộ NN & PTNT về luân canh cải tạo đất, phòng
trừ tuyến trùng trước khi trồng, đầu tư thâm canh hiệu quả. Kết quả, hiện các vườn cây
cho sinh trưởng và phát triển tốt, cho năng suất đạt từ 2,5 - 3 tấn nhân/ha vào những năm
đầu kinh doanh. Tuy nhiên, bên cạnh những diện tích tái canh thành công, các Công ty
trên địa bàn huyện vẫn đang đối mặt với một số diện tích tái canh bị nhiễm bệnh vàng
lá do tuyến trùng. Đây là những diện tích có mầm bệnh cũ trên vườn cây trước khi thanh
lý, những chân đất bị ngập úng dễ lây lan mầm bệnh...
Ngoài ra, vấn đề tái canh ở các nông hộ trồng cà phê cũng gặp nhiều khó
khăn, bên cạnh điều kiện đất đai có độ phì thấp, đất còn thường xuyên ngập úng vào
mùa mưa nhưng khó giữ nước trong mùa khô, dẫn đến canh tác gặp nhiều bất lợi. Việc
tái canh ở những hộ nghèo còn khó khăn hơn khi vừa mất nguồn thu nhập do phải nhổ
bỏ cà phê cũ, vì vậy vốn đầu tư cho việc trồng lại cà phê bị thiếu hụt, dẫn đến việc ứng
dụng các kỹ thuật mới trong tái canh gặp nhiều hạn chế, thiếu tính đồng bộ, hiệu quả
kém. Bên cạnh đó, do điều kiện tiếp cận với các kỹ thuật tiên tiến trong tái canh cà phê
còn quá ít, việc chuyển giao tiến bộ kỹ thuật còn chậm đã làm cho không nhỏ một số hộ
trên địa bàn thực hiện việc tái canh cà phê theo ý tự phát, đầu tư không đúng hoặc lãng
phí nguồn vốn, làm tăng chi phí cho việc tái canh cà phê.
Từ những phân tích và đánh giá trên cho thấy để tái canh đảm bảo hiệu quả cao
trên địa bàn huyện nói chung và các xã vùng dự án nói riêng, thì việc ứng dụng các tiến
bộ kỹ thuật mang tính đồng bộ, tổ chức canh tác theo hướng liên kết giữa các hộ dân
hoặc giữa người dân với công ty, doanh nghiệp sẽ mang lại hiệu quả và có tính khả thi
cao, giảm thiểu chi phí đầu vào, tăng thu nhập thông qua việc tăng năng suất vườn cây,
đồng thời tăng chất lượng đáng kể nhờ sử dụng các giống cà phê mới.
1141
- 2. Mục tiêu nghiên cứu
2.1. Mục tiêu chung
Nâng cao thu nhập của người dân trên 20%, góp phần xóa đói giảm nghèo, 100%
các hộ tham gia mô hình không còn là hộ nghèo thông qua xây dựng mô hình liên kết
nông dân và doanh nghiệp ứng dụng đồng bộ các tiến bộ kỹ thuật đã được nghiệm thu
để tái canh cà phê đảm bảo cây sinh trưởng phát triển tốt, hiệu quả kinh tế cao, bền vững
phục vụ chương trình xây dựng nông thôn mới.
2.2. Mục tiêu cụ thể
+ Thu nhập của người dân tăng trên 20%.
+ Kỹ thuật tái canh trên cơ sở Quy trình tái canh, sản xuất cà phê bền vững đã
được nghiệm thu.
+ 04 mô hình tái canh cà phê tổng diện tích 50 ha, khi vào kinh doanh năng suất
tăng trên 50% so với năng suất trước khi tái canh; đảm bảo chu kỳ kinh doanh có hiệu
quả trên 20 năm.
+ Xây dựng 01 mô hình tổ chức tái canh cà phê hiệu quả, trên cơ sở diện tích các
mô hình tái canh (tái canh hoàn toàn hoặc tái canh cuốn chiếu).
+ Tập huấn, đào tạo (250 lượt người), hội thảo, hội nghị (250 lượt người)
+ Báo cáo về kết quả, kinh nghiệm xây dựng mô hình và đề xuất cơ chế chính
sách nhân rộng mô hình tái canh cà phê.
3. Các kết quả chính của nhiệm vụ đã đạt được
3. Các kết quả chính của nhiệm vụ đã đạt được
3.1. Hiện trạng tái canh cà phê vùng dự án
Điều tra tình hình tái canh cà phê của các hộ nông dân tại 4 xã xây dựng Nông thôn mới
trong năm 2015, vớí tổng số 125 hộ cho thấy: Về diện tích canh tác cà phê của các hộ
tương đối thấp, trung bình chỉ 0,66 ha, trong đó có nhiều hộ tái canh với diện tích nhỏ
lẻ dưới 0,3 ha chiếm 18,3%. Năng suất bình quân vườn cà phê trước khi nhổ bỏ cà phê
đạt rất thấp, trung bình chỉ đạt 0,74 tấn nhân/ha, trong đó có những hộ gần như không
có sản lượng, không thể duy trì sản xuất và buộc phải nhổ bỏ để trồng lại. Số lao động
chính trong một hộ biến động lớn trong khoảng từ 1 – 4 người, trong đó số lao động
chính 2 người trong một gia đình chiếm nhiều nhất là 65,6%.
Phần lớn diện tích đất canh tác cà phê của các hộ trồng là đất xám nghèo dinh dưỡng,
chiếm 75,8% số hộ điều tra, gây ra nhiều khó khăn trong canh tác cà phê cho các hộ
trồng. Chu kỳ kinh doanh cà phê cũng vì đó mà bị rút ngắn lại. Qua số liệu thống kê cho
thấy: số hộ tái canh cà phê đa phần có tuổi vườn cây còn trẻ, dưới 20 năm tuổi khá lớn
và chiếm 62,4%, trong khi đó chu kỳ kinh doanh thích hợp nhất từ 20 - 25 năm chỉ chiếm
1142
- 26,9% trong tổng số hộ điều tra. Đối với nguyên nhân dẫn đến việc tái canh cà phê, phần
lớn là do vườn cây già cỗi, có năng suất quá thấp, không mang lại hiệu quả kinh tế
(chiếm tỷ lệ 47,3%), những vườn cây bị nhiễm bệnh vàng lá thối rễ nặng chiếm tỷ lệ
thấp 7,5%.
