Xem mẫu

  1. XÂY DỰNG HỆ THỐNG QUẢN LÝ CHẤT LƯỢNG NHẰM ĐẢM BẢO CHẤT LƯỢNG GIÁO DỤC NGHỀ NGHIỆP TRONG BỐI CẢNH HỘI NHẬP QUỐC TẾ Nguyễn Trần Nghĩa* TÓM TẮT: Xây dựng và vận hành hệ thống bảo đảm chất lượng trong các cơ sở giáo dục nghề nghiệp nhằm tạo tiền đề chắc chắn cho thực hiện công tác kiểm định chất lượng giáo dục nghề nghiệp tại các trường trung cấp, cao đẳng ở Việt Nam dựa trên sự vận dụng, nghiên cứu hệ thống quản lý chất lượng tiêu chuẩn quốc tế ISO để cải tiến và điều chỉnh cho phù hợp với điều kiện đặc thù của Việt Nam trong bối cảnh hội nhập quốc tế, dựa trên nền tảng chung là “văn hóa chất lượng”. Hệ thống bảo đảm chất lượng giáo dục nghề nghiệp tại Việt Nam do Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội ban hành gồm có các nội dung, phương pháp xây dựng các qui trình, công cụ quản lý... tương đồng với hệ thống quản lý chất lượng quốc tế ISO, và theo nguyên tắc xây dựng hệ thống quản lý chất lượng (bảo đảm chất lượng) phải gắn kết với tiêu chuẩn kiểm định chất lượng giáo dục nghề nghiệp. Dựa trên nguyên tắc này, các trường căn cứ vào yêu cầu của các tiêu chí, tiêu chuẩn kiểm định chất lượng giáo dục nghề nghiệp và các yêu cầu khác của trường để xác định lĩnh vực quản lý, nội dung quản lý và các hoạt động của nội dung quản lý để thiết kế mục tiêu chất lượng, chính sách chất lượng và các qui trình, công cụ, biểu mẫu... một cách cụ thể để vận hành hệ thống quản lý chất lượng có hiệu quả và được thường xuyên cải tiến cho phù hợp với thực tế phát triển của nhà trường, là minh chứng quan trọng để chứng minh nhà trường đạt tiêu chuẩn kiểm định chất lượng cơ sở giáo dục nghề nghiệp hoặc đạt tiêu chuẩn kiểm định chất lượng chương trình đào tạo, góp phần nâng cao chất lượng đào tạo, giúp người học đạt chuẩn kiến thức và kỹ năng để tham gia dịch chuyển lao động tự do trong khu vực Đông Nam Á và quốc tế, đây cũng là điều kiện tốt nhất cho các cơ sở giáo dục nghề nghiệp tại Việt Nam hội nhập với các trường trong khu vực và quốc tế. Từ khóa: đảm bảo hệ thống quản lý chất lượng giáo dục nghề nghiệp trong bối cảnh hội nhập quốc tế. 1. Sự cần thiết xây dựng hệ thống quản lý chất lượng trong bối cảnh hội nhập quốc tế. Trong bối cảnh đất nước đang hội nhập ngày càng sâu rộng với khu vực và quốc tế, chất lượng nguồn nhân lực hiện đang là thách thức lớn. Thực trạng ấy đặt ra cho công tác giáo dục nghề nghiệp (GDNN) nhiều đòi hỏi cấp thiết, nhất là * Trường CĐN Tp.Hồ Chí Minh 524
  2. những giải pháp căn bản với tầm nhìn xa, nhằm đáp ứng kịp thời nhu cầu cao của thị trường lao động phong phú, đa dạng. Với việc hình thành Cộng đồng kinh tế ASEAN, giáo dục nghề nghiệp cũng như nhiều lĩnh vực khác ở Việt Nam sẽ có nhiều cơ hội thuận lợi hơn để phát triển nhưng đồng thời cũng phải đương đầu với nhiều khó khăn, thách thức. Mục tiêu mà Cộng đồng ASEAN hướng tới là tạo ra một thị trường chung duy nhất và cơ sở sản xuất thống nhất, trong đó có sự lưu chuyển tự do của hàng hóa, dịch vụ, đầu tư, vốn và lao động qua đào tạo, từ đó nâng cao tính cạnh tranh và thúc đẩy sự thịnh vượng chung cho cả khu vực; tạo sự hấp dẫn cho đầu tư. Trên thực tế, kỹ năng nghề của lao động các nước trong khu vực rất cao. Vì vậy, để lao động Việt Nam có nhiều cơ hội việc làm, cần phải xác định đây là lĩnh vực cạnh tranh ưu tiên ở cấp quốc gia, từ đó có những chính sách ưu tiên đầu tư để nâng cao năng lực cạnh tranh của nguồn nhân lực, thông qua công tác GDNN được thực hiện trong hệ thống quản lý chất lượng phù hợp với tiêu chuẩn quốc tế ISO (Tổ chức tiêu chuẩn hóa quốc tế (International Organization for Standardization). Cạnh tranh