Xem mẫu

  1. IUCN Tổ Chức Bảo Tổn Thiên nhiên Quốc Tế KHUYẾN NGHỊ Tháng 6 năm 1999 Phiên họp lần thứ tư của Tiểu ban tư vấn về Khoa học, Kỹ thuật và Công nghệ (Montreal, Canada, 21-25 tháng 6 năm 1999) Xây dựng các cách tiếp cận và phương thức sử dụng bền vững các nguồn tài nguyên sinh học - nhìn từ góc độ ngành Du lịch (Mục 4.8 của Chơng trình nghị sự) Robyn Bushell IUCN - World Commission on Protected Areas (WCPA) Task Force on Tourism WHO Collaborating Centre for Environmental Health Faculty of Environmental Management and Agriculture University of Western Sydney, Hawkesbury Richmond, NSW 2753, Australia tel: +61 2 4570-1562 fax: +61 2 4570-1207 e-mail: r.bushell@uws.edu.au Martha Chouchena-Rojas Biodiversity Policy Coordination Division IUCN- The World Conservation Union Rue Mauverney 28 1196 Gland, Switzerland tel: +41 22 999-0290 fax: +41 22 999-0025 e-mail: mtr@hq.iucn.org Robert W G Jenkins
  2. IUCN Sustainable Use Initiative C/o Environment Australia GPO Box 787 Canberra, ACT 2601 Australia tel: +612 6274-2392 fax: +612 6274-2243 e-mail: hank.jenkins@ea.gov.au Bảng các chữ viết tắt CBD Hội nghị các Thành viên về Công ước Đa dạng Sinh học CITES Ban Phát triển Bển vững COP Tiểu ban Tư vấn Khoa học, Kỹ thuật và Công nghệ (thuộc Công ước Đa dạng Sinh học) NGO Tổ chức Phi chính phủ SBSTTA Tiểu ban tư vấn về Khoa học, Kỹ thuật và Công nghệ UNEP Chơng trình Môi trường Liên Hiệp Quốc WCPA Ban Quốc tế về các Khu Bảo Tổn WTO Tổ chức Du lịch Thế giới WTTC Hội đồng Du lịch và Lữ hành Thế giới
  3. MỞ ĐẦU Trong quyết định mục IV/15, Hội nghị các Bên tham gia Công ớc Đa dạng Sinh học (COP) đã đề nghị các quốc gia trình những thông tin về các mối đe dọa hiện tại đối với đa dạng sinh học do các hoạt động du lịch gây ra; các cách tiếp cận, chiến lược và các công cụ nhằm minh chứng cho những nơi có sự tương hỗ giữa du lịch và bảo tồn; sự tham gia của khối tư nhân và của các cộng đồng bản địa vào việc thiết lập các ph- ơng thức bền vững; sự hợp tác cấp vùng và tiểu vùng; qui hoạch cơ sở hạ tầng để gắn kết du lịch với những quan tâm của Công ớc về Đa dạng Sinh học (CBD); và các chính sách cũng nh các hoạt động thích hợp về du lịch bền vững để khởi xướng một tiến trình chia xẻ kinh nghiệm, trao đổi kiến thức cũng như những phương thức tốt nhất. Trong quyết định mục IV/16 về các vấn đề thể chế và chương trình làm việc, Hội nghị lần thứ tư các bên tham gia công ước (COP4) đã đề cập đến việc sử dụng bền vững [tài nguyên sinh học] như là một trong ba lĩnh vực cần tập trung thảo luận trong Hội nghị lần thứ năm các bên tham gia công ước vào tháng 5 năm 2000. Tiểu ban T vấn về Khoa học, Kỹ thuật và Công nghệ 4 (SBSTTA4) sẽ xem xét các cách tiếp cận và các phương thức sử dụng bền vững các nguồn tài nguyên sinh học trong đó có du lịch. Mặc dù du lịch là trọng tâm của SBSTTA4, IUCN tin rằng sử dụng bền vững là một vấn đề có tính phức hợp cần được quan tâm xem xét trên bình diện tổng hợp. SBSTTA5 sẽ mở rộng phạm vi và sẽ xem xét việc sử dụng bền vững trong một bối cảnh rộng lớn hơn. Du lịch bền vững là hiện thân cho một tập hợp các chế độ trong đó các nguồn tài nguyên sinh học và văn hóa của một quốc gia có thể đợc sử dụng theo cách bền vững. Các tài nguyên sống hoang dã có rất nhiều giá trị có thể cung cấp những khuyến khích vật chất cho công tác bảo tồn. Nếu sử dụng các nguồn tài nguyên này một cách bền vững và hợp lý thì đây sẽ là một công cụ bảo tồn quan trọng bởi vì các lợi ích kinh tế và xã hội thu được từ phương thức sử dụng như vậy có thể đem lại những khuyến khích vật chất cho những người bảo vệ chúng. Tại những nơi mà các giá trị kinh tế, văn hóa và xã hội có thể gắn với nguồn tài nguyên sống hoang dã thì có thể loại bỏ được các khuyến khích vật chất sai trái, và các chi phí và lợi ích nếu được "nội hóa" thì có thể tạo ra các điều kiện thuận lợi để đầu tư vào bảo tồn và sử dụng bền vững tài nguyên, nhờ vậy giảm bớt những nguy cơ về suy thoái tài nguyên và biến đổi nơi cư trú. Trên cơ sở phân tích các hệ thống sử dụng trong một số bối cảnh khác nhau, Sáng kiến Sử dụng Bền vững của IUCN đã kết luận rằng các yếu tố kinh tế, văn hóa, xã hội và sinh học là một tập hợp phức tạp, có tương tác với nhau và cùng hoạt động để gây ảnh hưởng đến sự bền vững của việc sử dụng tài nguyên. Mặc dù các yếu tố trên có sự tơng tác phức tạp song những điều kiện sau đây đã bắt đầu xuất hiện như là những điều kiện thiết yếu để tăng cường sử dụng bền vững đa dạng sinh học:
