Xem mẫu
- Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Software
http://www.foxitsoftware.com For evaluation only.
Xaõ hoäi hoïc loái soáng Haø Vaên
Taùc
Chương 1:
KHÁI NIỆM LỐI SỐNG .
ĐỐI TƯỢNG, CHỨC NĂNG, NHIỆM VỤ
VÀ PHƯƠNG PHÁP CỦA XÃ HỘI HỌC LỐI SỐNG
1.KHÁI NIỆM LỐI SỐNG.
1.1 Định nghĩa lối sống:
Lối sống là một hệ thống những đặc điểm chủ yếu nói lên hoạt
động của các dân tộc, các giai cấp, các nhóm xã hội, các cá nhân
trong những điều kiện của một hình thái kinh tế-xã hội nhất định.
Lối sống tổng hòa những hình thức hoạt động cơ bản phụ thuộc
vào điều kiện và những nhu cầu của con người do những điều kiện
đó qui định.
Lối sống bị qui định bởi hoàn cảnh khách quan của xã hội, bởi
những điều kiện sống củ các giai cấp, dân tộc…Nghĩa là lối sống một
mặt, do quan hệ thực tế của con người với tự nhiên, do trình độ trang
bị kỹ thuật, năng suất lao động của họ, trạng thái của lực lượng sản
xuất và do đó cả tính chất tiêu dùng, mặt khác do tính chất quan hệ
sản xuất, chế độ kinh tế của xã hội là cơ sở của toàn bộ hệ thống
quan hệ xã hội, qui định. Tuy nhiên, nhấn mạnh hoàn cảnh khách
quan của lối sống không vó nghĩa là loại trừ khả năng lựa chọn của
con người về một hình thức hoạt động nào đó. Những phương
hướng có mục đích rõ ràng, những định hướng giá trị của con người
tạo nên mặt chủ quan của lối sống.
Lối sống của con người phải được hiểu trong sự thống nhất giữa
mặt lượng và mặt chất. Nhân tố quyết định mặt chất của lối sống là
tính chất của chế độ xã hội, địa vị giai cấp trong hệ thống các quan
hệ kinh tế và chính trị. Các nhân tố quyết định mặt lượng và trình độ
phát triển của lực lượng sản xuất và tiêu dùng, thể hiện trước hết ở
mức sống và một số chỉ tiêu khác.
Khái niệm lối sống luôn chứa đựng câu trả lời cho câu hỏi : con
người làm gì và làm như thế nào. Karl Marx khẳng định : hoạt động
1
- Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Software
http://www.foxitsoftware.com For evaluation only.
Xaõ hoäi hoïc loái soáng Haø Vaên
Taùc
sống của các cá nhân như thế nào thì bản thân họ là như thế. Do đó,
tư cách của họ là cái gì thì sẽ trùng với sự sản xuất của họ – trùng
với việc họ sản xuất ra cái gì cũng như trùng với việc họ sản xuất như
thế nào.
Trong định nghĩa khái niệm lối sống, việc phân biệt nó với khái
niệm những điều kiện sống, hệ thống những nhân tố xã hội và tự
nhiên chứa đựng nội dung và tính chất của lối sống có một ý nghĩa
quan trọng mang tính nguyên tắc. Vì rằng lối sống không phải là cái
gì khác ngoài cách thức đặc thù mà trong đó những điều kiện sống,
và trước hết, phương thức sản xuất trong hoạt động sống hàng ngày
của con người, đã được nhận biết, được phản ánh và biểu hiện trong
sự cảm thụ, nhận thức và sự tái tạo hiện thực. Lối sống là sinh hoạt
cá nhân, chủ quan hóa của hệ thống những quan hệ xã hội, của toàn
bộ tổng thể những điều kiện sống, thể hiện ra trong những hoạt động
của con người.
Nhận thức khái niệm lối sống như vậy sẽ giúp tránh được việc
qui nó thành một yếu tố nhất định của hoạt động sống của con
người, chẳng hạn không qui nó vào việc thỏa mãn các nhu cầu của
họ, hoặc vào mức sống của họ, đồng thời cũng tránh được việc xử lý
khái niệm lối sống một cách quá rộng, đồng nhất nó với khái niệm xã
hội, khái niệm phương thức sản xuất, làm cho nó mất ý nghĩa khoa
học độc lập.