về nhân lực chất lượng cao sẽ diễn ra mạnh mẽ trên bình diện thế giới, khu vực và quốc gia. Việc mở ra khả năng di chuyển lao động giữa các nước đòi hỏi người lao động phải có kỹ năng nghề cao, có năng lực làm việc trong môi trường quốc tế với những tiêu chuẩn, tiêu chí do thị trường lao động xác định. Theo các chuyên gia Ngân hàng Thế giới (WB), sự chuẩn bị kiến thức, kỹ năng; thái độ và tâm lý để sẵn sàng di chuyển sang làm việc tại các nước ASEAN của lao động Việt Nam là chưa cao. Thị trường lao động trong nước và thế giới đòi hỏi người lao động phải đạt được chuẩn nghề nghiệp, hiện nay Nhà nước đã ban hành gần 200 tiêu chuẩn kỹ năng nghề quốc gia, tiếp tục xây dựng, thẩm định và ban hành các tiêu chuẩn kỹ năng nghề quốc gia cho các ngành/nghề còn lại và bước đầu hướng tới chuẩn khu vực và thế giới. Để thực hiện được mục tiêu đổi mới và nâng cao chất lượng GDNN trong giai đoạn tới, Đề án “Đổi mới và nâng cao chất lượng giáo dục nghề nghiệp đến năm 2020 và định hướng đến năm 2030”[1]; Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội xác định triển khai thực hiện đồng bộ 8 nhóm giải pháp, trong đó 3 nhóm giải pháp đột phá là: Trao quyền tự chủ đầy đủ cho các cơ sở GDNN đi liền với nâng cao năng lực quản trị của các cơ sở GDNN; Chuẩn hóa các điều kiện bảo đảm chất lượng (BĐCL), Gắn kết GDNN với thị trường lao động, việc làm bền vững và an sinh xã hội; cụ thể: 1/. Đổi mới và nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về GDNN. 2/. Trao quyền tự chủ đầy đủ cho các cơ sở GDNN. 3/. Hoàn thiện quy hoạch mạng lưới cơ sở GDNN. 4/. Chuẩn hóa các điều kiện ĐBCL. 5/. Tăng cường quản lý chất lượng GDNN. 6/. Gắn kết GDNN với thị trường lao động, việc làm và an sinh xã hội. 7/. Phát triển hệ thống đánh giá và cấp chứng chỉ kỹ năng nghề 525
  3. quốc gia cho người lao động. 8/. Tăng cường truyền thông, nghiên cứu khoa học và hợp tác quốc tế. Trong 8 nhóm giải pháp trên thì nhóm giải pháp về Chuẩn hóa các điều kiện bảo đảm chất lượng được xác định là 1 trong 3 nhóm giải pháp đột phá, do đó, việc xây dựng và vận hành hệ thống ĐBCL trong cơ sở GDNN là giải pháp quan trọng để đánh giá, thúc đẩy và phát triển các giải pháp khác một cách hữu hiệu. Nghị quyết 29, Trung ương khóa XI về Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo đã nêu rõ: “bảo đảm các điều kiện nâng cao chất lượng; chuẩn hóa, hiện đại hóa hệ thống giáo dục và đào tạo” thì còn có các văn bản luật, dưới luật qui định và hướng dẫn chi tiết, tạo hành lang pháp lý quan trọng để hoạt động GDNN ngày càng đi đúng theo hướng ĐBCL và hội nhập, cụ thể Luật Giáo dục nghề nghiệp quy định trách nhiệm của cơ sở GDNN là “Cơ sở GDNN tự chủ trong các hoạt động thuộc các lĩnh vực Nhà trường và nhân sự, tài chính và tài sản, đào tạo và công nghệ, hợp tác quốc tế, ĐBCL đào tạo theo quy định của pháp luật; có trách nhiệm giải trình trước cơ quan nhà nước có thẩm quyền, người học và xã hội về Nhà trường, quản lý hoạt động và chất lượng đào tạo của mình”; Nghị định số 48/NĐ-CP ngày 15/5/2015 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật Giáo dục nghề nghiệp có quy định trách nhiệm của cơ quan quản lý nhà nước ở trung ương “quy định về xây dựng hệ thống BĐCL (ĐBCL) trong cơ sở GDNN”. Trong Chiến lược phát triển dạy nghề thời kỳ 2011 – 2020 của Thủ tướng Chính phủ, trong đó có yêu cầu “các cơ sở dạy nghề phải chịu trách nhiệm ĐBCL đào tạo của mình” và phải xác định cụ thể trong chương trình hành động “Xây dựng hệ thống quản lý chất lượng dạy nghề”; Đề án phát triển trường nghề chất lượng cao đến năm 2020, cũng có nội dung: “Xây dựng và áp dụng