  4. • cơ cấu thể chế thích hợp cho các cấp quản lý mà những thể chế này sẽ đem lại cả những khuyến khích vật chất lẫn những hình thức xử phạt và sự cai quản tốt; • những hệ thống quản lý có xem xét đến các yếu tố quyền hưởng dụng đất, quyền tiếp cận tài nguyên, các hệ thống qui định, tri thức bản địa và luật tập tục; • sự tham gia của cộng đồng địa phương vào mọi giai đoạn, từ khi lập kế hoạch đến lúc triển khai thực hiện; • chia sẻ công bằng lợi ích và những lợi ích này được tập trung nhiều hơn cho địa phương; • các cơ chế giám sát, đánh giá và phản hồi thờng xuyên và có hiệu quả; và • khả năng điều chỉnh công tác quản lý dựa vào các kết quả giám sát. Từ những phân tích khu vực và kiểm nghiệm một số trờng hợp cụ thể, điều rõ ràng là quyền hởng dụng đất cũng như đối với các nguồn tài nguyên khác, dù là quyền cá nhân hay tập thể, là một trong những yếu tố quan trọng xác định những biến đổi có tính chất tiến hóa của cảnh quan. Đây cũng là yếu tố qui định cách thức sử dụng và quản lý tài nguyên và phơng thức chia sẻ lợi ích thu được từ việc sử dụng các nguồn tài nguyên đó (Oglethorpe, 1999). Mặc dù việc xác định rõ ràng các trách nhiệm và quyền hưởng dụng sao cho phù hợp với từng hoành cảnh kinh tế, văn hóa, xã hội cụ thể là điều kiện cơ bản để đạt được sử dụng bền vững song bên cạnh đó cũng cần có các chính sách hỗ trợ, cơ cấu thể chế và những khuyến khích kinh tế để tạo ra đợc các mức độ tin cậy khác nhau. ĐỊNH NGHĨA DU LỊCH BỀN VỮNG Trong những năm gần đây đã có khá nhiều bài viết về du lịch bền vững. Du lịch/lữ hành/giải trí là một trong những ngành công nghiệp đang phát triển nhanh và mạnh nhất trên thế giới. Đây là một hoạt động phức tạp, đa ngành nghề, và do đó không dễ định nghĩa. Các tác động môi trờng, kinh tế và xã hội của du lịch - cả tác động tích cực và tiêu cực - ở qui mô toàn cầu, khu vực và địa phơng rất rộng lớn và phức tạp. Năm 1995, Tổ chức Du lịch Thế giới, Hội đồng Du lịch và Lữ hành Thế giới và Hội đồng Trái đất đã thông qua một tuyên bố chung "Chơng trình nghị sự 21 cho ngành Công nghiệp Du lịch và Lữ hành: Hướng tới sự phát triển bền vững phù hợp về môi tr- ường". Đây là dự thảo của chương trình hành động cho ngành du lịch bao gồm những nguyên tắc sau: • du lịch cần phải giúp cho con người có một cuộc sống lành mạnh, có năng suất và hài hòa với thiên nhiên; • du lịch cần góp phần cho sự nghiệp bảo tồn, bảo vệ và phục hồi các hệ sinh thái; • bảo vệ môi trường cần phải là một bộ phận không thể thiếu trong phát triển du lịch;
  5. • du lịch cần đợc qui hoạch từ cấp địa phơng và cho phép sự tham gia của mọi công dân; • du lịch cần phải thừa nhận và hỗ trợ tính đồng nhất, bản sắc văn hóa và quyền lợi của người bản địa; • các thỏa thuận quốc tế về bảo vệ môi trường cần được ngành du lịch coi trọng (WTO, 1995). Đặc biệt phù hợp với các mục tiêu của Công ước Đa dạng Sinh học (CBD) là ngành du lịch và nghỉ ngơi dựa vào thiên nhiên, một loại hình hoạt động phụ thuộc trực tiếp vào tài nguyên thiên nhiên đang còn ở trạng thái cha mấy phát triển. Đặc biệt, du lịch sinh thái là một ngành quan trọng, được định nghĩa là "một kiểu tham quan có tính trách nhiệm với môi trờng đến những nơi thiên nhiên còn tơng đối hoang sơ để tận hưởng thiên nhiên (cũng nh tận hởng bất kỳ những đặc tính văn hóa nào khác - cả của quá khứ cũng như hiện tại). Kiểu du lịch này sẽ khuyến khích bảo tồn, có ít tác động của du khách và lôi cuốn sự tham gia tích cực và có lợi của người dân địa phương" (Ceballos-Lascurain, 1996). Du lịch sinh thái là một hình thức du lịch được ưa chuộng trong các khu bảo tồn và là một bộ phận của một khái niệm rộng hơn về du lịch bền vững. Đây là một trong số vài lựa chọn mà các chính phủ (ở mọi cấp), các NGO và cộng đồng địa phơng đang thảo luận rộng rãi trên khắp thế giới. Du lịch sinh thái được xem nh là một phương thức thay thế chấp nhận được nhằm tạo thu nhập từ môi trường mà gây ít tác động hơn so với các phơng thức sử dụng đất truyền thống có tính "khai thác" như trước đây. Các mục tiêu và những hớng dẫn về kiểu du lịch có tính chất tăng cường tính bền vững môi trường, làm giàu có tâm hồn con ngời và nâng cao chất lượng cuộc sống của cả du khách và ngời dân nơi đón khách hoàn toàn có thể góp phần cho du lịch bền vững và gia tăng lợi ích kinh tế. NHỮNG CHÍNH SÁCH VÀ CÁC HƯỚNG DẪN HIỆN HÀNH VỀ DU LỊCH BỀN VỮNG Nhiều diễn đàn của các