Xem mẫu

  1. NGHIÊN CỨU LÍ LUẬN Xây dựng hoạt động nói ứng khẩu phù hợp với sinh viên tiếng Anh không chuyên trong Chương trình tiếng Anh Cơ sở Lê Thị Thu Huyền Trường Đại học Ngoại ngữ - Đại học Quốc gia Hà Nội TÓM TẮT: Kĩ năng nói ứng khẩu (nói về một chủ đề hoàn chỉnh mà không có Đường Phạm Văn Đồng, quận Cầu Giấy, hoặc có rất ít thời gian chuẩn bị) là kĩ năng nhiều người học ngoại ngữ, đặc biệt Hà Nội, Việt Nam là ngoại ngữ không chuyên còn yếu.Trong số các hoạt động nói sử dụng trong Email: huyen.le.thu@gmail.com lớp học ngoại ngữ, hoạt động nói ứng khẩu chưa nhận được nhiều sự chú ý từ phía giảng viên trong khi kĩ năng này đem lại rất nhiều lợi ích cho người học như rèn phản xạ nói, thúc đẩy sự tự tin khi nói trước đám đông, phát triển kĩ năng giao tiếp và khả năng lãnh đạo. Bài viết cung cấp một cái nhìn tổng quan về kĩ năng nói ứng khẩu, cũng như đề xuất cách thức tiến hành hoạt động nói ứng khẩu và các tiêu chí đánh giá bài nói của sinh viên trong lớp học ngoại ngữ không chuyên. Ngoài ra, dựa trên những khó khăn của sinh viên khi nói ứng khẩu, tác giả bài viết đề xuất một vài gợi ý cho giảng viên khi tiến hành hoạt động này trên lớp. TỪ KHÓA: Nói ứng khẩu; hoạt động nói; lớp học ngoại ngữ; đánh giá bài nói ứng khẩu. Nhận bài 15/12/2018 Nhận kết quả phản biện và chỉnh sửa 20/03/2019 Duyệt đăng 25/03/2019. 1. Đặt vấn đề đề trong vòng vài phút) dường như là quá sức đối với nhiều Kĩ năng (KN) nói, theo Rudder (1999), là một trong em. những mục tiêu quan trọng nhất trong việc dạy học ngôn Thứ ba, do hạn chế về mặt thời lượng học trên lớp so với ngữ, bởi đây là KN vô cùng cần thiết để tồn tại trong giao khối lượng kiến thức trong lịch trình giảng dạy. Thực tế, tiếp bối cảnh hội nhập toàn cầu. Do vậy, việc thụ đắc KN một số giảng viên tiến hành hoạt động nói theo các hình nói được coi là một trong những ưu tiên hàng đầu trong thức: Hoạt động nói theo cặp, theo nhóm hoặc cá nhân trên quá trình dạy và học tiếng Anh như một ngoại ngữ ở nhiều tinh thần xung phong hoặc chỉ định. Đôi khi có những chủ quốc gia, trong đó có Việt Nam. Nhiều hoạt động nói được đề, giảng viên chỉ có thể hướng dẫn cách triển khai ý trước giảng viên đưa vào sử dụng trong lớp học để tăng cường cả lớp mà không đủ thời gian để tất cả các cá nhân đều được khả năng nói cho người học, có thể kể đến như thuyết trình, thực hành nói. Trên thực tế, hoạt động nói ứng khẩu (hiểu thảo luận, diễn kịch,…Không giống như các hình thức nói theo nghĩa chặt chẽ nhất) gần như chưa được áp dụng trong mà người học có sự chuẩn bị từ trước, hoạt động nói ứng giờ học nói. Bài viết này nêu lên lợi ích của KN nói ứng khẩu (nói không có/rất ít thời gian chuẩn bị) là một trở ngại khẩu đối với người học. Theo đó, chúng tôi giới thiệu về lớn đối với người học ngoại ngữ, đặc biệt là người học tiếng hoạt động nói ứng khẩu trong lớp học ngoại ngữ: Cách thức Anh không chuyên. Tuy nhiên, hoạt động này chưa nhận tiến hành và các tiêu chí đánh giá một bài nói ứng khẩu. được nhiều sự chú ý trong lớp học tiếng Anh không chuyên Thêm vào đó là một vài lưu ý dành cho giảng viên khi tiến bởi ba lí do chính sau: hành hoạt động nói trong lớp học ngoại ngữ không chuyên Thứ nhất, nói ứng khẩu mới chỉ dừng lại trong lớp học được đề xuất dựa trên những khó khăn của người học khi dưới dạng thức không chính thức, tức là giảng viên đặt câu nói ứng