Phần lớn các hộ điều tra đều lựa chọn phương pháp nhổ gốc bằng thủ công đào gốc
(51,5%), một tỷ lệ nhỏ các hộ sử dụng phương pháp nhổ cây bằng palăng và máy kéo.
Việc sử dụng phương pháp đào gốc để nhổ cây thường dẫn đến việc không loại bỏ hết
được tàn dư rễ trong đất. Tuy nhiên các hộ đều quan tâm đến việc thu gom rễ cà phê sau
khi nhổ, với tỷ lệ 95,7% số hộ thực hiện, qua đó giúp loại bỏ tàn dư thực vật và hạn chế
các nguồn bệnh lây lan. Phần lớn các hộ trồng đều lựa chọn luân canh trước khi trồng
lại cà phê (chiếm 78,5%) với thời gian luân canh chủ yếu từ 1 - 3 năm. Tuy nhiên vẫn
có tỷ lệ số hộ thực hiện tái canh ngay sau khi nhổ (21,5%). Cây luân canh được trồng
nhiều nhất là bắp, chiếm 43,8%.
Các cây họ đậu chiếm 30,1%. Việc lựa chọn các loại cây trồng khác không phải cây họ
đậu đã hạn chế việc cải tạo đất, bổ sung nguồn dinh dưỡng vào trong đất trong thời gian
luân canh. Phần lớn các hộ trồng cà phê đều luân canh trước khi tái canh, tuy nhiên các
hộ ít quan tâm đến việc xử lý hố cũng như bón lót phân bón trước khi trồng. Phần lớn
các hộ đều không xử lý nguồn bệnh trong hố trước khi trồng, chiếm trên 75%. Đối với
các hộ có xử lý thuốc hóa học và sinh học, thời gian xử lý trước khi trồng tương đối
ngắn, chủ yếu là dưới 1 tháng.
Việc bón lót phân hữu cơ và phân lân cũng chưa được chú trọng, có tới 21,7% số hộ
không bón lót phân hữu cơ và 29,7% số hộ không bót lót phân lân. Điều này làm ảnh
hưởng đến khả năng sinh trưởng của cây cà phê trong thời gian kiến thiết cơ bản. Đối
với các hộ thực hiện việc bón lót phân hữu cơ, lượng phân bón cũng không được đảm
bảo, đặc biệt là đối với nền đất xám đặc thù của vùng EaKar. Lượng phân các hộ bón
- niên dưới dạng trồng xen kết hợp như xen cây bơ, cây điều, sầu riêng, trong đó cây điều
được trồng xen nhiều nhất với tỷ lệ 51,6%. Cây muồng đen được trồng chủ yếu xung
quanh bờ lô. Phần lớn các hộ đều trồng xen cây ngắn ngày trong vườn cà phê (83,7%)
nhằm tăng thêm thu nhập trong thời gian kiến thiết cơ bản, các loại cây trồng xen chủ
yếu là bắp, đậu đỗ và nghệ.
Đối với các hộ trồng xen cây lưu niên trong vườn cà phê tái canh, qua điều tra cho thấy
có 4 loại cây là cây bơ, điều, sầu riêng và xoài. Đối với cây sầu riêng, các hộ đều trồng
với khoảng cách 9 x 15 m, mật độ 74 cây/ha. Các loại cây trồng xen còn lại, các nông
hộ trồng với các khoảng cách thay đổi khá lớn, ví dụ đối với cây bơ, khoảng cách trồng
thay đổi từ 9 x 12 m đến 12 x 15 m, dẫn đến mật độ chênh lệch khá lớn từ 56 - 93 cây/ha,
trong đó mật độ trồng 12 x 15 chiếm tỷ lệ nhiều nhất là 60%. Đối với cây điều và cây
xoài cũng tương tự, mật độ trồng thay đổi khá lớn từ 69 - 93 cây/ha đối với điều và từ
44 - 74 cây/ha đối với xoài.
Tình hình bệnh vàng lá, thối rễ trên vườn cây của các hộ tại thời điểm điều tra cho thấy
có 68,2% số vườn cây bị nhiễm bệnh với các mức độ khác nhau, trong đó chủ yếu bị
bệnh nhẹ (
- 3.2.1. Xây dựng mô hình thuộc công ty để thực hiện tái canh cà phê, diện tích 20 ha
(MH01)
Để có cơ sở đánh giá, đưa ra liều lượng và phương pháp bón phân phù hợp cho cà phê
tái canh, chúng tôi đã tiến hành khảo sát, lấy mẫu đất và phân tích hàm lượng dinh
dưỡng. Kết quả phân tích mẫu đất trước khi khảo nghiệm cho thấy: đất tại tất cả các mô
hình được đánh giá rất chua, hàm lượng hữu cơ và đạm tổng số nghèo đến trung bình,
lân dễ tiêu và kali dễ tiêu nghèo đến trung bình; Ca, Mg trao đổi rất nghèo. Mặc dù dinh
dưỡng đã được cải thiện sau khi xây dựng mô hình nhưng đất vẫn còn chua, hàm lượng
hữu cơ và đạm tổng số thấp đến trung bình, hàm lượng P2O5 và K2O dễ tiêu đã được cải
thiện rõ nhất, từ trung bình đến giàu. Hàm lượng trao đổi Ca 2+ và Mg 2+ (lđl/100g đất)
đều tăng so với trước thí nghiệm nhưng vẫn ở mức nghèo.