hệ thống quản lý chất lượng đào tạo ở các trường nghề được lựa chọn”; Trong “Chiến lược hội nhập quốc tế về lao động và xã hội đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030” của Chính phủ có nêu rõ: mục tiêu hội nhập Quốc tế về GDNN có giải pháp là “Xây dựng, phát triển hệ thống ĐBCL đào tạo nghề cho các cơ sở đào tạo đạt chuẩn khu vực và quốc tế”. Gần đây nhất là Thông tư số 28/2017/TT-BLĐTBXH ngày 15/12/2017 của Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội quy định hệ thống BĐCL của cơ sở GDNN, trong Thông tư này đã qui định chi tiết về việc xây dựng và vận hành hệ thống BĐCL, qui định về trách nhiệm của người đứng đầu cơ sở GDNN trong việc quản lý hệ thống BĐCL tại cơ sở GDNN của mình. Có thể nói, đây là văn bản quan trọng có đủ các nội dung để cơ sở GDNN làm căn cứ xây dựng và vận hành hệ thống BĐCL của đơn vị mình. Về phần trách nhiệm của cơ quan quản lý nhà nước về GDNN ở Trung ương – Tổng Cục GDNN đã tích cực triển khai và hướng dẫn các cơ sở GDNN trong cả nước về kiến thức ĐCL thông qua các khóa tập huấn bồi dưỡng kiến thức cơ bản về xây dựng và vận hành hệ thống BĐCL GDNN, việc còn lại chính là sự tự thân vận động của các cơ sở GDNN đối với trách nhiệm phải thực hiện xây dựng hệ thống BĐCL của mình. 526
  4. 2. Các khái niệm cơ bản 2.1. Quản lý chất lượng Theo tổ chức Quốc tế và Tiêu chuẩn hóa: “Quản lý chất lượng là những hoạt động có chức năng quản lý chung nhằm đề ra các chính sách, mục tiêu, trách nhiệm và được thực hiện bằng các biện pháp như chính sách chất lượng, hoạch định chất lượng, kiểm soát chất lượng, BĐCL và cải tiến chất lượng trong khuôn khổ một hệ thống chất lượng cho phép” [7]. Như vậy, có thể hiểu; “Quản lý chất lượng ở một cơ sở GDNN nói riêng chính là toàn bộ quá trình hoạt động có kế hoạch, có hệ thống được tiến hành để bảo đảm chất lượng đào tạo của nhà trường (chất lượng đầu vào - quá trình và đầu ra) và được chứng minh là đủ mức cần thiết để tạo sự tin tưởng thoả đáng rằng sản phẩm đào tạo của cơ sở GDNN sẽ đáp ứng đầy đủ các yêu cầu chất lượng (tuân thủ các tiêu chuẩn và thủ tục, quy trình)”[3]. 2.2. Đảm bảo chất lượng - Thuật ngữ của SEAMEO (Tổ chức Bộ trưởng Giáo dục Đông Nam Á) công bố năm 2002: “Đảm bảo chất lượng là việc áp dụng các quan điểm, chính sách các nguồn lực, các quá trình, các thủ tục và các công cụ vào quá trình giáo dục để đảm bảo thực hiện được sứ mạng và mục tiêu đề ra, nhằm tạo ra lòng tin đối với người học, người sử dụng lao động và xã hội”[6]. - Theo tiêu chuẩn Việt Nam TCVN 5814:1994 về quản lý chất lượng và BĐCL; “Đảm bảo chất lượng là toàn bộ các hoạt động có kế hoạch và hệ thống được tiến hành trong hệ chất lượng và được chứng minh là đủ mức cần thiết để tạo sự tin tưởng thoả đáng rằng thực thể (đối tượng) sẽ thoả mãn đầy đủ các yêu cầu chất lượng”. Theo ISO 8402, “ĐBCL là tất cả các hoạt động có hệ thống và được lập kế hoạch trong một hệ thống chất lượng, và được chứng minh là cần thiết để cung 527
  5. cấp sự tin tưởng rằng một thực thể sẽ thực hiện các yêu cầu cho chất lượng. Trong giáo dục, khái niệm ĐBCL có thể được coi như là một “Hệ thống các biện pháp, các hoạt động có kế hoạch được tiến hành trong và ngoài nhà trường và được chứng minh là đủ mức cần thiết để tạo ra sự tin tưởng thỏa đáng rằng các hoạt động và sản phẩm đào tạo (HS, SV tốt nghiệp) sẽ thỏa mãn đầy đủ các yêu cầu về chất lượng giáo dục theo mục tiêu đào tạo dự kiến”[4]. 2.3. Hệ thống bảo đảm chất lượng trong cơ sở GDNN “Hệ thống bảo đảm chất lượng trong cơ sở giáo dục nghề nghiệp là hệ thống các chính sách, quy trình, công cụ đối với tất cả lĩnh vực, nội dung quản lý của cơ sở giáo dục nghề nghiệp nhằm duy trì, cải tiến, nâng cao chất lượng giáo dục nghề nghiệp và đạt được mục tiêu đề ra”[2]. 3. Thực tiễn xây dựng và áp dụng hệ thống quản lý chất lượng trong giáo dục nghề nghiệp Trong những năm qua, công tác quản lý chất lượng trong các cơ sở GDNN phần lớn vẫn nặng theo mô hình quản lý truyền thống, xây dựng các quy định quản lý chất lượng Nhà trường dựa trên hệ thống các quy định của Nhà nước. Bên cạnh đó, đã có một số trường đã chủ động mời chuyên gia tư vấn hoặc tự nghiên cứu để áp dụng các tiêu chuẩn và quy trình hóa nội dung quản lý theo các tiêu chuẩn của các Nhà trường có uy tín trên thế giới để công bố thực hiện trong cơ sở đào tạo của mình. Trên địa bàn TP.HCM và trong cả nước đã có một số cơ sở GDNN đã được cấp chứng nhận hệ thống quản lý chất lượng của trường đạt tiêu chuẩn ISO, một số còn đang trong giai đoạn nghiên cứu xây dựng và áp dụng thử nghiệm. Kết quả khi áp dụng hệ thống quản lý chất lượng trong nhà trường bước đầu đã có hiệu quả hoạt động quản lý chất lượng và vai trò trách nhiệm của cán bộ quản lý tăng lên. Tuy nhiên, việc đưa mô hình này áp dụng trong nhà trường gặp nhiều khó khăn, do mô hình quản lý được ứng dụng nhiều trong sản xuất kinh doanh, đội ngũ chuyên gia tư vấn thường là những người không có hoặc ít kinh nghiệm trong lĩnh vực GDNN nên việc tư vấn xây dựng thường không sát với thực tiễn, mặt khác chưa gắn kết các tiêu chí, tiêu chuẩn kiểm định chất lượng GDNN (là mô hình bảo đảm chất lượng (BĐCL) phù hợp nhất trong nhà trường mà trên thế giới đang áp dụng) để xác định các nội dung, quy trình và công cụ quản lý nên ảnh hưởng khó khăn không nhỏ cho các cơ sở GDNN trong quá trình xây dựng và triển khai, do đó cần phải có nghiên cứu, vận dụng đưa ra mô hình quản lý cho phù hợp với đặc trưng của các cơ sở GDNN. Mặt khác, các nội dung quản lý của các trường (theo hệ thống quản lý chất lượng trong nhà trường như đã đề cập ở phần trên) phần lớn tập trung cho quản lý đào tạo, chương trình, giáo trình, quản lý tài chính, quản lý nhân sự, quản lý học sinh, sinh viên, còn lại chưa quan tâm nhiều đến hợp tác doanh nghiệp và các 528
  6. nội dung quản lý khác (những yếu tố khá quan trọng để gắn nhà trường với doanh nghiệp, gắn đào tạo với sử dụng, chất lượng giảng dạy, chất lượng đội ngũ giáo viên và các trang thiết bị để rèn luyện kỹ năng nghề cho người học...). Bên cạnh đó, đa số các cơ sở GDNN chưa có bộ phận, đơn vị chuyên trách về công tác quản lý và BĐCL, chỉ có cán bộ làm kiêm nhiệm, thậm chí còn không có cán bộ thực hiện công tác này. Từ năm 2018 đến nay, để triển khai Thông tư số 28/2017/TT-BLĐTBXH (TT28/2017) quy định hệ thống BĐCL của cơ sở GDNN, Cục Kiểm định chất lượng GDNN (Tổng Cục GDNN) đã tổ chức các khóa tập huấn “Bồi dưỡng kiến thức cơ bản về BĐCL bên trong cơ sở GDNN” cho các cán bộ phụ trách công tác BĐCL của các cơ sở GDNN trên toàn quốc, đây là sự nổ lực của Cục Kiểm định chất lượng GDNN với mong muốn triển khai và tổ chức thực hiện có hiệu quả các nội dung của TT28/2017 trong phạm vi cả nước. Mặc dù hiện nay các cơ sở GDNN đã có quan tâm đến hoạt động quản lý ở đa số các lĩnh vực hoạt động trong nhà trường song vẫn mang tính độc lập, đơn lẻ, thiếu gắn kết và ít cải tiến. Bên cạnh các cơ sở GDNN đã tổ chức xây dựng và vận hành hệ thống BĐCL (sau khi được tập huấn) thì hiện vẫn còn nhiều cơ sở GDNN chưa xây dựng và áp dụng hệ thống quản lý chất lượng trong nhà trường một cách tổng thể và đồng bộ nhằm kiểm soát và BĐCL đào tạo của mình. Theo đánh giá của các nhà nghiên cứu, hầu hết các cơ sở GDNN hiện