tổ chức bảo tồn quốc gia và quốc tế, các tổ chức du lịch và các chính phủ đã xây dựng nhiều loại điều luật, hướng dẫn và những tuyên bố về nhiều khía cạnh khác nhau của du lịch bền vững, trong đó có cả du lịch sinh thái (ECONETT). Trong khi các văn bản trên đều có ý tốt thì hầu hết lại không dựa trên cơ sở nghiên cứu hoặc chỉ do ngoại suy từ kết quả nghiên cứu đã có của các lĩnh vực khác. Hội nghị quốc tế cấp Bộ trưởng về Đa dạng sinh học và Du lịch, tổ chức tháng 3 năm 1997, đã ra "Tuyên bố Berlin" gồm các khuyến nghị về đa dạng sinh học và du lịch bền vững. Các khuyến nghị này dựa vào việc tuân thủ các mục tiêu, nguyên tắc và nghĩa vụ của CBD. Chúng khuyến khích các hoạt động du lịch có thể hỗ trợ trực tiếp hay gián tiếp cho việc bảo tồn thiên nhiên và tính đa dạng sinh học, cho nhu cầu phải
  6. bảo vệ tính toàn vẹn các hệ sinh thái và nơi cư trú, cho nhu cầu phải ngừng phát triển thêm các hoạt động du lịch tại những nơi vốn đang chịu nhiều sức ép, cho nhu cầu phải có qui hoạch và đánh giá tác động đến môi trờng, cho nhu cầu phải phát triển và sử dụng các công nghệ du lịch phù hợp với môi trờng và cho việc nâng cao tinh thần trách nhiệm của các chính phủ, các tổ chức quốc tế, khối t nhân và các tổ chức môi tr- ờng trong lĩnh vực du lịch (UNEP, 1998). Uỷ ban Phát triển Bền vững sẽ đề cập đến du lịch trong phiên họp lần thứ bảy vào tháng 4 năm 1999. Hy vọng rằng những mối quan tâm về đa dạng sinh học có liên quan đến phát triển du lịch trong khuôn khổ CBD sẽ được quan tâm đầy đủ, đặc biệt là những hình thức du lịch hay nghỉ ngơi phụ thuộc trực tiếp vào các nguồn tài nguyên thiên nhiên đang còn hoang sơ. Nghị quyết số 10.6 của công ớc CITES đã nêu lên các mối quan tâm về tác động của việc buôn bán hàng lưu niệm trong hoạt động du lịch đến quần thể các loài động thực vật, và đã dự kiến một số qui trình củng cố thích hợp. Nghị quyết này cũng kêu gọi các chính phủ hành động và yêu cầu phải nâng cao nhận thức quần chúng. CITES kiểm soát và khuyến khích sự hợp tác giữa các chính phủ, ngành công nghiệp du lịch và các ngành khác (CITES, 1997). IUCN tin rằng SBSTTA cần tiếp tục phát triển dựa trên những công việc đang tiến hành và tin rằng các khuyến nghị của Tiểu ban này tại COP5 sẽ đảm bảo mọi nỗ lực là không bị trùng lặp. CÁC VẤN ĐỀ Khi quan tâm xem xét du lịch và đa dạng sinh học, SBSTTA nên lưu ý đến những điểm sau: • Du lịch và lữ hành là một trong những ngành công nghiệp đang trên đà phát triển lớn nhất và nhanh nhất. Bất chấp sự sa sút trầm trọng về kinh tế ở châu á, đóng góp cho GDP của ngành công nghiệp này trong năm 1998 vừa qua vẫn duy trì ở mức 11,6%, ớc tính trị giá khoảng 3.447,5 tỷ đôla Mỹ (WTTC, 1999). • Tại Hoa Kỳ, khoảng từ 10 đến 24% số du khách trong năm 1995 là có liên quan trực tiếp đến các khu bảo vệ (TWAC, 1996). • Tại hầu hết các quốc gia, du lịch và nghỉ ngơi, giải trí nội địa lôi cuốn một l- ợng lớn nhân công và các hoạt động kinh tế, hơn hẳn từ 2 đến 10 lần so với du lịch nước ngoài. Du lịch nội địa cũng kéo theo những yêu cầu về hạ tầng cơ sở, những hoạt động tương tự và từ đó có thể gây nên những tác động tương tự. Vì vậy cần quan tâm đến mọi loại hình nghỉ ngơi, giải trí bất kể là du khách đi du lịch nớc ngoài hay chỉ trong đất nước của họ, bất kể là chuyến đi một ngày hay dài ngày. Như vậy, trong trường hợp này dùng thuật ngữ "du khách" phù hợp hơn là thuật ngữ "khách du lịch". • Những thuật ngữ như "du lịch sinh thái" hay "du lịch dựa vào thiên nhiên" có thể sẽ hạn chế việc áp dụng tài liệu này chỉ đối với những hoạt động du lịch diễn ra trong các khu bảo tồn. Trong khi đó yêu cầu về bảo tồn đa dạng sinh
  7. học vợt xa khỏi khuôn khổ các khu bảo vệ và thậm chí các vùng thiên nhiên rất nhiều. Vì lý do đó, điều quan trọng là phải đạt đợc du lịch bền vững đối với mọi loại hình du lịch, kể cả du lịch đại chúng tại những bãi biển và các thành phố lớn. Đồng thời, mọi hình thức du lịch đều phụ thuộc rất lớn vào thiên nhiên - đó là các thắng cảnh, động thực vật hoang dã, sông suối..., và du lịch thu được lợi nhuận đáng kể từ những giá trị thực của các loại "hàng hóa thiên nhiên" đó. Vì vậy lợi nhuận từ du lịch cần đợc tái đầu tư vào cảnh quan thiên nhiên là những gì mà du lịch còn phụ thuộc. • Mặc dù đã có biết bao hiến chương, tuyên ngôn và những hướng dẫn về Du lịch Bền vững song các hoạt động của ngành công nghiệp toàn cầu này chua thay đổi được là bao. Cha có các hệ thống quản lý và kiểm soát thờng xuyên nhằm dự báo, đo đạc hay giám sát các tác động tích lũy, tinh vi và phức tạp lên đa dạng sinh học, dù là tác động tức thời hay dài hạn. Các giá phải trả về môi trường phần lớn là bị loại ra ngoài. • Là một hoạt động toàn cầu phức tạp, du lịch đòi hỏi phải có qui hoạch và quản lý mà những việc này cần được thực hiện trong khuôn khổ các yêu cầu về sinh thái học cũng như thực tiễn chính trị, kinh tế, xã hội của nơi khách đến và các loại thị trường khác. Thí dụ: • "Cộng đồng chủ" nơi khách đến là không đồng nhất; không nhất thiết là tất cả các thành viên trong cộng đồng đều đã sống tại đó từ hàng thế hệ; họ không ở trạng thái "tĩnh" mà luôn chuyển động; họ có thể không quan tâm lắm đến sự toàn vẹn của môi trường thiên nhiên hay xã hội; và có thể quan điểm của học về du lịch không giống nhau. Như vậy chỉ với một nguyên tắc lớn là "lấy ý kiến của cộng đồng địa phương" để đảm bảo một nền du lịch bền vững hơn là chua đủ. Cần phải có nhiều quá trình lấy ý kiến khác nhau cho phép sự tham gia rộng rãi của mọi người, mọi thành phần trong cộng đồng. • "Du khách" cũng là một nhóm người rất đa dạng. Họ không đồng đều về trình độ học vấn, động cơ đi du lịch, nhận thức và tính nhạy cảm đối với các vấn đề có liên quan đến việc sử dụng hợp lý tài nguyên sinh học. Các cách tiếp cận nhằm quản lý và giáo dục du khách cần phải lưu ý đến sự đa dạng này và cần được làm riêng cho từng đối tượng khác nhau. • Các vấn đề như "sử dụng theo truyền thống" các nguồn tài nguyên sinh học, quyền về đất đai và sự sở hữu là trung tâm của các ý niệm về tài sản du lịch. Vì thế cần xem xét cẩn thận khi lập kế hoạch và phát triển các hoạt động du lịch nào có liên quan đến cộng đồng cổ truyền để đảm bảo rằng họ đã được hỏi ý kiến và chấp thuận, họ được tham gia vào mọi quá trình, cũng như đảm bảo truyền thống được tôn trọng, quyền lợi được chia sẻ và xem xét đến mọi nhóm có các mối quan tâm khác nhau trong cộng đồng. • Khái niệm về "thiên nhiên" là do xã hội tạo ra và nó biến đổi theo thời gian, v- ượt qua các tín ngưỡng về chính trị, văn hóa và xã hội cũng như tình trạng kinh tế. Điều này có ảnh hởng đến các giá trị chúng ta đặt ra cho thiên nhiên và những gì được coi là ưu tiên bảo vệ hay mức sử dụng có thể chấp nhận được. • Hầu hết các hoạt động du lịch đều dựa vào môi trường thiên nhiên bất kể địa điểm ở đâu - thành thị, nông thôn, miền duyên hải hay vùng hoang dã, và bất kể loại hình du lịch nào - du lịch thiên nhiên, du lịch sinh thái hay du lịch đại chúng. Nếu không phải là sản phẩm du lịch thì các đặc tính của thiên nhiên cũng thờng
  8. là tiền đề, là cơ sở để tạo ra nó. Mọi loại hình du lịch đều có tác động đến việc bảo tồn thiên nhiên và đa dạng sinh học. CÁC LỢI ÍCH CỦA DU LỊCH BỀN VỮNG Du lịch tuân theo các nguyên tắc đa dạng sinh học có thể đem lại nhiều ích lợi nh sau: • khuyến khích sử dụng bền vững các vùng đất giàu có về đa dạng sinh học như- ng ít tiềm năng nông lâm nghiệp, nhờ đó cho phép nhiều khoảnh đất được giữ nguyên tình trạng có lớp thực vật tự nhiên che phủ; • tạo ra nhiều công ăn việc làm và doanh thu theo một chiều hướng lâu dài và bền vững, đặc biệt ở những vùng nông thôn, làm giảm áp lực lên những vùng đất có nguy cơ suy thoái và giảm sự di cư đến các vùng đô thị đông đúc; • khuyến khích hành động bảo tồn thông qua việc nâng cao nhận thức quần chúng cũng như của các nhà ra quyết định về vai trò của các vùng thiên nhiên giàu có về đa dạng sinh học đối với việc tạo ra thu thập; • kích thích đầu tư vào cơ sở hạ tầng và các phơng cách quản lý du lịch có tính chất phù hợp với môi trờng tại các khu thiên nhiên; • xây dựng các hành vi phù hợp với môi trường thông qua diễn giải và giáo dục môi trường; • xây dựng một lực lượng bảo tồn trong xã hội bằng cách tạo cơ hội cho họ đợc thưởng thức các vùng thiên nhiên • nâng cao giá trị gia tăng của đa dạng sinh học thông qua các kiểu du lịch dựa vào thiên nhiên khác nhau. Các vấn đề sau đây cần được quan tâm để đảm bảo có sự phân phối hiệu quả và công bằng các quyền lợi: • Một tỷ lệ thích hợp từ lợi tức của du lịch cần đợc quay trả lại cho "vùng được thăm quan" để chi cho việc bảo vệ môi trờng và phúc lợi xã hội. Bảo vệ đa dạng sinh học sẽ đem lại lợi nhuận cho cả du khách lẫn chủ nên thu nhập cần được chia sẻ công bằng. • Ngoài những lợi ích kinh tế trực tiếp nh tạo công ăn việc làm và thu nhập cho người dân địa phương, các lợi ích khác cũng cần được chia sẻ bao gồm quyền sử dụng các con đường tốt, nguồn nước, hệ thống viễn thông và các thiết bị y tế, giáo dục. Ngoài ra còn có các lợi ích khác nữa mà không thể qui ra bằng giá trị đồng tiền như nhiều người biết đến giá trị của khu vực, niềm kiêu hãnh về tri thức địa phương và việc gìn giữ các nếp xa. • Đầu tư dài hạn vào nguồn nhân lực địa phương thông qua việc tạo ra các năng lực địa phương để đảm bảo họ càng ngày càng có khả năng quản lý các khía cạnh khác nhau của du lịch, giữ lại nhiều tiền hơn cho cộng đồng chủ và tăng