Khả năng sinh trưởng, năng suất, chất lượng nhân và bệnh vàng lá, thối rễ của các mô
hình tái canh: Tỷ lệ cây vàng lá và tỷ lệ cây chết của mô hình tại công ty 720, 721 sau
18, 30, 40 tháng đều thấp hơn so với công thức đối chứng. Kết quả trung bình cho thấy
công thức mô hình có tỷ lệ vàng lá, tỷ lệ cây chết là khá thấp và tỷ lệ này giảm dần từ
18 đến 40 tháng, điều này cho thấy vườn các cây tái canh quy mô trang trại/công ty hiện
tại khá thành công và phát triển đồng đều. Về năng suất, trong năm 2015 và 2016 các
mô hình tại 2 công ty đều cao hơn so với đối chứng rất rõ rệt. Năm 2016, năng suất trung
bình của các mô hình tại 2 công ty đạt 2,6 kg nhân/cây, ở công thức đối chứng năng suất
chỉ đạt 1,9 kg nhân/cây, trung bình năng suất mô hình tăng 38,1% so với đối chứng.
Năng suất trung bình của mô hình cao hơn công thức đối chứng đã cho thấy giống mới
có nhiều đặc điểm nổi trội so với giống cũ, vườn cây có tiềm năng năng suất cao.
Bảng 1. Năng suất của mô hình tái canh Công ty sau 36 và 42 tháng trồng
Vụ 2015 Vụ 2016
Tỷ lệ Tỷ lệ
Địa điểm Công thức Năng suất Năng suất Năng suất Năng suất
tăng so tăng so
(kg (tấn kg (tấn
với ĐC với ĐC
nhân/cây) nhân/ha) nhân/cây nhân/ha)
(%) (%)
MH 0,98 1,09 17,2 2,52 2,8 33,3
Công ty
ĐC 0,84 0,93 1,89 2,1
720
Pr > | t | * **
MH 1,12 1,24 36,3 2,68 2,97 47,0
Công ty
ĐC 0,82 0,91 1,82 2,02
721
Pr > | t * *
TB MH 1,1 1,2 33,3 2,6 2,9 38,1
1145
- ĐC 0,8 0,9 1,9 2,1
Chất lượng cà phê nhân của mô hình trong năm 2015 - 2016 tại công ty 720 và 721 đều
vượt trội hơn so với mô hình sản xuất đại trà. Khối lượng 100 nhân trung bình của mô
hình đạt 18,3 g, công thức đối chứng chỉ 15,5 g và khác biệt có ý nghĩa thống kê. Tỷ lệ
hạt trên sàng 16 của mô hình đạt 88,3% và tỷ lệ tươi nhân đạt 4,9 g, đối chứng chỉ đạt
tương ứng 65,7% và 4,7 g.Mô hình tái canh quy mô công ty cho thấy chất lượng cà phê
nhân vượt trội so với sản xuất đại trà, có thể thấy các giống mới trồng tại Eakar cho năng
suất cao đồng thời chất lượng cà phê nhân cải thiện rất nhiều so với các giống cũ.
Mức độ nhiễm bệnh gỷ sắt của mô hình ở công ty 720 có tỷ lệ bệnh gỷ sắt nhẹ (2,6%)
và trung bình (5,8%) đều thấp hơn tỷ lệ nhiễm bệnh gỷ sắt của công thức đối chứng lần
lượt là 5,8% và 0,8%, ở mức độ nhiễm bệnh nặng thì cả 2 công thức đều không bị nhiễm
bệnh. Tại công ty 721 tỷ lệ nhiễm bệnh gỷ sắt của mô hình ở mức độ nhẹ là 4,4 % và
mức độ nặng là 1,5% trong khi đó ở công thức đối chứng tỷ lệ nhiễm bệnh gỷ sắt lần
lượt là 7,1% và 2,2%, còn ở mức độ nhiễm bệnh nặng thì mô hình không bị nhiễm bệnh
tuy nhiên ở công thức đối chứng là 1,1%. Mức độ nhiễm bệnh trung bình từ nặng đến
nhẹ của 2 công ty ở mô hình đều thấp hơn khá nhiều so với tỷ lệ nhiễm bệnh ở công
thức đối chứng.
Bảng 2. Hiệu quả sản xuất đối với 01 ha mô hình tái canh công ty/trang trại
(sau 42 tháng trồng)
Năng suất Tổng chi Tổng
Lợi nhuận
Mô hình (tấn phí doanh thu
(1.000đ)
nhân/ha) (1.000đ) (1.000đ)
Mô hình 2,80 60.015 126.000 65.985
Công
Đại trà* 2,10 49.455 94.500 45.045
ty
720 Tỷ lệ tăng so với đại trà 33,3 21,4 33,3 46,5
(%)
Mô hình 2,97 60.015 133.650 73.635
Công
Đại trà* 2,02 50.196 90.900 40.704
ty
721 Tỷ lệ tăng so với đại trà
47,0 19,6 25,0 80,9
(%)
Trung bình mô hình 2,89 60.015 119.825 69.810
Trung bình tỷ lệ tăng so
40,2 20,5 26,2 63,7
với đại trà (%)
Ghi chú: * Cập nhật số liệu điều tra; Giá cà phê nhân: 45.000.000 đồng/tấn; Công lao
động: 150.000 đồng
1146
- Để kết luận về hiệu quả của mô hình, cần đánh giá tổng thể hiệu quả kinh tế của các mô
hình tái canh cà phê trong dự án so với sản xuất đại trà. Tuy nhiên khi vườn cây chưa đi
vào kinh doanh ổn định, có thể sơ bộ ước tính hiệu quả kinh tế mô hình so với đối chứng
sau 3 năm trồng. Về chi phí thuê mướn, đa phần canh tác cà phê chỉ dựa vào nguồn lao
động sẵn có trong gia đình.