khẩu. hỏi và sinh viên (SV) trả lời. Tuy nhiên, câu hỏi và câu trả lời thường rất ngắn (câu hỏi chỉ về một ý nhỏ và câu trả lời 2. Nội dung nghiên cứu thường dưới dạng một hoặc một vài câu chứ không phải là 2.1. Nói ứng khẩu một bài nói hoàn chỉnh từ phía người học).Ví dụ: 2.1.1. Định nghĩa - Giảng viên: How often do you go to the cinema? Nói ứng khẩu là sự diễn đạt, cấu trúc và trình bày ý và - SV: I go to the cinema once a month. quan điểm của người nói khi không có hoặc có ít thời gian Thứ hai, qua khảo sát và phỏng vấn các giảng viên đang chuẩn bị. Hình thức nói ứng khẩu xuất hiện dưới nhiều giảng dạy môn Tiếng Anh Cơ sở 1-2 cho SV năm thứ nhất dạng thức khác nhau và trong nhiều bối cảnh khác nhau: hệ Chất lượng cao Trường Đại học Công nghệ - Đại học Trong giao tiếp hằng ngày, trong cuộc họp, phỏng vấn xin Quốc gia Hà Nội. Các giảng viên này cho rằng, SV của việc, thi hùng biện, hay trong bối cảnh lớp học khi giảng mình còn yếu về KN nói nên việc áp dụng hoạt động nói viên đặt câu hỏi và người học được gọi trả lời. Tuy nhiên, ứng khẩu dưới dạng thức chính thống (SV nói về một chủ nói ứng khẩu với tư cách là một hoạt động nói được tổ 70 TẠP CHÍ KHOA HỌC GIÁO DỤC VIỆT NAM
  2. Lê Thị Thu Huyền chức trong lớp học ngoại ngữ cần được hiểu theo nghĩa speaking thì lúc đó mới cân nhắc việc đa dạng hóa chủ đề. khắt khe hơn. Đó là một bài nói ứng khẩu hoàn chỉnh với - Gợi ý cho sẵn: Tùy vào trình độ của SV mà giảng viên ba phần: Mở bài, thân bài và kết bài về một chủ đề nào đó, có thể cung cấp hoặc không cung cấp các gợi ý (suggested được thể hiện bởi người học trong một khoảng thời gian ideas) dưới dạng gạch đầu dòng hoặc hình ảnh. Với đối nhất định (khoảng vài phút) với ít hoặc không có sự chuẩn tượng người học trình độ tiếng Anh còn yếu hoặc khi mới bị trước khi nói. Bài viết sử dụng thuật ngữ nói ứng khẩu tổ chức hoạt động nói ứng khẩu, giảng viên có thể cung cấp theo nghĩa này. gợi ý cho sẵn và sau này tăng dần độ khó của đề nói. - Thời gian chuẩn bị: Do đặc thù của nói ứng khẩu là 2.1.2. Lợi ích của kĩ năng nói ứng khẩu không có hoặc có ít thời gian chuẩn bị nên giảng viên có thể Như đã đề cập ở trên, nói ứng khẩu có thể xuất hiện dưới đặt ra quy định của hoạt động nói ứng khẩu tùy theo trình nhiều hình thức. Dù ở phạm vi lớn hay nhỏ, được tổ chức độ của người học và tùy theo thời gian cho phép. Thời gian một cách trang trọng như trong cuộc thi hay không chính chuẩn bị nên dưới 2 phút để đảm bảo được ý nghĩa của hoạt thống, thì việc thụ đắc KN nói ứng khẩu có thể mang lại động nói ứng khẩu. Giảng viên có thể linh hoạt bằng cách nhiều lợi ích cho người nói. Rõ ràng, nếu người học có khả cho nhiều thời gian chuẩn bị hơn vào những tuần đầu tiên năng nói ứng khẩu, đó sẽ là một lợi thế rất lớn. Các lợi ích giới thiệu hoạt động này và hạn chế thời gian chuẩn bị khi của KN nói ứng khẩu được Menguin (2008) liệt kê như sau: về những tuần cuối của chương trình học. Cải thiện cách diễn đạt suy nghĩ của bản thân thông qua - Thời gian cho mỗi bài nói ứng khẩu: Người học được hình thức nói; Phát triển sự tự tin khi nói trước đám đông; yêu cầu nói về chủ đề được bắt thăm trong khoảng thời gian Suy nghĩ và phản ứng nhanh về một vấn đề; Phát triển KN từ 2-3 phút. Do đặc thù của hoạt động nói ứng khẩu là nói lãnh đạo; Phát triển KN giao tiếp. theo cá nhân nên khi tiến hành hoạt động này với toàn