  9. cường kỹ năng địa phờng có liên quan đến quản lý, các dịch vụ và các hoạt động, ví dụ như kỹ năng hớng dẫn du lịch chẳng hạn. CÁC MỐI ĐE DỌA DO DU LỊCH GÂY RA Các hoạt động du lịch có thể đồng thời gây ra vừa tác động tốt vừa tác động xấu đến môi trường. Mọi ban ngành có liên quan cần tạo điều kiện và khuyến khích sự phát triển ngành công nghiệp du lịch sao cho ngành này hỗ trợ cho việc bảo tồn và có khả năng trợ giúp tài chính để phòng tránh các mối đe dọa sau đây: • Vì các vùng thiên nhiên có chất lượng tốt đang ngày càng ít đi nên chúng trở nên có giá trị. Từ đó số khách đến thăm quan tăng lên, đe dọa tính hấp dẫn của những khu vực này vì sự quá tải của sức chứa sinh học cũng như sức chứa xã hội. • Những yêu cầu về hạ tầng cơ sở nh sân bay, đờng sá, bãi đỗ xe và khách sạn có thể có những tác động tiêu cực đến môi trường và có thể làm đảo lộn các nguồn tài nguyên trong các khu bảo tồn. Ngoài ra, nhu cầu về đất có thể gây "sốt" giá đất và giá nhà khiến cho ngời dân địa phương gặp nhiều khó khăn về kinh tế. • Hạ tầng cơ sở cũng có thể gây nên những tác động xã hội nh sự thay đổi lớn về kiểu kiến trúc của một nơi nào đó, hay các tòa nhà chọc trời có thể chắn tầm nhìn hoặc làm khuất bóng, và giao thông gia tăng sẽ gây ô nhiễm tiếng ồn. • Dân địa phương có thể mất hứng thú vào các nỗ lực bảo tồn nếu nh họ thấy rằng mình phần lớn bị lợi dụng để đem lại lợi ích cho du khách. • Các cấp có thẩm quyền có thể tìm mọi cách tối đa hóa các khoản lợi nhuận kinh tế ngắn hạn từ các khu bảo tồn giàu có về đa dạng sinh học bằng việc phát triển không phù hợp, hủy hoại các giá trị đa dạng sinh học và chuyển dịch hướng u tiên từ bảo tồn sang du lịch. • Nhu cầu tiêu thụ của ngành du lịch đối với tài nguyên sinh học, như hải sản làm thức ăn, các loại động thực vật hoang dã và các vật lưu niệm có thể thúc đẩy việc sử dụng không bền vững. • Nhu cầu ngày càng tăng của du lịch đối với nông sản địa phương có thể sẽ dẫn đến việc tăng giá lương thực thực phẩm ở địa phơng. Điều này càng dễ xảy ra tại những vùng đất vốn đã bị nghèo kiệt (McNeely, 1997). Tương tự, du khách có thể có những nhu cầu quá mức về nguồn nước gây sức ép về giá cả lên cộng đồng địa phương. • Vì du lịch là một ngành công nghiệp có tính cạnh tranh cao, trong khi mọi ngành và mọi người đều có gắng đạt được lợi nhuận cao nhất nên việc đóng góp cho bảo tồn đa dạng sinh học thường không phải là ưu tiên. Một số quốc gia, đặc biệt là những quốc gia đảo nhỏ, nổi tiếng về du lịch và ngày càng phụ thuộc
  10. vào nguồn ngoại tệ từ du lịch thì môi trường thiên nhiên là bị đe dọa nhiều nhất từ các quyết định phát triển kinh tế ngắn hạn. Ví dụ nguồn nước có hạn sẽ bị đe dọa bởi sự phát triển hạ tầng cơ sở du lịch, bởi việc sử dụng nớc của du khách cũng nh hệ thống nước thải. Du lịch còn có thể dẫn đến sự du nhập các loài ngoại lai, đe dọa tính đa dạng sinh học bản địa. Các thủ tục hải quan và kiểm dịch, đợc dùng để phòng chống bệnh dịch ở người và các sâu bệnh hại kinh tế, vẫn cha đủ an toàn để chống lại các loài ngoại lai. Các nỗ lực nhằm quản lý tác động của du khách đã dẫn đến sự ra đời của những khái niệm hữu ích như "Các giới hạn của việc sử dụng ở mức chấp nhận được". Tuy nhiên xác định được những giói hạn này lại không dễ dàng vì rất nhiều lý do khác nhau. Du lịch hiếm khi là hoạt động duy nhất của con ngời tác động lên môi trờng, nó còn phụ thuộc vào nhiều thuộc tính của môi trường và nó có liên quan đến nhiều đối tượng sử dụng cũng như nhiều tình huống, mục đích sử dụng khác nhau. Tất cả các yếu tố trên đều biến động. Nếu không có một hệ thống giám sát và các chỉ thị thích hợp thì không thể xác định được mức độ có lợi cũng như đe dọa, trong khi các tác động kinh tế có thể dễ dàng đợc đánh giá. CÁC NGUYÊN TẮC CHỈ ĐẠO Tổ đặc trách về Du lịch của Hội đồng quốc tế về Các khu bảo vệ (WCPA) thuộc IUCN đã xây dựng các