Mô hình tại công ty 720 và công ty 721: Tính trong vụ thứ 4 (sau 42 tháng trồng) chi
phí đầu tư cho mô hình là 60.015.000 đồng/ha, cao hơn 19,6 - 21,4% so với đối chứng
trong sản xuất (49.455.000 - 50.196.000 đồng/ha), với năng suất tăng trung bình 40,2%
(dao động từ 33,3 - 47,0%). Mô hình công ty 720 có doanh thu tăng 33,3% và cho lợi
nhuận tăng 46,5%; Mô hình tại công ty 720 có doanh thu tăng 25,0%, tuy nhiên lợi
nhuận tăng 80,9%, tương ứng với số tiền lời là 73.635.000 đồng/1 ha mô hình.
3.2.2. Xây dựng mô hình theo nhóm hộ tái canh theo kiểu cuốn chiếu theo nhóm hộ, diện
tích 15 ha
Kết quả theo dõi khả năng sinh trưởng các mô hình cuốn chiếu sau 6, 18 và 30 tháng
trồng cho thấy: các mô hình có khả năng sinh trưởng tốt hơn so với các vườn đối chứng,
sự vượt trội về sinh trưởng của các mô hình bắt đầu thể hiện rõ sau 18 tháng trồng, sự
sai khác về chiều dài cành, số đốt/cành có ý nghĩa thống kê. Sau 30 tháng trồng, đường
kính gốc biến động từ 4,5 - 4,9 cm; chiều cao cây từ 138,5 - 140,2 cm; 16,3 - 17,4 cặp
cành; chiều dài canh 121,7 - 126,6 cm; 22,6 - 26,5 đốt/cành, trong đó có 13,4 - 13,7 đốt
mang quả; 17,3 - 19,8 quả/đốt, chỉ tiêu số quả/đốt của mô hình cũng cao hơn đối chứng
có ý nghĩa thống kê. Đây là cơ sở cho thấy các mô hình tái canh có khả năng thành công
cao, bền vững và có tiềm năng năng suất vượt trội so với đối chứng.
Kết quả theo dõi tỷ lệ cây vàng, cây chết các vườn mô hình cuốn chiếu cho thấy: tỷ lệ
cây vàng, cây chết của mô hình thấp hơn so với đối chứng nhưng chưa có ý nghĩa về
mặt thống kê, do sự biến động về tỷ lệ cây vàng, cây chết giữa các vườn lớn. Sau 18
tháng trồng, tỷ lệ cây vàng của mô hình biến đồng từ 5,1 - 6,0% trong khi đó đối chứng
cao gấp đôi từ 10,2 - 12,3%; tỷ lệ cây chết của mô hình 4,1% thấp hơn đối chứng (từ 5,6
- 5,9%). Sau trồng 30 tháng, tỷ lệ cây vàng của mô hình giảm còn 4,8% trong khi đối
chứng tăng lên 14,8%; tỷ lệ cây chết đều giảm so với sau 18 tháng trồng và của mô hình
thấp hơn so với đối chứng. Như vậy, việc đầu tư các biện pháp kỹ thuật xử lý hố, bón
phân hữu cơ và các loại chế phẩm sinh học hỗ trợ tái canh cà phê đã làm tăng khả năng
chống chịu cho cây, kích thích sinh trưởng, đảm bảo tái canh thành công.
Bảng 3. Một số chỉ tiêu chất lượng cà phê nhân của mô hình tái canh cuốn chiếu (sau
30 tháng trồng)
Tăng so Tăng so
Khối Tỷ lệ hạt Tỷ lệ
với đối với đối
Địa điểm lượng 100 trên sàng tươi
chứng chứng
nhân (g) 16 (%) nhân
(%) (%)
1147
- Cư Huê Mô hình 19,1 23,2 84,3 15,5 4,7
(1,4 ha, 2
Đối chứng 15,5 68,5 4,9
hộ)
Cư Ni Mô hình 19,4 27,6 87,4 17,1 4,8
(3,2 ha, 5
Đối chứng 15,2 69,8 5,1
hộ)
Eakmut Mô hình 18,9 23,5 85,2 15,3 4,8
(2,3 ha, 4
Đối chứng 15,3 69,9 5,0
hộ)
Cư Yang Mô hình 18,2 15,9 81,1 13,3 4,9
(3,7 ha, 5
Đối chứng 15,7 67,8 4,9
hộ)
Mô hình 18,9 22,5 84,5 15,4 4,8
Trung bình
Đối chứng 15,4 69,1 5,0
Kết quả phân tích, đánh giá một số chỉ tiêu chất lượng cà phê nhân sau 30 tháng
trồng cho thấy: mô hình có khối lượng, kích thước hạt lớn hơn so với đối chứng ở tất cả
các điểm xây dựng mô hình. Mô hình có kích thước hạt tại 4 xã đạt khối lượng 100 nhân
trung bình từ 18,2 - 19,4 g và tỷ lệ hạt trên sàng 16 đạt trung bình từ 81,1 - 87,4%. Trong
khi đó, đối chứng có kích thước hạt
- Bảng 4. Năng suất của mô hình tái canh theo kiểu cuốn chiếu
Tăng so Dự kiến Tăng so
Sau 30 tháng với đối với đối
sau 42 tháng
Địa điểm trồng (tấn chứng (%) chứng
trồng
nhân/ha) (%)
(tấn nhân/ha)
Cư Huê Mô hình 1,05 29,6 2,05 32,3
(1,4 ha; Đối chứng 0,81 1,55
2 hộ) Pr > | t | * -
Cư Ni Mô hình 1,10 26,4 2,24 35,8
(3,2 ha; Đối chứng 0,87 1,65
5 hộ) Pr > | t | * -
EaKmut Mô hình 1,33 44,6 2,43 38,6
(2,3 ha; Đối chứng 0,92 1,75
4 hộ) Pr > | t | * -
Cư Yang Mô hình 1,02 9,7 1,93 20,6
(3,7 ha; Đối chứng 0,93 1,60
5 hộ) Pr > | t | Ns -
Mô hình 1,12 23,1 2,16 31,7
Trung bình
Đối chứng 0,91 1,64
Kết quả theo dõi năng suất sau 30 tháng trồng tại các xã thực hiện dự án cho thấy: xã
EaKmut có năng suất đạt 1,33 tấn nhân/ha cao hơn so với các xã Cư Huê, Cư Ni và Cư
Yang (
- Năng suất Tổng chi phí Tổng doanh Lợi nhuận
Mô hình (tấn
(1.000đ) thu (1.000đ) (1.000đ)
nhân/ha)
Mô hình 2,16 61.115 97.200 36.085
Đại trà* 1,64 46.855 73.800 26.945
Tỷ lệ tăng so với đại trà
31,7 30,4 31,6 33,9
(%)
Ghi chú: * Cập nhật số liệu điều tra; Giá cà phê nhân: 45.000.000 đồng/tấn; Công lao
động: 150.000 đồng
Chi phí đầu tư cho mô hình tái canh chuốn chiếu là 61.115.000 đồng/ha, tăng 30,4% so
với đối chứng trong sản xuất nhưng năng suất cũng tăng 31,7% nên tổng doanh thu cũng
tăng 31,6%. Lợi nhuận của mô hình đạt 36.085.000 đồng/ha/năm, tăng 33,9% so với lợi
nhuận của sản xuất đại trà (chỉ đạt 26.945.000 đồng).