1.2. Phân biệt các khái niệm: lối sống, nếp sống, cách sống.
- Lối sống có sự kết hợp biện chứng giữa yếu tố vật chất và yếu
tố tinh thần, gắn liền với phương thức sản xuất của xã hội với chế độ
chính trị xã hội, với hình thái kinh tế – xã hội. Vì vậy khi nói xây dựng
một lối sống là gắn với xây dựng một hình thái kinh tế – xã hội, một
nền văn hóa xã hội.
- Nếp sống hàm chứa ý nghĩa hẹp hơn. Nếp sống bao gồm
những cách thức, hành động và suy nghĩ, những qui ước được lặp đi
lặp lại hàng ngày trở thành thói quen, tập quán trong sản xuất, sinh
hoạt, trong phong tục, nghi lễ, trong hành vi đạo đức, pháp luật.
Trong thói quen ngôn ngữ Việt Nam hiện nay đều dùng cả hai từ lối
2
- Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Software
http://www.foxitsoftware.com For evaluation only.
Xaõ hoäi hoïc loái soáng Haø Vaên
Taùc
sống và nếp sống một cách lẫn lộn không phân biệt nghĩa. Nhưng
nhìn chung đều được hiểu theo nghĩa lối sống.
- Điểm khác rất căn bản giữa lối sống và nếp sống mà trong
nhiều trường hợp buộc phải dùng một cách chính xác là lối sống nói
lên tính định hướng, định tính, chỉ ra phương hướng chính trị và tư
tưởng của vấn đề, còn nếp sống nói lên tính định hình, định lượng.
- Cách sống có nghĩa hẹp và cụ thể. Đó là kiểu sống cụ thể theo
cá tính và thị hiếu của cá nhân hoặc theo một điều kiện qui định cụ
thể nào đó của một môi trường nhỏ. Chẳng hạn, nói cách sống của
một gia đình, cách sống người già, cách sống người độc thân, cách
sống của một nghệ sĩ. Tuy nhiên cách sống được đánh giá trên cơ
sở một lối sống, nếp sống nào đó. [Trần Độ.1984.7]
1.3. Nội dung và mối quan hệ của các khái niệm số lượng, chất
lượng của lối sống, mức sống và chất lượng sống.
- Chất lượng lối sống phản ánh trình độ tự do mà con người đạt
được trong khi họ hành động.
Mặt chất lượng của lối sống được thể hiện qua các chỉ dẫn về số
lượng trong các lĩnh vực hoạt động : lao động sản xuất; phúc lợi, tiêu
dùng, sinh hoạt hàng ngày; giáo dục văn hóa; sức khỏe dân cư; hoạt
động chính trị xã hội.v.v. Hệ thống các chỉ tiêu số lượng của lối sống
là một hệ thống mở, nó phát triển tùy trình độ từng nước, từng giai
đoạn cụ thể.
Hệ thống các chỉ tiêu số lượng này biểu thị mức sống của con
người. Do đó không thể tách rời mức sống với lối sống. Mức sống
trong chừng mực nhất định có ảnh hưởng quyết định đến lối sống.
- Khái niệm chất lượng sống chỉ dùng trong xã hội học tư bản.
Khái niệm này không phản ánh đúng nội dung khoa học cần biểu đạt.
Trong xã hội học Mác xít không dùng khái niệm chất lượng sống mà
chỉ dùng khái niệm chất lượng của lối sống.
1.4. Phân loại lối sống
Lối sống được phân loại theo các tiêu chí khách quan :
3
- Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Software
http://www.foxitsoftware.com For evaluation only.
Xaõ hoäi hoïc loái soáng Haø Vaên
Taùc
- Theo hình thái kinh tế – xã hội:lối sống phong kiến, lối sống
TBCN, lối sống XHCN…
- Theo giai cấp : lối sống tư sản, tiểu tư sản, nông dân, công
nhân, trí thức…
- Theo trình độ chuyên môn: lối sống người lao động giản đơn,
lối sống người lao động phức tạp, lối sống công nhân có tay nghề
bậc cao…
- Theo lứa tuổi, giới tính: lối sống thanh niên; lối sống người về
hưu, lối sống phụ nữ…
- Theo lãnh thổ: lối sống nông thôn, lối sống đô thị, lối sống đồng
bằng, lối sống miền núi.