nguyên tắc chỉ đạo sau đây: • Thiên nhiên là có giới hạn, song các mối tương tác lại phức tạp và các thiệt hại hay mất mát của nó không dễ đánh giá được trong một thời gian ngắn. Có một số môi trường vốn đã là mỏng manh, dễ bị hủy hoại hơn những môi trường khác. • Qui hoạch phát triển du lịch cần đợc lồng ghép với các qui hoạch khác tại một vị trí nào đó (ví dụ như khu bảo vệ), hoặc ở cấp vùng (ví dụ qui hoạch sử dụng đất trong vùng) hay cấp quốc gia (ví dụ Chiến lược Đa dạng Sinh học Quốc gia), trong đó có ứng dụng các công cụ như đánh giá môi trường chiến lược và quản lý tổng hợp tài nguyên. • Việc sử dụng một vị trí nào đó cho du lịch cần phải đợc quản lý trong những giới hạn qui hoạch dựa trên cơ sở những ớc tính về sử dụng bền vững và giám sát thường xuyên để bảo vệ sự lành mạnh của môi trờng. • Việc xây dựng các chính sách du lịch trong tương lai cần có cách tiếp cận phi tập trung hóa trong công tác qui hoạch và quản lý; tức là củng cố sự tham gia tích cực của chính quyền và cộng đồng địa phương trong các quá trình ra quyết định và quan tâm nhiều hơn đến việc thúc đẩy mối quan hệ đối tác giữa các doanh nghiệp và ngời dân địa phơng, các chủ đất và/hoặc các cộng đồng. • Du lịch bền vững yêu cầu phải có đánh giá tác động môi trường, một quá trình nhằm xem xét các khía cạnh sinh học và kinh tế xã hội, và đòi hỏi phải có các cơ chế gíam sát và phản hồi có hiệu quả.
  11. • Du lịch tạo ra rất nhiều các tác động đến môi trường và xã hội. Các tác động này thường vượt xa ra khỏi phạm vi của nơi mà có hoạt động du lịch diễn ra. Ngành công nghiệp du lịch cần phải giải quyết được các tác động tiêu cực và tăng cường các tác động tích cực để đảm bảo rằng các tài nguyên căn bản đ- ược gìn giữ trong môi trường tự nhiên của nó. Có thể phải cần đến việc điều tiết ở cấp hệ sinh thái/vùng sinh học và thờng là ở cấp tiểu vùng. Ví dụ sự ô nhiễm của một dòng suối có thể có tác động đến du lịch sinh thái ngoài biển, ví dụ như các hoạt động ngắm cá voi hay các tuyến lặn dưới biển. • Cần có các thủ tục nhằm phòng tránh sự du nhập vô tình của các loài xuyên ranh giới địa sinh học. Cần đặc biệt quan tâm đến vấn đề này khi những hòn đảo hay những vùng có tính đặc hữu loài cao là những điểm nóng về du lịch (xem phần về sự xâm lấn của các loài ngoại lai trong loạt báo cáo này của IUCN). • Khái niệm về hệ thống phân loại các khu bảo vệ của IUCN và khái niệm về khu bảo tồn sinh quyển của UNESCO là những công cụ quản lý hữu ích nhằm đạt được các mục tiêu bảo tồn ở các mức độ bảo vệ khác nhau trong khi vẫn đảm bảo các hoạt động du lịch bền vững. • Du lịch triển khai ở qui mô vùng sinh học hay hệ sinh thái và việc qui hoạch ở cấp này có thể giúp dàn trải tác động của du khách không chỉ lên các khu bảo vệ mà còn tới các địa điểm khác nhau trên những vùng đất công và tư. • Du lịch bền vững cần góp phần vào sự nghiệp bảo tồn đa dạng sinh học thông qua việc cải tiến quản lý, trả lại về tài chính và nâng cao nhận thức và quan hệ hợp tác. • Có thể tạo dựng nên sự chấp nhận và nhận thức của cộng đồng về lợi ích bảo tồn của du lịch bền vững bằng cách lôi kéo sự tham gia thỏa đáng của họ vào mọi giai đoạn phát triển du lịch. • Du lịch bền vững có khả năng cùng tồn tại hơn là cạnh tranh hoặc thay thế các tập quán và các phơng thức sử dụng đa dạng sinh học truyền thống. Cần có các qui định thích hợp của địa phương để bảo vệ các phơng thức sử dụng đất truyền thống chống lại sự tăng giá đất do các hoạt động du lịch thành công đem lại. • Các loại hình chuyên biệt của du lịch dựa vào thiên nhiên cần phải phù hợp với mọi nguyên tắc của du lịch bền vững. Ví dụ du lịch liên quan đến động vật hoang dã cần góp phần vào bảo tồn sự đa dạng loài chứ không phải đe dọa chúng. • Du lịch bền vững cần góp phần cải thiện và nâng cao phúc lợi của ngời dân địa phơng bằng cách tạo nguồn thu nhập, quyền tiếp cận tài nguyên và các dịch vụ, trong khi vẫn thừa nhận và tôn trọng tính đồng nhất, bản sắc văn hóa và các mối quan tâm của họ. • Điều quan trọng là phải quản lý du lịch sao cho có thể tối đa hóa cả sự thỏa mãn của du khách và sự chia sẻ lợi ích tại địa phơng trong khi giảm thiểu được đến mức thấp nhất các tác động tiêu cực đến môi trường và xã hội. • Du lịch bền vững cần thúc đẩy sự tham gia của mọi thành phần có liên quan, đặc biệt là cộng đồng địa phương, vào giai đoạn đề xuất, lập kế hoạch, thực thi và đánh giá các sáng kiến phát triển du lịch.