3.2.3. Xây dựng mô hình theo nhóm hộ tái canh các cây xấu trên vườn đã tái canh chưa
hiệu quả hoặc các cây giống xấu trên vườn đang sản xuất kinh doanh kém hiệu quả,
diện tích 10 ha
Đối với mô hình khắc phục cây xấu tại các xã tham gia dự án, người dân hoàn toàn dùng
biện pháp cưa ghép cải tạo các cây xấu, một số cây bộ rễ bị hỏng hoặc còi cọc thì đào
bỏ và trồng dặm lại, tuy nhiên số lượng không đáng kể. Theo dõi tình hình vườn cây của
các nông hộ trước khi cưa ghép cải tạo, đã ghi nhận được một số kết quả: Tổng diện tích
cưa ghép khắc phục các cây xấu ở 3 xã là 10 ha, trong đó xã EaKmut là 2,4 ha; xã Cư
Ni là 2,8 ha và xã Cư Yang là 4,8 ha. Các mô hình áp dụng biện pháp cưa ghép thay thế
có diện tích trung bình là 1,0 ha và dao động từ 0,4 – 1,5 ha. Số cây thực hiện cưa ghép
cải tạo cây giống xấu trên vườn trung bình là 34,6% và dao động từ 22,5 – 45,0%. Phần
lớn diện tích vườn cây khắc phục tái canh có ở độ tuổi dưới 20 năm:
- Theo dõi tỷ lệ cây ghép sống sau cùng các mô hình sau ghép cho thấy: các dòng vô tính
sau 2 tháng ghép có tỷ lệ sống rất cao, trung bình là 91,4%, trong đó TR4 có tỷ lệ sống
cao nhất đạt 94,1% và TR11 có tỷ lệ sống thấp nhất là 88,6%. Cây ghép sinh trưởng
kém thường chiếm tỷ lệ nhất định trong vườn: sau 6 tháng ghép chiếm 8,2% và sau 12
tháng giảm còn 3,9%. Nguyên nhân do sau ghép có 1 số gốc ghép bị hiện tượng thiếu vi
lượng cục bộ trong thời gian đầu, đây là hiện tượng bình thường ở tất cả các vườn ghép
cải tạo. Hiện tượng này sẽ được khắc phục hoàn toàn bằng các biện pháp chỉ đạo sau
ghép, đào rãnh bón phân chuồng 20 m3/ha, đánh chồi vượt 1 lần/tháng, kết hợp với phun
phân vi lượng qua lá 2 lần. Kết quả cho thấy sau 18 tháng ghép cho thấy các giống ghép
đều sinh trưởng tốt ở hầu hết các mô hình. Trong đó giống TR4 cho kết quả sinh trưởng
tốt hơn.
Dựa trên kết quả thu thập các chỉ tiêu cấu thành năng suất của các dòng vô tính, chúng
tôi đã tính toán được năng suất dự kiến của các cây ghép cải tạo: năng suất sau 30 tháng
ghép của các dòng vô tính trung bình đạt 1,53 kg nhân/ cây và sau 42 tháng trung bình
đạt 2,90 kg nhân/cây. Tổng năng suất toàn mô hình sau 30 tháng dự kiến là 2,29 tấn
nhân/ha; năng suất sau 42 tháng dự kiến sẽ đạt 3,07 tấn nhân/ha và vượt trội hơn hẳn so
với năng suất trước khi khắc phục từ 55,28%, giúp cải thiện kích thước hạt cũng như
chất lượng hạt hơn rất nhiều so với vườn cà phê cũ. Như vậy, với năng suất dự kiến và
dựa vào bản chất của từng giống thì ở hầu hết các mô hình đều cho năng suất tương
đương nhau, trong đó giống TR4 và TR11 có số đốt mang quả nhiều hơn nên năng suất
vụ đầu cao hơn. Tuy nhiên giống TR9 có số cành dự trữ khá nhiều nên năng suất sẽ cao
hơn ở các vụ sau.