nay mới áp dụng mức độ kiểm soát chất lượng và xây dựng hệ thống BĐCL tiếp cận hệ thống quản lý chất lượng toàn diện. Do đó, Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội, Tổng cục Giáo dục nghề nghiệp đã và đang chỉ đạo các đơn vị chức năng xây dựng hệ thống BĐCL trong và ngoài cơ sở GDNN, coi đây là công cụ nâng cao chất lượng GDNN, góp phần nâng cao niềm tin của xã hội đối với công tác GDNN. 4. Một số yêu cầu, nội dung và biện pháp xây dựng hệ thống quản lý chất lượng nhằm bảo đảm chất lượng giáo dục nghề nghiệp trong bối cảnh hội nhập quốc tế Theo qui định tại Điều 2 của TT28/2017 (Nguyên tắc, yêu cầu hệ thống BĐCL), trong các nguyên tắc đã nêu cần quan tâm đến nguyên tắc thứ 4 là “Tiếp cận theo quá trình, đảm bảo tính hệ thống, gắn kết với tiêu chí, tiêu chuẩn kiểm định chất lượng giáo dục nghề nghiệp và ứng dụng tối đa công nghệ thông tin trong quản lý”. Vì mục tiêu của việc vận hành hệ thống BĐCL là đạt Tiêu chuẩn kiểm định chất lượng GDNN. Theo CQAIE (Trung tâm ĐBCL giáo dục quốc tế Hoa Kỳ) thì “Kiểm định chất lượng là cách thức được sử dụng rộng rãi nhất trong các khu vực và trên thế giới cũng như hữu hiệu nhất khi phục vụ mục đích phát triển và xây dựng năng lực”[5], điều này cũng có thể hiểu là Kiểm định chất lượng là mô hình BĐCL phù hợp nhất đối với nhà trường mà cả thế giới áp dụng. Để hội nhập với thế giới trong lĩnh vực này, thì việc đánh giá một cơ sở GDNN đạt chất 529
  7. lượng thì điều kiện không thể thiếu là cơ sở GDNN hay Chương trình đào tạo phải đạt tiêu chuẩn kiểm định chất lượng GDNN. Hệ thống BĐCL (trong cơ sở GDNN) là mô hình quản lý toàn bộ quá trình đào tạo để ĐBCL các cấp từ đầu vào, quá trình, đầu ra (kết quả đào tạo và khả năng thích ứng xã hội và lao động, việc làm), khi xây dựng và vận hành hệ thống này phải chú ý đến các yêu cầu sau: - Thực hiện trước, trong và sau quá trình đào tạo. - Tập trung vào phát hiện, phòng ngừa những yếu tố làm giảm/ảnh hưởng đến chất lượng đào tạo, đó là: yếu tố về đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý; chương trình, giáo trình giảng dạy; cơ sở vật chất, thiết bị; hệ thống quản lý chất lượng (BĐCL). - Chất lượng đào tạo được xác định theo các chuẩn mực và có quy trình, cơ chế BĐCL đầu ra (chất lượng học sinh tốt nghiệp). - Chất lượng đào tạo là trách nhiệm của mọi người tham gia quá trình đào tạo (Cán bộ quản lý, giáo viên, nhân viên…). Hệ thống BĐCL trong cơ sở GDNN bao gồm: - Mục tiêu chất lượng, chính sách chất lượng, sổ tay BĐCL. - Các quy trình, công cụ BĐCL. - Hệ thống thông tin BĐCL. - Cơ chế và quy định kiểm tra, giám sát và đánh giá chất lượng. - Tổ chức và nhân sự BĐCL. Dưới đây là phần trình bày nội dung các bước để xây dựng và vận hành hệ thống BĐCL và ví dụ minh họa: (1). Xác định các vấn đề/ lĩnh vực quản lý Xác định các vấn đề quản lý trên cơ sở phân tích các yếu tố đầu vào, quá trình đào tạo và đầu ra của hoạt động đào tạo. Trong một cơ sở GDNN (trường cao đẳng, trường trung cấp), tùy theo qui mô mà có thể có nhiều lĩnh vực quản lý, tuy nhiên những lĩnh vực quản lý sau đây không thể thiếu được, đó là: 1/. Mục tiêu, sứ mạng, tổ chức và quản lý; 2/. Hoạt động đào tạo; 3/. Nhà giáo, cán bộ quản lý, viên chức và người lao động; 4/. Chương trình, giáo trình; 5/. Cơ sở vật chất, thiết bị đào tạo và thư viện; 6/. Nghiên cứu khoa học, chuyển giao công nghệ và hợp tác quốc tế; 7/. Quản lý tài chính; 8/. Dịch vụ người học; 9/. Giám sát, đánh giá chất lượng. 530