  12. • Cần phải tạo ngày càng nhiều cơ hội cho các quá trình thảo luận giữa mọi thành phần có liên quan để xác định và thống nhất về vai trò, quyền lợi và trách nhiệm của mỗi bên trong các sáng kiến phát triển du lịch. • Sự phát triển và hoạt động của du lịch dựa vào thiên nhiên cần được kiểm điểm thường xuyên bằng hình thức phản hồi thích hợp, bằng các cơ chế giám sát và đánh giá để đảm bảo rằng tính toàn vẹn của các thành phần thiên nhiên không bị tổn thương. Nguyên tắc này cần đợc áp dụng mọi nơi, không kể đó là khu bảo vệ hay không. Việc quản lý cần có tính thích nghi, kết hợp giám sát và có khả năng thay đổi để lu tâm tới những rủi ro và sự không chắc chắn. • Các chỉ thị cho một nền du lịch thành công, tức là các tác động tốt, cần được mở rộng vợt ra khỏi phạm vi các chỉ thị thông thường nh sự gia tăng số lợng du khách, đóng góp của ngành vào GDP và số công ăn việc làm do du lịch tạo ra. Thí dụ như cần phải có thêm các chỉ thị: • gia tăng diện tích các không gian thoáng; • tăng thêm kinh phí cho việc quản lý bảo tồn các cảnh quan, hệ sinh thái và động vật hoang dã; • việc sử dụng các loài bản địa hoặc các loài đặc hữu cho tạo lập cảnh quan đ- ược tăng lên; • thiết lập các hành lang xanh tại những nơi phát triển đô thị; • sử dụng các phương tiện giao thông, nhà nghỉ và các thiết bị tiết kiệm năng l- ượng; • tăng cường dùng các sản phẩm, công nghệ hay các phương thức bền vững trong phát triển cơ sở hạ tầng cho du lịch; • gia tăng hồi phục và tái tạo các vùng vốn đã bị suy thoái; • cộng đồng địa phơng và ngời bản địa cũng nhận đợc lợi ích từ du lịch (thu nhập, công ăn việc làm, v.v.); • sử dụng các tài nguyên có thể tái tạo của địa phương để xây dựng và duy trì; • nâng cao nhận thức và mối quan tâm đến lịch sử xã hội và tự nhiên của địa phương. CÁC KHUYẾN NGHỊ CHO CÔNG VIỆC TRONG TƯƠNG LAI IUCN khuyến nghị rằng Tiểu ban T vấn về Khoa học, Kỹ thuật và Công nghệ SBSTTA4 cần phải: • xem xét các kết quả của CSD7 để tránh trùng lặp và cần xác định được những đóng góp cụ thể của du lịch bền vững vào quá trình CSD về các khía cạnh đa dạng sinh học bao gồm cả các nguyên tắc và các phương thức du lịch tốt nhất. Khi xem xét đến các nguyên tắc, bản thảo về các nguyên tắc du lịch bền vững của UNEP cần được tham khảo cũng nh các nguyên tắc được trình bày trong tài liệu này. Đối với các phương thức du lịch tốt nhất, SBSTTA4 cần khuyến nghị COP5 nên tiếp tục các hoạt động như đã nêu trong quyết định số IV/15 đoạn 14
  13. nhằm thúc đẩy trao đổi kinh nghiệm và rút ra các bài học về những yêu cầu pháp chế, giáo dục và thể chế đối với du lịch bền vững. Những thông tin này cần đợc đa vào một cơ chế thông tin sao cho lúc nào cũng sẵn có để có thể tiếp cận dễ dàng. Ngoài ra, IUCN kêu gọi SBSTTA4 hãy khuyến nghị COP5 cần: • đảm bảo rằng khi tiến hành công việc xây dựng các chỉ thị và đánh giá tác động trong khuôn khổ của CBD sẽ lu tâm đến nhu cầu phải đánh giá sự thành công/thất bại của du lịch khi nỗ lực đạt đợc các mục tiêu của CBD. Việc này cần phối hợp với các tổ chức có liên quan nh Tổ chức Du lịch Quốc tế và Tổ đặc trách về Du lịch của IUCN-WCPA. • lu ý rằng năm 2002 là năm Quốc tế về Du lịch Sinh thái và xác định đợc các cơ chế đóng góp cho sự kiện này trong sự phối hợp với các tổ chức có liên quan ví dụ nh các tổ chức vừa nêu ở trên. IUCN khuyến nghị các bên tham gia công ớc cần quan tâm đến các hành động sau ở cấp quốc gia: • lồng ghép qui hoạch phát triển du lịch vào NBSAP và các kế hoạch khác đợc xây dựng trong khuôn khổ của CBD với sự quan tâm đặc biệt đến các kế hoạch về khu bảo vệ; • nghiên cứu để lồng ghép một cách hiệu quả du lịch và bảo tồn vào quá trình qui hoạch phát triển vùng; • đa các mối quan tâm về đa dạng sinh học vào các kế hoạch du lịch quốc gia, và chuẩn bị các hớng dẫn để thực hiện những kế hoạch đó (nhằm hỗ trợ việc thực hiện Điều 6b của CBD); • làm việc với ngành du lịch để giáo dục cộng đồng cũng nh ngành này về những lợi ích bảo tồn thu đợc từ hoạt động du lịch có trách nhiệm, và về yêu cầu phải có qui hoạch và quản lý ở cấp vùng sinh học; • nghiên cứu các giới hạn của việc sử dụng ở mức có thể chấp nhận đợc (cả về mặt sinh học và xã hội), xác định các chỉ thị phù hợp cho các tác động của du lịch và nghỉ ngơi giải trí trong các môi trờng và điều kiện sử dụng khác nhau, thiết lập các chơng trình giám sát có