bộ Việc tổ chức hoạt động nói ứng khẩu trên lớp học ngoại số SV trong lớp, hoạt động này cũng chiếm khá nhiều thời ngữ theo đó sẽ đem lại nhiều lợi ích cho người học. Trước gian. Lí tưởng nhất là lớp học với sĩ số khoảng 15 SV. Tuy tiên, thông qua hoạt động này, SV phát triển KN ứng khẩu nhiên, với sĩ số lớp đông hơn, giảng viên có thể phân bổ - không hoặc ít có sự chuẩn bị trước - từ đó cũng tăng khả thời gian ở các buổi khác nhau, tạo điều kiện cho tất cả SV năng phản ứng nhanh nhạy trong giao tiếp bằng tiếng Anh. có cơ hội tham gia hoạt động này. Đây đồng thời là KN khá cần thiết trong đời sống thường ngày. Thứ hai, hoạt động giúp SV phát triển KN tư duy, 2.2.2. Quy trình tổ chức hoạt động nói ứng khẩu sắp xếp khái niệm, ý tưởng (ý chính và ý bổ trợ) thành một Dưới đây là một đề xuất về quy trình tổ chức một hoạt bài nói hoàn chỉnh có đầy đủ ba phần: Mở bài, thân bài và động nói ứng khẩu trong lớp học ngoại ngữ: kết bài. Các KN ngôn ngữ cần thiết trong giao tiếp như sử - SV được gọi bất kì lên bắt thăm chủ đề của mình. dụng từ ngữ, phương tiện nối câu, ... cũng được tăng cường. - SV chuẩn bị trong thời gian cho phép. Ngoài ra, thông qua hoạt động nói ứng khẩu, SV cũng được - SV trình bày bài nói ứng khẩu trong thời gian cho phép. rèn sự tự tin, KN nói trước đám đông, qua đó chuẩn bị cho - Nên có một time-keeper (người bấm giờ). Người này việc thực hiện những bài trình bày dài hơi hơn sau này cũng ngồi phía dưới và có nhiệm vụ giơ bảng thời gian hoặc ra như việc tham gia vào các hoạt động nói khó, phức tạp hơn. hiệu để báo hiệu cho người nói. Có thể có 2 lần báo hiệu: Khi còn 30 giây nữa là hết giờ hoặc/và khi hết thời gian nói. 2.2. Nói ứng khẩu với tư cách là một hoạt động nói trên lớp - Phần nhận xét: Đây là phần đánh giá có thể đến từ 3 2.2.1. Một số quy ước về hoạt động nói ứng khẩu trong lớp học phía: 1/ SV tự nhận xét bài nói của bản thân (Self-correc- Chúng tôi đề cập một số lưu ý về cách thức tổ chức hoạt tion); 2/ Các SV khác nhận xét phần trình bày của bạn (Peer động nói ứng khẩu trong lớp học tiếng Anh không chuyên correction); 3/ Giảng viên đưa ra nhận xét (Teacher correc- như sau. tion). Đó là lí tưởng, tuy nhiên, do thời gian hạn chế nên - Chủ đề: Các chủ đề được lựa chọn làm đề bài cho bài thường chỉ có phần nhận xét từ phía giảng viên. Tùy thời nói ứng khẩu cần nằm trong lịch trình giảng dạy. Chủ đề có gian cho phép và số lượng SV mà phần nhận xét diễn ra thể là một câu nói, trích dẫn, thành ngữ nổi tiếng, yêu cầu ngay sau phần trình bày của SV hay vào cuối buổi. Sau một người nói nêu nhận định hay dẫn chứng; hay có thể là một học kì với những lần thực hiện bài nói ứng khẩu trước lớp, vấn đề kinh tế - chính trị - xã hội gây nhiều tranh cãi, đòi hỏi người học sẽ thấy được sự tiến bộ của mình hay chưa, tự người nói bộc lộ quan điểm cá nhân. Đơn giản hơn, trong nhận ra được điểm mạnh và điểm cần khắc phục trong phần phần 2 của bài thi IELTS hay một số câu hỏi cho phần 1 của trình bày nói của mình. bài thi TOEFL iBT, chủ đề có thể chỉ kiểm tra KN miêu tả của người nói như: Tả người, tả vật, tả sự kiện, ... Tùy theo 2.3. Các tiêu chí đánh giá một bài nói ứng khẩu chủ đề hay KN nói trọng tâm của bài học mà giảng viên Nói ứng khẩu chính là một hình thức nói trước đám đông, có thể chuẩn bị chủ đề phù hợp. Các câu hỏi impromptu do vậy, các tiêu chí đánh giá một bài nói ứng khẩu cũng speaking trong một buổi học chỉ nên xoay quanh một chủ chính là các thành tố chính của một bài nói trước công đề lớn. Chỉ khi giảng viên tổ chức một cuộc thi impromptu chúng. Một bài nói ứng khẩu chính là một hoạt động giao Số 15 tháng 03/2019 71