Bảng 7. Năng suất dự kiến của mô hình cưa ghép cải tạo sau 30 tháng và 42 tháng
NS trước khi ghép NS dự kiến sau NS dự kiến sau 42
Địa điểm Số hộ tham cải tạo 30 tháng tháng
vườn cây gia
(tấn nhân/ha) (tấn nhân/ha) (tấn nhân /ha)
1 2,00 2,29 3,10
2 1,75 2,01 2,85
Cư Ni
3 2,20 2,54 3,44
Tổng/TB 1,98 2,28 3,13
4 1,95 2,20 3,02
5 1,80 2,08 2,84
Ea Kmut 6 2,30 2,51 3,40
7 2,00 2,36 3,28
8 2,25 2,75 3,35
1151
- Tổng/TB 2,10 2,38 3,18
9 2,67 2,91 3,54
10 1,60 1,90 2,57
11 1,90 2,23 2,88
Cư Yang
12 1,50 1,76 2,40
13 2,00 2,23 3,19
Tổng/TB 1,90 2,20 2,91
Tổng/TB 3 xã 1,99 1,99 3,07
Mô hình có sử dụng các giống cà phê vối mới đã cho chất lượng cà phê nhân vượt trội
so với các giống đại trà, khối lượng 100 nhân của mô hình đạt trung bình 19,4 g và hạt
trên sàng 16 đạt trên 80,7%, trong khi các giống đại trà chỉ đạt tương ứng là 15,3 g và
70,1%. Khối lượng 100 nhân của TR9 là 22,8 g vượt trội hơn hẳn so với khối lượng 100
nhân của TR4 và TR11. Ở những năm đầu tiên, số đốt mang quả chưa nhiều nên năng
suất của giống TR9 cũng tương đương với giống TR4, TR11 có quả bé hơn. Tuy nhiên
số đốt mang quả của TR4 và TR11 nhiều nên năng suất ở những năm đầu tiên của các
giống là tương đương nhau.
Bảng 8. Hiệu quả sản xuất đối với 01 ha mô hình tái canh khắc phục cây xấu (dự kiến
sau 3 năm)
Năng suất Tổng
Tổng chi phí Lợi nhuận
Mô hình (tấn doanh thu
(1.000đ) (1.000đ)
nhân/ha) (1.000đ)
Mô hình 3,07 64.475 138.150 74.675
Vườn cũ 1,99 47.655 89.550 40.895
Tỷ lệ tăng so với đại trà (%) 54,3 35,3 54,3 75,9
Ghi chú: * Cập nhật số liệu điều tra; Giá cà phê nhân: 45.000.000 đồng/tấn; Công lao
động: 150.000 đồng.
Kết quả xây dựng mô hình ghép cải tạo cây xấu trên vườn đã tái canh chưa hiệu quả và
vườn đang sản xuất kinh doanh kém hiệu quả cho thấy: chi phí đầu tư cho 01 ha mô hình
là 64.475.000 đồng/h,a tăng 35,3% so với chi phí đầu tư cho sản xuất vườn cũ, nhưng
năng suất và doanh thu lại tăng tới 54,3%. Lợi nhuận của mô hình đạt 74.675.000
đồng/ha/năm, tăng tới 75,9% so với vườn không ghép cải tạo (chỉ đạt 40.895.000
đồng/ha).
3.2.4. Xây dựng mô hình tái canh cà phê có trồng xen cây ăn quả, diện tích 05 ha
1152
- Kết quả theo dõi mô hình tái canh cà phê xen cây ăn quả sau 18 tháng trồng cho thấy:
Đường kính gốc và chiều cao cây của các giống TRS1 tương đối đồng đều giữa các mô
hình sinh trưởng khỏe, đường kính gốc trung bình đạt 3,1 - 3,4 cm, cao cây đạt 121,2 -
123,6 cm. Các yếu tố cấu thành năng suất gồm số cặp cành cấp 1, số đốt trên cành đạt
từ 13,8 - 15,8 cặp cành và 15,3 - 16,9 đốt/cành. Tuy nhiên, ở xã Cư Yang có 1 hộ trồng
mô hình trên chân đất thấp hay xảy ra tình trạng ngập úng nên sinh trưởng kém hơn so
với các hộ khác. Mô hình tại EaKmut sinh trưởng tốt nhất. Sau 30 tháng trồng tại 2 mô
hình EaKmut và Cư Huê sinh trưởng tốt, chiều cao cây đạt 132,7 - 138,9 cm. Số đốt
mang quả và số quả trên đốt giữa 2 mô hình không có sự biến động lớn, số đốt mang
quả đạt 13,2 - 12,6 đốt, số quả/đốt đạt 17,8 - 19,2 quả.
Chỉ tiêu quan trọng thể hiện vườn cây đồng đều hay không đó là tỷ lệ cây vàng lá và tỷ
lệ cây chết. Kết quả theo dõi tỷ lệ cây vàng lá và cây chết tại các mô hình sau 6, 18 và
30 tháng trồng không có sự biến động lớn. Tỷ lệ cây chết và cây vàng lá sau 30 tháng
trồng đều nằm trong mức cho phép (tỷ lệ cây chết
- thu đạt 126.300.000 đồng/ha tăng tới 73,1%. Lợi nhuận của mô hình đạt 63.535.000
đồng/ha/năm so với đại trà 26.945.000 đồng/ha (tăng 135,8% so đối chứng). Khi mô
hình vào giai đoạn kinh doanh, lợi nhuận mô hình cà phê xen cây ăn quả có thể mang
lại rất cao do tăng sản lượng cây ăn quả, nhưng cũng sẽ ảnh hưởng đến năng suất cây cà
phê xung quanh cây bơ trồng xen.