  8. (2). Xác định nội dung quản lý Xác định nội dung quản lý theo từng vấn đề quản lý đã được xác định (như đã nêu trên). Ví dụ, trong lĩnh vực quản lý: Nhà giáo, cán bộ quản lý, viên chức và người lao động sẽ có các nội dung quản lý tương ứng với các tiêu chuẩn trong tiêu chí 3 (hệ thống tiêu chí, tiêu chuẩn kiểm định chất lượng cơ sở GDNN), đơn cử một nội dung quản lý là: “Quản lý về về việc tuyển dụng, sử dụng, quy hoạch, bồi dưỡng, đánh giá, phân loại nhà giáo, cán bộ quản lý, viên chức và người lao động theo quy định”. (3). Xác định các hoạt động cần quản lý Xác định các hoạt động quản lý cần thực hiện trong từng nội dung quản lý. Như ví dụ trên, tiếp tục xác định hoạt động cần quản lý là: - Tuyển dụng, sử dụng viên chức và người lao động; - Quy hoạch cán bộ quản lý; - Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ quản lý, viên chức và người lao động; - Đánh giá, phân loại nhà giáo, cán bộ quản lý, viên chức và người lao động. Căn cứ các hoạt động quản lý này để xây dựng qui trình, công cụ quản lý cho từng hoạt động quản lý. Ví dụ: Quy trình đào tạo, bồi dưỡng cán bộ quản lý, viên chức và người lao động của cơ sở GDNN như lưu đồ: 531
  9. 532
  10. (4). Thiết lập hệ thống tài liệu chất lượng: Xây dựng các tài liệu của hệ thống BĐCL như: Chính sách chất lượng; Mục tiêu chất lượng; Sổ tay bảo đảm chât lượng; các qui trình và biểu mẫu; Quyền hạn trách nhiệm, hướng dẫn và mô tả công việc… (5). Thiết lập hệ thống thông tin BĐCL: Thiết lập hệ thống thông tin BĐCL, gồm: thông tin đầu vào của từng quy trình BĐCL hoặc từng bước thuộc một quy trình; thông tin đầu ra của từng quy trình BĐCL hoặc từng bước thuộc một quy trình và các thông tin liên quan đến hệ thống BĐCL; trang bị máy móc, thiết bị, phần mềm và công nghệ phục vụ việc xây dựng, vận hành hệ thống BĐCL. (6). Quyết định ban hành hệ thống tài liệu Người đứng đầu cơ sở GDNN ký các quyết định (phê duyệt) hệ thống BĐCL là các nội dung cơ bản thuộc hệ thống, bao gồm: chính sách chất lượng; mục tiêu chất lượng; hệ thống tài liệu/văn bản về các quy trình/công cụ BĐCL; kế hoạch xây dựng, vận hành, đánh giá và cải tiến hệ thống BĐCL trường; kế hoạch tự đánh giá chất lượng; sổ tay BĐCL; hệ thống thông tin BĐCL... và chỉ đạo triển khai hệ thống BĐCL trong toàn trường. (7). Áp dụng vận hành Áp dụng hệ thống tài liệu vào thực tiễn hoạt động của nhà trường. Thu thập hồ sơ minh chứng chứng minh quá trình thực hiện. Trong quá trình vận phải chú ý đến các yếu tố làm ảnh hưởng đến chất lượng của hệ thống như: Về quản lý: Cam kết chưa đủ mạnh; Nhận thức chưa đầy đủ về hệ thống quản lý chất lượng; Nặng về cảm tính trong quá trình ra quyết định; Xử lý vi phạm chưa kiên quyết; Chưa đảm bảo các nguồn lực cần thiết. Về đội ngũ thực hiện: Hiểu chưa đúng về BĐCL/ quản lý chất lượng và vai trò của cá nhân trong hệ thống BĐCL của nhà trường; Thói quen tùy tiện, tư duy kinh nghiệm; Tư tưởng ỷ lại; Bệnh hình thức và đối phó; Chưa phát huy hết vai trò phản biện của khách hàng là sinh viên. Về phương pháp vận hành: Tiếp cận thiếu tính hệ thống; Phương pháp triển khai chưa thực sự phù hợp; Thiếu các điều kiện cần thiết để triển khai vận hành. (8). Đánh giá cấp đơn vị: Đơn vị (phòng, khoa, đơn vị khác thuộc trường) thực hiện đánh giá theo các nội dung, yêu cầu được quy định và lập báo cáo đánh giá cấp đơn vị; các nội dung đánh giá gồm: Sự phù hợp và kết quả thực hiện mục tiêu chất lượng của đơn vị; Sự phù hợp và kết quả vận hành các quy trình, công cụ BĐCL thuộc chức năng, nhiệm vụ của đơn vị đánh giá và quy trình, công cụ BĐCL liên quan đã được ban hành; Thực hiện quy chế quản lý, vận hành hệ thống thông tin BĐCL tại đơn vị. 533