- Theo tiêu chí dân tộc: lối sống người Kinh, người Tày, người
Khmer…
- Theo tiêu chí quản lý: lối sống những người thực hiện chức
năng quản lý và lối sống cộng đồng những người thừa hành.
- Theo tiêu chí đoàn thể: lối sống đảng viên và người ngoài
đảng, lối sống đoàn viên thanh niên cộng sản…
- Theo tiêu chí sức khỏe: lối sống nhóm người tàn tật, lối sống
nhóm người khỏe mạnh.
- Theo tiêu chí sự phát triển và lĩnh vực sản xuất: lối sống nông
nghiệp và lối sống công nghiệp…
Việc phân loại lối sống có ý nghĩa cần thiết là giúp lãnh đạo quản
lý có cơ sở đi sâu phân tích đặc điểm từng đối tượng từng nhóm xã
hội để xác định phương thức cụ thể xây dựng lối sống mới cho phù
hợp.
2. ĐỐI TƯỢNG, CHỨC NĂNG VÀ NHIỆM VỤ CỦA XÃ HỘI HỌC LỐI SỐNG.
2.1. Đối tượng của xã hội học lối sống.
- Khách thể nghiên cứu của xã hội học lối sống là các nhóm xã
hội.
- Đối tượng nghiên cứu của xã hội học lối sống là những nét căn
bản đặc trưng cho hoạt động của các nhóm xã hội trong những điều
4
- Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Software
http://www.foxitsoftware.com For evaluation only.
Xaõ hoäi hoïc loái soáng Haø Vaên
Taùc
kiện xã hội cụ thể. Nó tìm hiểu những yếu tố tác động đến sự biến
đổi và qui luật phát triển của lối sống.
- Khác với chủ nghĩa xã hội khoa học, xã hội học lối sống không
chỉ nghiên cứu những đặc điểm chung về lối sống của các nhóm lớn
mà còn làm sáng tỏ lối sống đặc thù của từng nhóm nhỏ.
2.2. Chức năng và nhiệm vụ của xã hội học lối sống.
Với tư cách là chuyên ngành xã hội học, xã hội học lối sống cũng
thực hiện các chức năng của xã hội học như : chức năng nhận thức,
chức năng thực tiễn trong điều hành quản lý xã hội, chức năng dự
đoán, dự báo về sự phát triển của lối sống, chức năng tư tưởng.V.V.
Thứ nhất, xã hội học lối sống cung cấp những tri thức cần thiết
để hiểu biết thực trạng của lối sống một nhóm xã hội hay cả một xã
xã hội cụ thể. Nó tái tạo lại bức tranh hiện thức sinh động để làm cho
những ai quan tâm đến lối sống có được cách nhìn nhận đúng bản
chất của lối sống một nhóm hay toàn bộ xã hội. Và qua đó nó thực
hiện chức năng nhận thức. Nhiệm vụ lý luận của xã hội học lối sống
thể hiện ra ở chỗ nó cung cấp những tri thức lý thuyết về xã hội học
lối sống, trên cơ sở đó định hình một hệ thống tri thức khoa học về
lĩnh vực này. Xã hội học lối sống phải đưa ra một hệ thống khái niệm,
phạm trù để nghiên cứu những khía cạnh khác nhau của lối sống.
Thứ hai, khi triển khai khảo sát nghiên cứu xã hội học về những
khía cạnh của lối sống, xã hội học lối sống sẽ cung cấp và làm giàu
hệ thống tri thức về lối sống nói chung, bổ sung vào kho tàng nhận
thức về một hiện tượng đặc thù của thế giới khách quan. Các nghiên
cứu cụ thể của xã hội học lối sống sẽ đem lại những cách nhìn khoa
học về cơ chế vận hành, cách thức biến đổi của lối sống từng nhóm
xã hội. Những nghiên cứu này sẽ đem lại những thông tin cho công
tác quản lý, điều hành xã hội. Những thông tin, những đề xuất và
kiến nghị cụ thể của các cuộc nghiên cứu về lối sống sẽ đem lại đóng
góp nhất định cho việc tạo cơ sở để đề ra các chính sách đúng hợp
quy luật tác động định hướng, hình thành lối sống mới tiến bộ.
Thứ ba, mục tiêu chung của mọi nghiên cứu xã hội học về lối
sống là đều thống nhất ở chỗ, bằng những số liệu, thông tin thu thập
5
- Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Software
http://www.foxitsoftware.com For evaluation only.