hiệu quả và đáng tin cậy và xác định đợc các cơ chế kiểm soát thích hợp; • nghiên cứu các xu hớng và những bài học kinh nghiệm gần đây từ nhiều kiểu thu xếp hay các dạng liên doanh khác nhau giữa khối nhà nớc, t nhân và cộng đồng nhằm sử dụng du lịch sinh thái nh là một dạng bền vững của hoạt động kinh tế; • khi xác định các chiến lợc du lịch cần đảm bảo đạt đợc các mục tiêu bảo tồn tại các khu bảo vệ,ví dụ nh những khu đợc phân hạng theo chỉ tiêu về Quản lý Khu bảo vệ của IUCN; bất kỳ một hoạt động du lịch nào bị cản trở bởi các mức độ bảo vệ khác nhau đều đợc xếp vào những thứ hạng khu bảo vệ khác; • khai thác và phát triển các biện pháp khuyến khích kinh tế cho kiểu du lịch mà có thể tối đa hóa các lợi ích bảo tồn trong khi giảm thiểu đợc các tác động bất lợi;
  14. • xem xét quá trình xây dựng các hớng dẫn/tiêu chuẩn/các cơ chế ủy nhiệm dựa trên các nghiên cứu theo lối kinh nghiệm mà những yếu tố này sẽ khuyến khích hình thức du lịch có hỗ trợ cho bảo tồn đa dạng sinh học; • xem xét việc xây dựng các hớng dẫn nhằm khuyến khích hình thức du lịch bảo vệ động vật hoang dã; • khai thác, xây dựng và giám sát các cơ chế lôi kéo sự tham gia và sự giao quyền đối với mọi thành phần có vai trò trong quá trình phát triển du lịch; • tăng cờng và mở rộng các thủ tục đánh giá tác động môi trờng (pháp chế/qui định) để bao hàm cả các tác động văn hóa, kinh tế và xã hội trong mọi dự án phát triển du lịch, bất kể là ở địa điểm/vị trí nào, thiết lập một bộ các chỉ thị thích hợp cho những hoạt động du lịch thành công, và lu ý đến những tác động nằm ngoài địa điểm, những tác động tích luỹ và dài hạn; nâng cao năng lực chuyên môn trong nước về đánh giá tác động môi trờng; và • làm việc với các hiệp hội công nghiệp quốc tế có liên quan với mục tiêu là giảm đáng kể nguy cơ xâm nhập của các loài ngoại lai do du lịch mang lại. Các bên tham gia công ước cũng có thể quan tâm xem xét đên các cơ chế nh "Quỹ đảm bảo môi trờng" (viết tắt là EGF) nh là một yêu cầu pháp chế của đánh giá tác động môi trường hoặc các hệ thống cấp phép khác dành cho các hoạt động phát triển du lịch. ý định là nhằm giúp các nhà quản lý tài nguyên thiên nhiên/đa dạng sinh học thu lại được lợi ích kinh tế không chỉ trong giai đoạn phát triển ban đầu mà còn tiếp tục trong suốt quá trình triển khai hoạt động du lịch. Điều này bao gồm việc tiến hành "những cuộc mặc cả để thỏa thuận theo kiểu doanh nghiệp" nhằm tạo ra một khuôn khổ linh hoạt, mềm dẻo tại cấp cơ sở giữa từng đối tượng tham gia phát triển tùy theo vị trí, qui mô, loại hoạt động dự kiến, mức độ khách thăm viếng và đặc trưng của loại hình hoạt động. Các thông số trên có thể chia nhỏ ra nữa. Thí dụ, vị trí còn có thể chia ra thành: • mức độ của đa dạng sinh học • tính độc nhất vô nhị của di sản văn hóa hay thiên nhiên • khoảng cách đối với một khu bảo vệ hay khu Di sản Thế giói • điều kiện khí hậu Để có thể xác định "nhu cầu và giá trị sinh học" của sự phát triển, Quỹ Đảm bảo Môi trờng EGF có thể đa ra giá trị về mặt tài chính do địa phương ấn định; giá trị này sẽ đ- ợc chi trả vào quỹ bảo tồn hoặc được đền bù bởi việc đạt đợc các hoạt động du lịch thành công trên cơ sở liên tục hành năm đối với các chỉ thị do địa phơng xác định dựa theo công ước CBD. TÀI LIỆU THAM KHẢO Ceballos-Lascurain, H. 1996. Tourism, Ecotourism & Protected Areas, IUCN, Gland
  15. CITES 1997 Resolution Conf 10.6 http://www.wcmc.org.uk/CITES/english/eresol1103-6.htm#10.6 European Community Network for Environmental Travel and Tourism (ECONETT) has a comprehensive listing. http://www.wttc.org McNeely. J.A. 1997. Tourism & Biodiversity: a natural partnership. Symposium on Tourism & Biodiversity, Utrecht Ogelthorpe, J.A.E. 1999. Tenure and Sustainable Use, IUCN Gland, Switzerland and Cambridge Tourism Works for American Council. 1996. Annual Report. Washington DC., USA UNEP/CBD/COP/4/Inf.21. 1998. Biological Diversity and Sustainable Tourism: preparation of global guidelines – submission by Germany. UNEP 1999. Tourism and the Environment: enemies or allies? News Release 1999/112 World Tourism Organisation. 1995. Agenda 21 for the Travel and Tourism Industry: towards environmentally sustainable development. World Tourism Organisation, World Travel and Tourism Council, and the Earth Council World Travel and Tourism Council, 1999
nguon tai.lieu . vn