  11. Yêu cầu đánh giá cấp đơn vị: bám sát tiến độ kế hoạch đánh giá hệ thống BĐCL của trường; bám sát tiến độ kế hoạch tự đánh giá chất lượng của trường; đảm bảo trung thực, khách quan, đầy đủ thông tin, minh chứng hợp lệ; huy động sự tham gia của cán bộ quản lý, nhà giáo, nhân viên, người học...; đánh giá kết quả thực hiện từng mục tiêu chất lượng; đánh giá kết quả thực hiện từng quy trình/công cụ BĐCL thuộc chức năng, nhiệm vụ của đơn vị; đánh giá kết quả nhận thức của đội ngũ đơn vị; đánh giá kết quả thực hiện quản lý thông tin về BĐCL của đơn vị... (9). Đánh giá cấp trường: Do cấp phòng có chức năng về BĐCL và kiểm định chất lượng thực hiện, các nội dung đánh giá gồm: Sự phù hợp của chính sách chất lượng cơ sở GDNN; Sự phù hợp và kết quả thực hiện mục tiêu chất lượng cơ sở GDNN; Sự phù hợp và kết quả vận hành các quy trình, công cụ BĐCL của các lĩnh vực quản lý chất lượng của cơ sở GDNN; Quy chế quản lý, vận hành hệ thống thông tin BĐCL. Yêu cầu đánh giá cấp trường: theo kế hoạch đánh giá hệ thống BĐCL của trường; đảm bảo trung thực, khách quan, đầy đủ thông tin, minh chứng hợp lệ; căn cứ vào các kết quả đánh giá cấp đơn vị; huy động sự tham gia của cán bộ quản lý, nhà giáo, nhân viên, người học...; đánh giá kết quả thực hiện từng chính sách chất lượng, mục tiêu chất lượng; đánh giá kết quả thực hiện từng quy trình/công cụ BĐCL thuộc chức năng, nhiệm vụ của trường; căn cứ kết quả tự đánh giá chất lượng các điều kiện BĐCL trường; kết quả nhận thức của đội ngũ trường; đánh giá kết quả thực hiện quy chế quản lý thông tin BĐCL của trường... (10). Triển khai hành động khắc phục Xác định nguyên nhân gốc rễ và thực hiện các hành động xử lý và khắc phục cần thiết để không lặp lại các điểm không phù hợp. (11). Xem xét và đề xuất cải tiến Xem xét kết quả phân tích đề xuất các phương án cải tiến. Căn cứ các báo cáo kết quả tự đánh giá chất lượng và các báo cáo đánh giá hệ thống BĐCL của cơ sở GDNN, đơn vị phụ trách tổng hợp, phân tích, đề xuất kế hoạch cải tiến. Đơn vị phụ trách lấy ý kiến kế hoạch cải tiến các đơn vị, đại diện các tổ chức Đảng, đoàn thể của cơ sở GDNN, các doanh nghiệp, đơn vị sử dụng lao động có tiếp nhận học sinh, sinh viên đến thực tập, thực hành, làm việc; tổng hợp và hoàn thiện kế hoạch cải tiến, trình người đứng đầu cơ sở GDNN phê duyệt. Tùy theo qui mô của từng cơ sở GDNN mà sẽ có nhiều hoặc ít các lĩnh vực quản lý. Căn cứ vào các lĩnh vực, nội dung quản lý để xây dựng quy trình, công cụ BĐCL cho từng nội dung cụ thể của các lĩnh vực quản lý chất lượng trình người đứng đầu cơ sở GDNN phê duyệt. 534
  12. Do mới áp dụng hệ thống BĐCL trong thời gian gần đây, chắc chắn các cơ sở GDNN sẽ không thể cùng một lúc thực hiện xây dựng đầy đủ tất cả các qui trình, công cụ quản lý, tuy nhiên để bước đầu tổ chức thực hiện thì cơ sở GDNN phải xác định các hoạt động sau đây phải xây dựng quy trình, công cụ BĐCL, bao gồm: xây dựng, lựa chọn, chỉnh sửa, bổ sung chương trình, giáo trình đào tạo; tuyển sinh; kiểm tra, thi, xét, công nhận tốt nghiệp; đánh giá kết quả học tập, rèn luyện, cấp văn bằng, chứng chỉ cho người học: tuyển dụng, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, đánh giá, phân loại nhà giáo, cán bộ quản lý; quản lý, sử dụng, bảo trì, bảo dưỡng thiết bị; quản lý xưởng; khảo sát học sinh sau tốt nghiệp; khảo sát doanh nghiệp, đơn vị sử dụng lao động (theo điểm b, khoản 4, điều 7 của TT.28/2017). 