Xaõ hoäi hoïc loái soáng Haø Vaên
Taùc
một cách khoa học, các nhà nghiên cứu xã hội học có những khuyến
nghị về phương pháp, giải pháp nhằm cải tạo và thay những mục
tiêu kinh tế – xã hội để nâng cao chất lượng lối sống vì hạnh phúc cá
nhân và sự phát triển xã hội.
Nhiệm vụ thực tiễn của xã hội học lối sống là nghiên cứu để giải
thích những hiện tượng mới nảy sinh về lối sống trong tiến trình đổi
mới của đất nước. Nhiệm vụ này được thực hiện trong các nghiên
cứu xã hội học thực nghiệm. Nhiệm vụ lý luận của xã hội học lối sống
được thể hiện ở chỗ, xây dựng được hệ thống các khái niệm, phạm
trù để từ đó xây dựng một lý thuyết xã hội học về lối sống, đáp ứng
được sự phát triển của lý luận xã hội học ở Việt Nam hiện nay. Mặt
khác, nó cần phải đưa ra được những dữ liệu để cho phép trên cơ
sở đó hoạch định được chính sách phát triển lối sống văn hóa trong
thời kỳ công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước hiện nay, chỉ ra
những xu thế tất yếu của việc hình thành lối sống mới – lối sống xã
hội chủ nghĩa- một lối sống tiên tiến và đậm đà bản sắc truyền thống
dân tộc, để Việt Nam vừa hội nhập tốt vừa giữ được độc lập, ổn định
và phát triển.
3. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU CỦA XÃ HỘI HỌC LỐI SỐNG.
3.1. Về phương pháp luận :
Xã hội học lối sống cần vận dụng triệt để quan niệm duy vật về
lịch sử của chủ nghĩa Mác – Lênin. Sử dụng phương pháp biện
chứng duy vật cho phép đem lại cách nhìn nhận toàn diện, khách
quan, cụ thể về những hiện tượng và các quá trình xã hội. Quan
niệm duy vật lịch sử là cơ sở phương pháp luận cho nghiên cứu xã
hội học thực nghiệm. Bởi lẽ, muốn hay không, để nghiên cứu xã hội
học thành công thì nghiên cứu đó phải luôn xuất phát từ tiền đề thực
tiễn : con người hiện thực, hoạt động hiện thực của có người và
những điều kiện sống và hoạt động của họ.
Vì vậy, nghiên cứu lối sống là nghiên cứu hoạt động của con
người trong mối quan hệ với điều kiện sống.
6
- Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Software
http://www.foxitsoftware.com For evaluation only.
Xaõ hoäi hoïc loái soáng Haø Vaên
Taùc
3.2. Một số cách tiếp cận trong nghiên cứu xã hội học lối
sống.
- Cách tiếp cận hệ thống.
Nghĩa là xem xét lối sống như một chỉnh thể, là tổng thể của
các thành tố có quan hệ với nhau và đối với môi trường. Đặc trưng
của cách tiếp cận này thể hiện ra ở chỗ, nó cho phép xem xét cơ cấu
của lối sống và cơ cấu của những điều kiện lối sống. Vì thế, khi tiến
hành nghiên cứu xã hội học lối sống cho phép xem xét toàn diện,
khách quan cụ thể các mối quan hệ giữa các loại hoạt động với các
điều kiện của hoạt động, giữa các cá nhân, các nhóm, cộng đồng với
nhau trong quá trình hình thành biến đổi phát triển một lối sống.
- Cách tiếp cận lịch sử – cụ thể.
Theo cách tiếp cận này, nó cho phép nghiên cứu các hiện
tượng, quá trình xã hội, các qui luật xã hội và sự ảnh hưởng của nó
đối với những hoạt động tương tác của các chủ thể hoạt động trong
những nhóm xã hội nhất định trong những điều kiện kinh tế và xã hội
nhất định. Nó cho phép nghiên cứu những yếu tố truyền thống còn
đang chi phối các hành động của cá nhân, nhóm, cộng đồng xã hội
trong quá trình hoạt động sống chung của các chủ thể hành động
này.
- Cách tiếp cận cấu trúc – chức năng.
Cách tiếp cận này xuất phát từ quan niệm cho rằng bất kỳ hệ
thống hành động nào đều có những nét nổi bật chung nhằm hoạt
động thành công và những điều kiện tiên quyết phải được thực thi.