  3. NGHIÊN CỨU LÍ LUẬN tiếp bao gồm ba thành phần: Người nói, thông điệp và khán Gregory, 1996:4). Về dáng bộ (posture), người nói nên giả. Khi nói trước đám đông, người nói muốn truyền tải đứng thẳng, thể hiện sự tự tin và thoải mái khi thuyết trình thông điệp của mình tới người nghe - người có quyền quyết (Gregory, 1996: 4). Ngoài ra, giao tiếp bằng mắt (eye con- định xem liệu rằng thông điệp đó có thuyết phục hay không. tact) một cách tự nhiên cũng là một thành tố quan trọng Nhìn chung, một bài nói ứng khẩu hiệu quả cần đạt được khác trong một bài nói bởi nó (1) tạo ra một sự liên kết giao các yêu cầu sau đây: tiếp và tương tác giữa người nói và người nghe, (2) thể hiện 1/ Cách thức tổ chức bài nói: Một bài nói được tổ chức tốt sự chân thành, và (3) giúp người nói biết được khi nào cần bao gồm 3 phần cơ bản: Mở bài, thân bài và kết luận. giải thích lại phần nói khi có sự bối rối thể hiện trên nét mặt 2/ Thông tin trình bày phù hợp, đúng chủ đề là điều quan người nghe (Gregory, 1998:327). Góp phần vào tính hiệu trọng đối với một bài nói ứng khẩu. quả của bài nói là biểu đạt khuôn mặt (facial expressions) 3/ Hướng đến khán giả: Một bài nói tốt cần lấy khán giả tự nhiên và hợp lí của người trình bày bài nói. Dựa trên nét làm trung tâm. mặt của người nói, khán giả có thể nhận thấy được sự nhiệt 4/ Gắn kết cảm xúc: Một diễn giả thành công có khả năng huyết của người nói khi truyền tải thông điệp. hoá thân vào bài nói và truyền tải cảm xúc cho khán giả. Ngoài ra, khi trình bày một bài nói trước đám đông, Trình bày hiệu quả: Cả KN ngôn ngữ và phi ngôn ngữ sẽ người nói cần nói với giọng nói (voice) rõ ràng, mạch lạc. giúp tạo nên một bài diễn thuyết hiệu quả. Âm lượng (volume) cần hợp lí và phù hợp với diện tích 5/ KN quản lí thời gian: Một diễn giả giàu kinh nghiệm phòng cũng như số lượng khán giả. Ngữ điệu (intonation) có thể phân bổ thời gian hợp lí giữa các phần (Mở bài, thân cũng tạo cho ngôn ngữ một giai điệu đặc trưng, nếu thiếu bài, kết bài) (Hsieh, 2006). Ngoài ra, tổ chức Future Educa- ngữ điệu thì chắc chắn người nói không thể nhấn mạnh tors Association (2008) đã phát triển một bảng đánh giá bài được nội dung quan trọng cần biểu đạt. Ngoài ra, mức độ nói ứng khẩu gồm bốn mục chính, với mỗi tiêu chí cụ thể trôi chảy (fluency) cũng đóng vai trò quan trọng trong một được nêu ra trong mỗi mục. Nhìn chung, những tiêu chí này bài nói ứng khẩu thành công, thể hiện qua tốc độ nói (rate tương đối nhất quán với các tiêu chí được nêu ra bởi Hsieh of speaking) phù hợp và có sự ngừng nghỉ (pauses) hợp (2006) phía trên. lí. Tốc độ nói vừa phải giúp khán giả dễ dàng nắm bắt và Nội dung và cách thức tổ chức bài nói: Giống như các thẩm thấu thông tin. Sự ngừng nghỉ (pauses), theo Gregory hình thức nói khác, một bài nói ứng khẩu cần có một cấu (1998:323-324), là yếu tố có lợi bởi nó tạo ra khoảng trống trúc cân bằng với ba phần cơ bản: Mở bài, thân bài và kết thời gian để người nói lựa chọn từ vựng phù hợp, đồng thời bài. Phần mở bài, ngoài việc đưa ra câu chủ đề (thesis) giúp nhấn mạnh ý quan trọng đang được nói tới. Sự