Bảng 10. Hiệu quả sản xuất đối với 01 ha mô hình tái canh trồng xen cây ăn quả
(dự kiến sau 3 năm)
Năng suất (tấn Tổng chi phí Tổng doanh Lợi nhuận
Mô hình
nhân/ha) (1.000đ) thu (1.000đ) (1.000đ)
Mô Cà phê 2,09 94.050
68.765 44.995
hình Cây bơ (kg) 657 19.710
Đại trà* 1,64 46.855 73.800 26.945
Tỷ lệ tăng so với
46,8 54,1 67,0
đại trà (%)
Ghi chú: * Cập nhật số liệu điều tra; Giá cà phê nhân: 45.000.000 đồng/tấn; Giá quả
bơ: 30.000 đồng/kg; Công lao động: 150.000 đồng
3.2.5. Xây dựng mô hình điểm về tái canh cà phê hiệu quả
Trên cơ sở các mô hình tái canh, dự án đã xây dựng điểm 01 ha mô hình tái canh hoàn
toàn áp dụng đồng bộ tất cả các giải pháp kỹ thuật tái canh đạt hiệu quả cao tại Công ty
TNHH MTV cà phê 721, nơi có diện tích cà phê tái canh lớn và thuận lợi cho việc
chuyển giao các tiến bộ kỹ thuật tái canh cà phê cho người sản xuất. Đánh giá các chỉ
tiêu sinh trưởng mô hình tái canh sau 18, 30 và 40 tháng trồng cho thấy: mô hình ứng
dụng tổng hợp các biện pháp kỹ thuật tái canh có khả năng sinh trưởng phát triển tốt và
đồng đều hơn so với vườn đối chứng. Từ kết quả theo dõi tỷ lệ bệnh và tỷ lệ cây chết
của mô hình tái canh trang trại sau 18, 30 và 40 tháng trồng cho thấy: mô hình có tỷ lệ
cây vàng lá và cây chết thấp hơn so với vườn đối chứng. Sau 40 tháng trồng, tỷ lệ vàng
lá là 6,3% và tỷ lệ cây chết là 1,4%, tỷ lệ này tăng lên so với thời điểm sau trồng 30
tháng, trong khi tỷ lệ cây bị vàng lá và cây chết của đối chứng cũng cao gấp đôi so với
của mô hình có ý nghĩa thống kê. Như vậy, việc áp dụng đồng bộ các biện pháp kỹ thuật
tái canh đã có hiệu quả cao trong việc phòng và điều trị bệnh tuyến trùng làm vàng lá
thối rễ cà phê, là cơ sở cho tái canh thành công, cây sinh trưởng bền vững, vườn cây
đồng đều năng suất cao hơn so với đối chứng.
Kết quả phân tích cho thấy mô hình có khối lượng 100 nhân trung đạt 19,2 g và tỷ lệ hạt
trên sàng 16 đạt trung bình 90,4%. Trong khi đó, đối chứng khối lượng 100 nhân chỉ đạt
16,1 g, tỷ lệ hạt trên sàng 16 đạt 73,2%. Khối lượng 100 nhân trung bình của mô hình
tăng 19,3% và tỷ lệ hạt trên sàng 16 tăng đến 29,0% so với đối chứng, dẫn đến tỷ lệ tươi
1154
- nhân của đối chứng cũng cao hơn mô hình. Đây là điểm nổi trội và khác biệt của mô
hình khi sử dụng giống mới TRS1cũng như áp dụng các biện pháp kỹ thuật tiên tiến vào
mô hình so với giống đại trà và các biện pháp thông thường.
Bảng 11. Một số chỉ tiêu chất lượng cà phê nhân của mô hình tái canh hiệu quả
Tăng so với Tăng so Tỷ lệ
Khối lượng Tỷ lệ hạt trên
Mô hình đối chứng với đối tươi
100 nhân (g) sàng 16 (%)
(%) chứng (%) nhân
Mô hình 19,2 19,3 90,4 29,0 4,7
Đối chứng 16,1 73,2 4,9
Pr > | t | * *
Sau 30 tháng trồng năng suất thu bói của mô hình đạt tới 1,50 tấn nhân/ha, tăng 64,8%
so với đối chứng (chỉ đạt 0,91 tấn nhân/ha). Sau 40 tháng trồng, năng suất tăng gấp đôi
so với thời điểm sau trồng 30 tháng, năng suất mô hình đạt 3,08 tấn nhân/ha, cao hơn
52,5% so với đối chứng (2,02 tấn nhân/ha). Năng suất trung bình 2 vụ thu hoạch của mô
hình tăng hơn gần 50% so với đối chứng (2,29 tấn nhân/ha so với 1,53 tấn nhân/ha). Kết
quả đã chứng minh rằng, mô hình ứng dụng đồng bộ các giải pháp kỹ thuật về giống,
biện pháp canh tác và bảo vệ thực vật đã có hiệu quả cao và bền vững, tất cả các chỉ tiêu
về sinh trưởng, năng suất và chất lượng đều vượt trội so với đối chứng.
Bảng 12. Năng suất của mô hình tái canh cà phê hiệu quả (tấn nhân/ha)
Tăng so
Năng suất Tăng so Năng suất Tăng so Trung
với đối
Loại vườn sau 30 với đối sau 40 với đối bình 2
chứng
tháng chứng (%) tháng chứng (%) vụ
(%)
Mô hình 1,50 64,8 3,08 52,5 2,29 49,7
Đối chứng 0,91 2,02 1,53
Pr > | t | ** ** *
3.3. Đào tạo, tập huấn quy trình công nghệ tái canh cà phê theo hướng bền vững
- Về số lượng: Đã tổ chức 09 lớp đào tạo, tập huấn cho 450 học viên với quy mô 50
học viên/lớp, thời gian học tập 1 ngày/lớp. Nội dung đào tạo, tập huấn bao gồm:
+ Tập huấn quy trình kỹ thuật tái canh cà phê theo hướng bền vững cho các hộ sản xuất
cà phê. Quy mô 5 lớp; số lượng 250 người.
+ Tập huấn thực hành, trao đổi ngoài thực địa về kỹ thuật tái canh cà phê theo hướng
bền vững. Quy mô 4 lớp; sô lượng 200 người.
1155
- Như vậy, về số lượng người tham dự đào tạo, tập huấn đạt tỷ lệ 100% so với kế hoạch.
Địa điểm, thời gian và số lượng cụ thể như sau:
- Về thành phần tham dự: Bao gồm các hộ nông dân tham gia xây dựng mô hình, một
số công nhân, cán bộ kỹ thuật của các công ty cà phê 720 và 721, các nông dân sản xuất
cà phê giỏi, các tổ trưởng các nhóm nông hộ, các khuyến nông viên cơ sở tại 4 xã Nông
thôn mới Cư Ni, Cư Huê, EaKmut và Cư Yang.