Để nghiên cứu một hệ thống, cần miêu tả những cấu trúc đặc trưng
và chức năng của hệ thống rồi nghiên cứu xem trạng thái ổn định
của hệ thống trong quá trình tương tác giữa hai hoặc nhiều chủ thể
hành động được hình thành và duy trì thế nào. Talcott Parsons –
người khởi xướng thuyết cấu trúc chức năng cho rằng, có 4 chức
năng thể hiện ra cho mỗi hệ thống (theo sơ đồ A G I L) : Phù hợp
(Adaptation); Đạt mục đích (Goal attainment); Hòa nhập (Integration);
Bảo toàn cấu trúc (Latency). Với cách tiếp cận này, cho phép xem
xét quá trình hình thành lối sống như là một quá trình xã hội hóa
7
- Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Software
http://www.foxitsoftware.com For evaluation only.
Xaõ hoäi hoïc loái soáng Haø Vaên
Taùc
trong gia đình, trong cộng đồng thân tộc, trong cộng đồng xã hội,
trong tập thể lao động…
- Ngoài ra người ta có thể tiếp cận theo giới tính, lứa tuổi, dân
tộc, vùng, miền, cộng đồng lãnh thổ…
3.3. Hệ phương pháp nghiên cứu xã hội học lối sống.
- Phương pháp thực nghiệm.
Ở đây người ta chọn ra một đối tượng nghiên cứu nhất định với
những điều kiện đặt ra để tiến hành tác động thực nghiệm. Nhà
nghiên cứu xây dựng chương trình nghiên cứu, tìm những điều kiện
nhất định để khống chế những tác động ngẫu nhiên trong phạm vi
nghiên cứu của mình; sử dụng những tác động đã dự định, sau đó
quan sát, ghi chép và phân tích những biến động nảy sinh trong quá
trình nghiên cứu, chỉ ra những nguyên nhân và những qui luật nảy
sinh những biến đổi đó.
Đây là phương pháp quan trọng để người nghiên cứu chủ động
tìm tòi những qui luật biến đổi xã hội một cách khách quan. Tuy nhiên
nó rất khó thực hiện bởi vì nó đòi hỏi thời gan, công sức. Hơn nữa
con người hoạt động không giống như những chất liệu tự nhiên nên
trong quá trình thực nghiệm sẽ có nảy sinh những biến cố ngoài dự
định. Vì thế ít được sử dụng trong thực tế.
- Phương pháp lịch sử.
Nhờ phương pháp này người ta có thể khảo cứu sự hình thành
và phát triển lối sống trong tiến trình lịch sử của nó. Vận dụng
phương pháp này bằng cách phân tích tài liệu để tái dựng lại bức
tranh về hoàn cảnh điều kiện kinh tế xã hội để xác định nghĩa gốc ra
đời cũng như diễn biến và trình tự phát triển của lối sống, điều kiện
lịch sử làm cho cơ cấu các mặt bên trong của lối sống bị thay đổi.
- Phương pháp thống kê xã hội học.
Hiện nay, những phương pháp xử lý thông tin xã hội học theo
cách thức xử lý thống kê được các nhà lập trình tin học chương trình
hóa thành chương trình xử lý chung cho các khoa học xã hội (SPSS
+ version 6.0). Chương trình đó là một công cụ hữu hiệu để xử lý và
thu được những thông tin định lượng của một cuộc nghiên cứu xã
8
- Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Software
http://www.foxitsoftware.com For evaluation only.
Xaõ hoäi hoïc loái soáng Haø Vaên
Taùc
hội học. Để sử dụng được chương trình này, các nhà nghiên cứu,
các tác giả xã hội học không những cần có sự hiểu biết và cách sử
dụng chương trình, mà còn phải hiểu cách xác lập những mối quan
hệ, các tương quan giữa những biến cố được quan sát trong khảo
sát nghiên cứu xã hội học nói chung và nghiên cứu xã hội học lối
sống nói riêng.
- Phương pháp chọn mẫu trong nghiên cứu xã hội học lối sống.
Để có mẫu mang tính đại diện cao, cần phải có phương pháp
chọn mẫu đúng, tùy theo đối tượng. Các cách chọn mẫu thường
dùng : chọn mẫu ngẫu nhiên thuần túy; chọn mẫu khoảng cách (ngẫu
nhiên cơ học); chọn mẫu tỷ lệ, chọn mẫu phân tầng…
3.4. Hệ phương pháp thu thập thông tin xã hội học trong
nghiên cứu xã hội học lối sống.