ngừng thì cần thu hút được sự chú ý và quan tâm của người nghe nghỉ là điều dễ hiểu trong một bài nói ứng khẩu và khán (Gregory, 1996). Giảng viên có thể hướng dẫn SV một vài giả sẽ không chê trách điều này (Gregory, 1998: 324). Tuy phương pháp bắt đầu bài nói thu hút sự chú ý như trong viết nhiên, người nói nên có chiến lược trong bài nói của mình luận như đặt câu hỏi, nêu một thông tin gây ngạc nhiên, khi cần ngừng nghỉ bằng cách sử dụng các dấu hiệu diễn trích dẫn một câu nói phù hợp, kể một chuyện hoặc kinh ngôn như “like”, “you know”, “well”, … thay vì chỉ “uh,” nghiệm bản thân, đề cập đến những tin tức cập nhật. Mở “er,” “um” bởi sẽ làm phân tâm quá trình nghe hiểu của đầu trôi chảy và thu hút người nghe sẽ giúp cho SV tự tin khán giả. Những yếu tố trên liên quan tới tác phong trình hơn với phần trình bày nội dung chính. Tuy nhiên, nếu thời bày giúp xây dựng hình ảnh một người nói ứng khẩu tự tin lượng của bài nói ứng khẩu ít, người nói có thể mở bài và nhiệt huyết, từ đó tạo ấn tượng tốt cho khán giả. một cách ngắn gọn bằng cách trả lời rõ ràng chủ đề của bài Ngôn ngữ: Khả năng sử dụng ngôn ngữ của người nói nói. Phần thân bài chứa các ý chính cùng những chứng cứ được thể hiện qua việc lựa chọn từ vựng (vocabulary) phù hoặc các ý phụ bổ trợ. Gregory (1996: 3) gợi ý tổ chức thân hợp, ngữ pháp (grammar) chính xác và phát âm (pronun- bài bằng cách đưa ra hai đến ba ý chính để giải thích hoặc ciation) đúng. chứng minh cho ý chủ đạo và phát triển mỗi ý chính đó nhờ Thời gian: Khái niệm thời gian trong nói ứng khẩu bao vào các ví dụ, thống kê hoặc trích dẫn ý kiến chuyên gia. gồm thời gian chuẩn bị và thời gian nói. Người nói cần biết Trong phần kết bài, người nói được khuyên nên tổng kết tận dụng thời gian chuẩn bị để vạch ra các ý chính và ý bổ các ý chính đã nêu và kết thúc bài nói bằng một lí lẽ vững trợ mình dự định nói. Trong quá trình nói, người nói cần chắc xoay quanh ý chính của bài nói. phân bổ thời lượng cho từng phần (mở bài, thân bài và kết Cách thức trình bày: Cách thức trình bày bài nói ứng bài) và cần hoàn thành bài nói trong khoảng thời gian cho khẩu bao gồm giao tiếp ngôn ngữ và phi ngôn ngữ. phép (không quá thời gian và cũng không thừa quá nhiều Về giao tiếp phi ngôn ngữ trong văn nói, bất cứ diễn giả thời gian trong bài nói của mình). Việc đánh giá bài nói của nào cũng cần thể hiện được cử chỉ, cách di chuyển, dáng SV có ảnh hưởng lớn đến quá trình học tập của SV. Nó cho đứng, giao tiếp bằng mắt và biểu đạt khuôn mặt một cách phép SV ghi lại những gì họ đã học được về bài nói của tự nhiên, hiệu quả. Người nói nên thể hiện cử chỉ và cách mình: Điểm mạnh/ điểm yếu của phần trình bày của họ dựa di chuyển (gestures and movement) một cách tự nhiên và vào các tiêu chí trên. Do vậy, giảng viên cần ghi lại nhận phù hợp với nội dung; tuy nhiên, cần tránh những cử chỉ xét và đánh giá dành cho phần trình bày của người học dựa vô nghĩa hoặc gây hiểu lầm (Gregory, 1998: 330-331 & trên những tiêu chí như đã giới thiệu ở trên. 72 TẠP CHÍ KHOA HỌC GIÁO DỤC VIỆT NAM