- Về chất lượng: Học viên trong các lớp tập huấn chú ý nghe giảng, nắm bắt khá tốt các
nội dung tập huấn. Tinh thần học tập tốt, thảo luận nhóm sôi nổi. Quan trọng hơn, các
học viên đã nắm vững quy trình tái canh cà phê, các loại hình tái canh (cuốn chiếu, khắc
phục, trồng xen...), đặc điểm và cách chăm sóc của bộ giống cà phê mới. Bên cạnh đó,
việc kết hợp thăm quan các mô hình tái canh mẫu tại các nông hộ và công ty nhằm xác
định các giải pháp đã áp dụng trên thực địa có hiệu quả nhất và có tính khả thi với địa
bàn. Các nội dung kiến thức về lớp học được học viên tiếp nhận, đáp ứng được nhu cầu
và nguyện vọng tham gia tập huấn của học viên. Như vậy, thông qua tập huấn là cơ hội
để trao đổi và chuyển giao các tiến bộ mới về giống cũng như biện pháp canh tác tiên
tiến để nâng cao hiệu quả tái canh cà phê tại huyện Eakar nói riêng và thúc đẩy tiến trình
tái canh cà phê hiệu quả tại các vùng canh tác cà phê chính ở Tây Nguyên.
4. Kết luận
+ Điều tra: Dự án đã đánh giá được hiện trạng tái canh cà phê trên địa bàn, góp phần bổ
sung vào quy trình tái canh áp dụng cho các vùng trồng cà phê tại huyện EaKar.
+ Đề xuất được quy trình tái canh cà phê vối phù hợp để áp dụng cho các vùng trồng cà
phê tại huyện EaKar.
+ Kết quả xây dựng các mô hình tái canh:
- Đã xây dựng thành công 04 loại mô hình tái canh cà phê trên đại bàn 04 xã
(EaKmut, Cư Ni, Cư Huê và Cư Yang) thuộc huyện EaKar. Trong đó mô hình quy mô
công ty có 20 ha (thuộc Công ty TNHH MTV cà phê 720 và 721); Mô hình quy mô
nông hộ 30 ha gồm: mô hình tái canh cuốn chiếu 15 ha, mô hình tái canh khắc phục cây
xấu 10 ha và mô hình tái canh trồng xen cây ăn quả 5 ha.
- Đã xây dựng được 01 mô hình tổ chức tái canh hiệu quả tại Công ty TNHH
MTV cà phê 721. Đây là mô hình tái canh hoàn toàn có năng suất sau 40 tháng trồng
đạt 3,08 tấn nhân/ha, tăng 52,5% so với đối chứng.
- Các mô hình đã cho năng suất hoặc dự kiến năng suất sau 30 và 40 tháng trồng
đều tăng trên 20% so với sản xuất đại trà, cụ thể:
* Mô hình quy mô Công ty sau 40 tháng trồng cho năng suất đạt trung bình 2,89
tấn nhân/ha, tăng 33,3% so với vườn sản xuất đại trà (chỉ 2,06 tấn nhân/ha). Khối lượng
100 nhân đạt 18,8 g và hạt trên sàng R1 đạt 85,0% và cải thiện đáng kể so với vườn sản
1156
- xuất đại trà. Lợi nhuận của mô hình đạt 69.810.000 đồng/ha/năm, tăng 63,7% so với đối
chứng.
* Mô hình tái canh cuốn chiếu cho năng suất vụ bói sau 30 tháng trồng (vụ 2016)
đạt 1,12 tấn nhân/ha, tăng 23,1% so với vườn sản xuất đại trà chỉ đạt 0,91 tấn nhân/ha.
Khối lượng 100 nhân đạt 18,9 g và hạt trên sàng R1 đạt 84,5% cao hơn so với vườn sản
xuất đại trà. Lợi nhuận của mô hình là 36.085.000 đồng/ha/năm, tăng 33,9% so với đối
chứng.
* Mô hình tái canh khắc phục cho năng suất dự kiến sau 3 năm ghép cải tạo đạt
trung bình toàn vườn 3,07 tấn nhân/ha, tăng 54,3% so với vườn trước khi cải tạo (chỉ
đạt 1,99 tấn nhân/ha). Lợi nhuận ước tính của mô hình là 74.675.000 đồng/ha/năm, tăng
75,9% so với đối chứng.
* Mô hình tái canh xen cây ăn quả cho năng suất dự kiến sau 3 năm trồng đạt
2,09 tấn nhân/ha, năng suất dự kiến cây ăn quả (cây bơ) đạt 1.080 kg quả/ha. Lợi nhuận
ước tính 40.995.000 đồng/ha/năm, tăng 67,0% so với đối chứng.
+ Kết quả đào tạo, tập huấn:
Đã tổ chức hội thảo, đào tạo và tập huấn cho 500 lượt nông dân và cán bộ cơ sở
nắm vững quy trình tái canh cà phê bền vững tại địa bàn các xã Cư Ni, Cư Huê, Cư
Yang và EaKmut huyện EaKar. Trong đó tập huấn gồm 9 lớp với 450 người tham dự,
tổ chức 01 hội thảo tổng kết với 50 người tham dự. Qua kết quả đào tạo và tập huấn, hầu
hết người dân đã nắm vững quy trình tái canh cà phê; đồng thời thông qua hướng dẫn
của đội ngũ khuyến nông viên tham gia dự án, người dân đã thực hiện tốt việc tái canh
cà phê, thường xuyên trao đổi kinh nghiệm, giúp nhau khắc phục những khó khăn,
vướng mắc, triển khai tốt chương trình tái canh cà phê trong khuôn khổ thực hiện dự án.
Tài liệu tham khảo
Tài liệu Tiếng Việt
Tài liệu Tiếng Anh
1157
nguon tai.lieu . vn