- Phương pháp phân tích tài liệu.
- Phương pháp quan sát.
- Phương pháp phỏng vấn (Phỏng vấn bảng hỏi và phỏng vấn
sâu).
- Phương pháp trưng cầu ý kiến bằng bản anklet.
3.5. Các bước tiến hành nghiên cứu xã hội học lối sống.
Bước 1. Chọn đề tài nghiên cứu.
Bước 2. Tổng quan về vấn đề nghiên cứu.
Bước 3. Lập giả thuyết nghiên cứu.
Bước 4. Thao tác hóa khái niệm.
Bước 5. Lựa chọn và xây dựng các phương pháp thích hợp để
triển khai nghiên cứu.
Bước 6. Lập bảng hỏi.
Bước 7. Chuẩn bị địa bàn nghiên cứu, chọn mẫu nghiên cứu và
điều tra thử.
Bước 8. Tập huấn điều tra viên.
Bước 9. Triển khai nghiên cứu tổng thể theo mẫu để thu thập
thông tin.
Bước 10. Xử lý, phân tích thông tin.
9
- Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Software
http://www.foxitsoftware.com For evaluation only.
Xaõ hoäi hoïc loái soáng Haø Vaên
Taùc
Bước 11. Viết báo cáo về kết quả nghiên cứu.
Chương 2:
CƠ CẤU LỐI SỐNG
VÀ CỦA NHỮNG ĐIỀU KIỆN SỐNG
1.CƠ CẤU CỦA LỐI SỐNG.
1.Cơ cấu lôi sống là gì ?
Lối sống, là sự phản xạ động có mục đích và tích cực của hệ
thống xã hội. Nó là sự tái hiện trở lại của hiện thực xã hội ở cấp độ
cá nhân. Vì vậy cơ cấu của lối sống về căn bản là có sự tương đồng
với cơ cấu xã hội. Cơ cấu của lối sống là một hệ thống những yếu tố,
thành phần và những mối quan hệ cơ bản cấu tạo nên lối sống, qui
định chất của lối sống. Thành phần cơ bản của lối sống là các loại,
kiểu, biến dạng hoạt động sống của con người (trả lời câu hỏi con
người làm gì) và các yếu tố thuộc mặt khách quan, chủ quan của
hành động con người (trả lời câu hỏi con người làm như thế nào).
1.2. Nội dung cơ cấu lối sống
1.2.1. Các loại hoạt động cơ bản qui định chất lối sống. (Các chỉ
số phản ánh con người làm gì).
10
- Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Software
http://www.foxitsoftware.com For evaluation only.
Xaõ hoäi hoïc loái soáng Haø Vaên
Taùc
Xét những hoạt động sống cơ bản của con người và xã hội với
tư cách một tổng thể và xét theo chỗ con người ta làm cái gì, thì hoạt
động sống có thể được chia thành các loại, kiểu và biến dạng khác
nhau. Những loại hoạt động cơ bản cũng sẽ là những thành phần cơ
bản của lối sống xét theo tính chất các loại khác nhau của hoạt động
nhằm thỏa mãn những nhu cầu tương ứng. Thường người ta chia
các hoạt động của con người thành các loại cơ bản sau đây [V.Đô-
bơ-ri-a-nốp.1985.218] :
1. Hoạt động sản xuất vật chất (lao động).
2. Hoạt động chính trị – xã hội.
3. Hoạt động văn hóa.
4. Hoạt động tái sinh sản.
5. Hoạt động giao tiếp.
Trong mỗi loại hoạt động cơ bản đó, đều có thể đưa ra những
dấu hiệu xác định những chỉ số nhờ đó mà người ta đưa vào thực
nghiệm những khái niệm về các hoạt động cơ bản cần nghiên cứu.
Chẳng hạn như trong hoạt động sản xuất vật chất có thể được
cụ thể hóa thông qua việc phân loại các kiểu và các biến dạng hoạt
động của con người và tần số của từng loại hoạt động riêng biệt như:
nông nghiệp, công nghiệp …
Hoạt động chính trị - xã hội được cụ thể hóa thông qua những
khái niệm về thành phần chính trị, về sự tham gia vào hoạt động của
những cơ quan nhà nước và những tổ chức xã hội khác nhau.