  4. Lê Thị Thu Huyền 2.4. Những khó khăn của sinh viên không chuyên khi tham gia cao tiếng Anh nói chung và KN nói nói riêng. Nếu không nói ứng khẩu vững kiến thức nền thì không thể nào nâng cao trình độ Qua hai học kì áp dụng hoạt động nói ứng khẩu đối với tiếng Anh được. Trước mỗi buổi học, giảng viên có thể yêu SV không chuyên tiếng Anh hiện đang học năm thứ nhất cầu SV đọc mở rộng về chủ đề của buổi học rồi tóm tắt lại Trường Đại học Công nghệ, Đại học Quốc gia Hà Nội kết nội dung chính của chủ đề đó. hợp với kết quả khảo sát trong nghiên cứu của Hsieh (2006), Sự thực là nếu không có ngữ pháp, rất ít thông tin có thể dưới đây chúng tôi liệt kê một số khó khăn các người học được truyền đạt, nhưng nếu không có từ vựng, không một thường gặp phải khi tham gia nói ứng khẩu: thông tin nào có thể được truyền đạt cả. Do vậy, từ vựng là phần quan trọng không kém trong việc tạo nên một bài nói 2.4.1. Kiến thức nền về chủ đề còn hạn chế ứng khẩu thuyết phục. Giảng viên nên khuyến khích SV mở Một số chủ đề như Charity (Từ thiện) hay Volunteering rộng vốn từ bằng cách khuyến khích SV tích cực nghe và (Tình nguyện) dường như là những chủ đề còn mới mẻ với đọc mở rộng nhiều loại tài liệu, chủ đề để tiếp nhận từ và SV do các em chưa có cơ hội trải nghiệm trực tiếp với những các sắc thái ý nghĩa khác nhau của từ. Sau đó, giảng viên tổ hoạt động này hoặc chưa đọc rộng nhiều liên quan đến chủ chức thảo luận ngay về những chủ đề đó để SV có thể dùng đề. Một số SV cũng tỏ ra không hứng thú với những chủ đề ngay những từ đã học. Theo đó, người học vừa có thể mở không thuộc về sở thích hoặc độ tuổi của mình như Agricul- rộng được kiến thức nền, cũng như tăng cường vốn từ vựng ture (Nông nghiệp) hay Economics (Kinh tế). và cấu trúc câu thuộc chủ đề đó. 2.4.2. Không đủ vốn từ vựng và cấu trúc câu 2.5.2. Luyện tập cho sinh viên lập dàn ý tổ chức bài nói Từ vựng và cấu trúc câu luôn là một khó khăn với người Một trở ngại khác của người học khi thực hiện bài nói học ngoại ngữ. Vấn đề này không nằm ở số lượng từ vựng ứng khẩu là cách sắp xếp lập dàn ý cho bài nói của mình. và cấu trúc mà người học sở hữu, mà phụ thuộc vào khả Do vậy, khi giới thiệu hoạt động nói ứng khẩu, giảng viên năng người học có thể nhớ được bao nhiêu từ và dùng được cần hướng dẫn và đưa một vài ví dụ cho SV về cách trình nó vào trong những tình huống giao tiếp thực tế. Cách học bày ý trong tiếng Anh và cấu trúc của bài nói với ba phần: từ vựng, cấu trúc truyền thống bằng cách ghi chép lại nhiều Mở đầu, thân bài, kết luận. Cho SV viết dàn ý là một thực lần từ hay cấu trúc muốn học kèm theo nghĩa tiếng Việt đã hành hiệu quả. Giảng viên cho cả lớp một chủ đề, ban đầu hạn chế khả năng ghi nhớ của người học trong thời gian dài cho SV nhiều thời gian để suy nghĩ và viết dàn ý, sau đó gọi và dễ làm họ rối trong mê cung từ vựng do chính họ tạo ra. một vài SV lên trình bày. Khi SV đã quen thì sẽ giảm dần Do đó, khi bước vào một tình huống giao tiếp cụ thể, người thời gian chuẩn bị. Dưới đây là một vài ý tưởng về cách lập học thường lúng túng khi cố gắng dịch từ tiếng Việt sang dàn ý cho từng yêu cầu của bài nói mà giảng viên có thể tiếng Anh của từng từ sau đó ghép thành câu để nói. hướng dẫn SV: Phương pháp 4P (Point, Past, Present, Future): Phương 2.4.3. Khó khăn trong việc tổ chức bài nói pháp này được áp dụng cho phần thân bài khi chủ đề yêu Mỗi nền văn hóa có cách tư duy riêng. Cách tư duy của cầu người nói bình luận một vấn đề nào đó. một người cũng quyết định anh ta sẽ nói như thế nào. Người - Point (Chỉ ra): Người nói bày tỏ quan điểm (Mở đầu). phương Đông trong đó có người Việt Nam có cách tư duy - Past (Quá khứ): Nêu ra vấn