5. Kết luận, khuyến nghị Xây dựng và vận hành hệ thống BĐCL trong các cơ sở GDNN là nhằm đạt được các yêu cầu của tiêu chí, tiêu chuẩn kiểm định chất lượng cơ sở GDNN hay của chương trình đào tạo, do đó phải bám sát tiêu chí, tiêu chuẩn kiểm định chất lượng GDNN và các yêu cầu khác của cơ sở GDNN để xác định các lĩnh vực, nội dung quản lý và tiến hành xây dựng các qui trình, công cụ quản lý, hoàn thiện hệ thống BĐCL. Đây là nội dung quan trọng giúp các cơ sở GDNN có đủ minh chứng để chứng minh cơ sở GDNN mình đạt hay không đạt tiêu chuẩn kiểm định chất lượng GDNN, là căn cứ quan trọng để các cơ sở GDNN hội nhập với các trường trên thế giới với thông qua mô hình BĐCL là “Kiểm định chất lượng GDNN”. Việc xây dựng hệ thống BĐCL trước nhu cầu đổi mới cơ chế quản lý sẽ giúp tăng tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm của nhà trường, giúp thúc đẩy công tác đào tạo, công tác quản lý của toàn thể nhà trường phải nhất thiết đổi mới. Sự cần thiết đảm bảo, nâng cao chất lượng đào tạo là khẳng định thương hiệu, nâng cao năng lực cạnh tranh của nhà trường trong bối cảnh cạnh tranh trên thị trường lao động hiện nay. Chính vì vậy, việc xây dựng hệ thống ĐBCL là việc làm rất cần thiết để hoàn thiện cơ chế, chính sách, quy trình công cụ quản lý nhằm đổi mới quản trị nhà trường theo hướng công khai, minh bạch và hiệu quả, xây dựng văn hóa chất lượng cũng như phát huy tinh thần trách nhiệm của mọi thành viên trong nhà trường tham gia quản lý chất lượng, góp phần bảo đảm và không ngừng nâng cao chất lượng đào tạo của nhà trường. Việc xây dựng các quy trình quản lý chất lượng đào tạo có ý nghĩa quan trọng góp phần quyết định chất lượng nguồn nhân lực, tăng cường sức cạnh tranh trong nước. Đối với các cơ sở GDNN, đào tạo có chất lượng sẽ khẳng định thương hiệu, uy tín và lợi thế cạnh tranh trong tuyển sinh đào tạo và cơ hội khẳng định thương hiệu, vị thế của nhà trường. Do đó BĐCL GDNN không chỉ là mối quan tâm của cơ quan quản lý Nhà nước, của các cơ quan chủ quản mà còn là mối quan tâm trực tiếp của nhà trường. 535
  13. Để việc xây dựng vận hành hệ thống BĐCL, kiểm định chất lượng trong hệ thống nhà trường đạt hiệu quả, cần phải ưu tiên tập trung đầu tư đồng bộ về cơ sở vật chất, trang thiết bị, đổi mới chương trình đào tạo, nâng cao năng lực cho đội ngũ cán bộ, giáo viên thì một giải pháp không kém phần quan trọng và có tính đột phá là phải cải tiến về quản trị nhà trường, trong đó đề cao đến vấn đề nâng cao chất lượng đào tạo một cách tổng thể và bền vững đó là “xây dựng hệ thống BĐCL trong nhà trường” định hướng đó cũng phù hợp với các quy định của Luật Giáo dục nghề nghiệp, đồng thời việc xây dựng hệ thống ĐBCL trong nhà trường góp phần đổi mới công tác quản lý GDNN, bảo đảm dân chủ, thống nhất; tăng quyền tự chủ và trách nhiệm xã hội của nhà trường; coi trọng quản lý chất lượng đó cũng là một trong những giải pháp nhằm đổi mới GDNN. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội. (2017). “Đổi mới và nâng cao chất lượng giáo dục nghề nghiệp đến năm 2020 và định hướng đến năm 2030”, Hà Nội, tháng 6/2017. 2. Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội. (2017). Thông tư Quy định hệ thống bảo đảm chất lượng của cơ sở giáo dục nghề nghiệp, số 28/2017/TT-BLĐTBXH, ngày 15/12/2017. 3. Nguyễn Quang Toản, Dịch vụ giáo dục Quản lý và Kiểm định, Nhà xuất bản Đại học Quốc gia TP.HCM. 4. Phạm Ngọc Tuấn – Nguyễn Như Mai.(2019). Đảm bảo chất lượng, Nhà xuất bản Đại học Quốc gia TP.HCMTổng cục Giáo dục nghề nghiệp.Tài liệu đào tạo kiểm định viên chất lượng giáo dục nghề nghiệp, Hà Nội – 2019. 5. Tổng cục Giáo dục nghề nghiệp. (2018). Tài liệu bồi dưỡng kiến thức cơ bản về bảo đảm chất lượng bên trong cơ sở giáo dục nghề nghiệp, Hà Nội – 2018. 6. Tổng cục Dạy nghề. (2008). Tài liệu đào tạo kiểm định viên chất lượng dạy nghề, Hà Nội – 2008. 536
nguon tai.lieu . vn