đề đó trong quá khứ. rất khác so với cách của các quốc gia nói tiếng Anh. Khi nói - Present (Hiện tại): Trình bày về vấn đề đó ở hiện tại. về một chủ đề, nhiều người châu Á thường nói vòng quanh, - Future (Tương lai): đưa ra dự đoán tương lai. trong khi đó người Mĩ lại đi thẳng vào vấn đề (Kaplan, Phương pháp PREP (Point, Reason, Example, Point): 1966: 15). Do ảnh hưởng văn hóa tư duy, lại chưa nắm rõ Khi chủ đề yêu cầu người nói bày tỏ quan điểm, người nói sự khác biệt về mặt cấu trúc của các ngôn ngữ, SV châu Á có thể dùng đến phương pháp PREP: thường dùng lối tư duy vòng tròn đó để diễn đạt ý tưởng - Point (Chỉ ra): Người nói bày tỏ quan điểm (Mở đầu). bằng tiếng Anh. Kết quả là bài nói của họ có tính liên kết - Reason (Nguyên nhân): Nêu ra các nguyên nhân giải kém, thiếu logic và thiếu rõ ràng đối với người bản ngữ. thích cho quan điểm (Thân bài). - Example (Ví dụ): Đưa các ví dụ chứng minh cho các 2.5. Một số gợi ý cho giảng viên khi sử dụng hoạt động nói ứng nguyên nhân (Thân bài). khẩu trong lớp - Point (Chỉ ra): Người nói nhấn mạnh quan điểm của 2.5.1.Tăng cường hoạt động đọc mở rộng mình và kết nối với phần mở đầu (Kết luận). Đọc mở rộng (extensive reading) là phương pháp đọc Một số phương thức tổ chức ý khác: nhằm khuyến khích học viên tiếng Anh nói chung và người - Nguyên nhân, hệ quả, giải pháp. học nói riêng nâng cao KN đọc, vốn từ và kiến thức nói - Điểm giống, điểm khác. chung. Việc khuyến khích và tăng cường hoạt động đọc mở - Điểm tích cực, tiêu cực, trung gian. rộng giúp giải quyết hai khó khăn của SV được nhắc đến ở - Định nghĩa, ví dụ. trên là: Yếu kiến thức nền và vốn từ vựng. Ngoài ra, giảng viên có thể hướng dẫn SV cách đặt các Kiến thức nền chính là nền tảng của việc trau dồi và nâng câu hỏi what, where, when, how, why để phát triển ý. SV Số 15 tháng 03/2019 73
  5. NGHIÊN CỨU LÍ LUẬN được khuyến khích sử dụng nhiều nguồn thông tin để lấy còn viết sẵn phần “kịch bản” (script) và học thuộc cho buổi bổ trợ cho ý cần diễn đạt, như kinh nghiệm cá nhân, quan thuyết trình. Kết quả là nhiều phần nói không được tự nhiên điểm cá nhân, truyện, câu nói hài hước và thông tin thực tế và điều này cũng không rèn cho các em có được phản ứng để minh họa cho bài nói ứng khẩu của mình. nhanh nhạy trước các tình huống. KN nói ứng khẩu (im- promptu speaking) có lẽ là một trong những KN gây khó 2.5.3. Chiến lược sửa lỗi khăn nhiều nhất cho người học ngoại ngữ, đặc biệt là ngoại Giảng viên cần quân bình giữa phản hồi tích cực và tiêu ngữ không chuyên. Bài viết đã nêu lên tầm quan trọng của cực. Giảng viên không nên chỉ nhận xét lỗi sai trong bài KN nói ứng khẩu và nhấn mạnh sự cần thiết của việc tăng trình bày của người học mà cần nêu lên những ưu điểm để cường KN này cho người học ngoại ngữ. Đặc biệt, với người tránh làm người học mất tự tin. Lời phản hồi tích cực nên học ngoại ngữ không chuyên và tùy thuộc vào năng lực của đi trước lời phản hồi tiêu cực. Ngoài ra, giảng viên cần bám người học, giảng viên có thể tùy chỉnh hoạt động này sao cho sát vào những mục tiêu đã được đề ra để đánh giá và từ đó phù hợp. Như đã nói ở trên, giảng viên có thể bắt đầu giới phản hồi. Trong phần nhận xét, giảng viên không nên đòi thiệu hoạt động này bằng cách cho người học thêm thời gian hỏi người học những gì nằm ngoài mục tiêu của bài học. chuẩn bị và/hoặc cho gợi ý trong đề bài. Sau đó, giảng viên Giảng viên cũng không cần vội sửa những lỗi sai gần như tăng dần thử thách cho SV bằng cách bỏ đi thời gian chuẩn không thể tránh được ở những người học trình độ còn thấp. bị và/hoặc chỉ đưa ra câu hỏi trong đề bài mà không cung cấp Cuối cùng, mục tiêu chính của phản hồi là giúp người học các ý cho sẵn. Thực tế tiến hành hoạt động nói ứng khẩu có tiến bộ và duy trì động cơ học tập chứ không phải để họ thể sẽ có những khó khăn riêng tùy vào điều kiện thời gian chán nản và mất tự tin. và đặc thù của mỗi nhóm lớp. Các nghiên cứu trong tương lai có thể đi sâu khai thác về hoạt động nói ứng khẩu này ở một 3. Kết luận số khía cạnh khác như: Khảo sát tính hiệu quả của hoạt động Thực tế cho thấy, đa số SV thích sự an toàn khi thuyết này dưới góc độ của người học; từ đó, hoạt động nói này có trình, bởi khi thuyết trình các em có nhiều sự chuẩn bị. Đối thể được điều chỉnh và áp dụng rộng rãi trong Chương trình với nhiều người học tiếng Anh không chuyên, một số em học môn Tiếng Anh Cơ sở. Tài liệu tham khảo [1] Future Educators Association, (2008), Judges’ Rating of Science and Technology in Taiwan, RELC Journal Sheet - Impromptu Speech, Retrieved from http://www. (Sage), 37(2), 216–235. pdkintl.org/fea/feaconf09/Improm_Speak.pdf [5] Kaplan, R.B., (1966), Culture Thought Patterns in Inter- [2] Gregory, H., (1996), Public Speaking for College and cultural Education, Language Learning, 16 (1&2), 1-20. Career (4th Ed.), New York: McGraw-Hill. [6] Menguin, J.,(2008), Speaking off the cuff, Retrieved from [3] Gregory, H., (1998), Public Speaking for College and http://www.scribd.com/doc/2026294/Speaking-Off-the- Career, 5th ed, New York: McGraw-Hill. Cuff [4] Hsieh, S., (2006), Problems in preparing for the English [7] Rudder, M.E.,(1999), Eliciting Student-Talk, English impromptu speech contest: The case of Yuanpei Institute Teaching Forum, 37, (2), 24-25. DEVELOPING AN IMPROMPTU SPEAKING ACTIVITY IN GENERAL ENGLISH COURSES IN ENGLISH NON-MAJOR CLASSROOMS Le Thi Thu Huyen University of Languages and International Studies ABSTRACT: Impromptu speaking (talking about a topic in a few minutes’ time Vietnam National University, Hanoi with little or no prior preparation) is probably one of the skills that poses Pham Van Dong, Cau Giay district, Hanoi, Vietnam Email: huyen.le.thu@gmail.com numerous obstacles to a number of English language learners, especially non- majors. Due to its nature, strong ability in impromptu speaking helps improve learners’ oral expression of thought, boost confidence in public speaking, enhance communication skills and develop their leadership skills. Despite its significant advantages, an activity that promotes impromptu speaking does not seem to be paid adequate attention to in English as a foreign language (EFL) classrooms. This article provides an overview of impromptu speaking skill and proposes a way of implementing the activity for English non-majors. Criteria on how to evaluate an impromptu speech are also shed light on in the article. Furthermore, based on learners’ difficulties in delivering an impromptu speech, several suggestions are made to the teachers when applying the activity in class. KEYWORDS: Impromptu speaking; speaking activity; EFL classroom; evaluating an impromptu speech. 74 TẠP CHÍ KHOA HỌC GIÁO DỤC VIỆT NAM
nguon tai.lieu . vn