Hoạt động văn hóa được bao gồm bởi những khái niệm về sự
tham gia vào những hình thức hoạt động văn hóa khác nhau như :
khoa học, giáo dục, nghệ thuật v.v..
Hoạt động tái sinh sản được cụ thể hóa trong những hoạt động
nhằm tái sản xuất ra mức sống của cá nhân như : nhà ở, thức ăn và
quần áo, y tế và sức khỏe, hoạt động thể dục thể thao và nghỉ ngơi;
cũng như trong như4ng hoạt động nhằm tái sản xuất ra dân cư và xã
hội hóa dân cư như : chăm sóc và giáo dục trẻ em, dạy nghề, các
hoạt động nghi lễ v.V.
11
- Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Software
http://www.foxitsoftware.com For evaluation only.
Xaõ hoäi hoïc loái soáng Haø Vaên
Taùc
Hoạt động giao tiếp thể hiện trong những hoạt động trao đổi
thông tin, tình cảm như : thăm hỏi, tiếp xúc bạn bè, đọc sách báo,
tham gia câu lạc bộ tâm lý v.V..
Mỗi chỉ số trong vô số những chỉ số khái niệm cụ thể hóa những
loại hoạt động cơ bản đều có thể được đưa vào thực nghiệm và
được đo lường thông qua việc xác định xem cá nhân tham gia nhiều
ít thế nào vào các hoạt động khác nhau và cũng có thể xác định xem
chi phí thời gian bao nhiêu, hoặc thông qua việc ấn định tần số của
từng hoạt động riêng biệt (thông qua phương pháp nghiên cứu quĩ
thời gian).
Mỗi loại, mỗi kiểu và mỗi biến dạng hoạt động được xếp trong
quĩ thời gian của từng người, có thể được nhận biết như hoạt động
trong thời gian làm việc (sản xuất), trong thời gian hoạt động sinh
hoạt gia đình, trong thời gian hoạt động văn hóa (giáo dục, hoạt động
xã hội, hoạt động thể dục thể thao, sức khỏe, v.v…), trong thời gian
làm thỏa mãn những nhu cầu sinh lý (ngủ, vệ sinh, v.v…), trong thời
gian tự do (vui chơi giải trí…).
Những chỉ số khái niệm trên đây trả lời câu hỏi người ta làm cái
gì. Nó là một phần quan trọng nói lên chất lối sống. Mặt khác không
kém phần quan trọng và cũng rất khó khăn là việc đưa ra những chỉ
số khái niệm để trả lời câu hỏi con người hoạt động như thế nào. Đây
cũng là những chỉ số phản ánh chất của lối sống.
1.2.2. Mặt khách quan và chủ quan trong hoạt động con người quy
định chất lối sống. (Các chỉ số phản ánh con người hoạt động như
thế nào) .
Những chỉ số trả lời cho câu hỏi : con người hoạt động như thế
nào được thể hiện thông qua hệ thống những chỉ số khái niệm phản
ánh mặt khách quan và mặt chủ quan của hoạt động con người.
Theo V.Đô-bơ-ri-a-nốp, hệ thống những chỉ số khách quan về
chất của hoạt động có thể có các kiểu :
- Nội dung phong phú về khoa học – kỹ thuật của hoạt động;
- Giáo dục và chuyên môn hóa;
12
- Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Software
http://www.foxitsoftware.com For evaluation only.
Xaõ hoäi hoïc loái soáng Haø Vaên
Taùc
- Cấp độ tôn ti trật tự của hoạt động;
- Tỷ lệ của mỗi hoạt động trong toàn bộ quĩ thời gian của cá
nhân;
- Sự thù lao với tư cách là sự công nhân của xã hội thể hiện
bằng vật chất;
- Sự công nhận về mặt xã hội dưới hình thức kích thích về mặt
tinh thần.
Trong hệ thống những chỉ số chủ quan về chất của hoạt động,
thì có những cái có ý nghĩa căn bản là :
- Mức độ thỏa mãn về mặt tinh thần do hoạt động;
- Động cơ của hoạt động;
- Đánh giá chủ quan của cá nhân về chất lượng của hoạt động;
- Dư luận xã hội về chất lượng của hoạt động.
Trên đây là những chỉ số về các loại, các kiểu các biến dạng
hoạt động và những chỉ số về chất lượng của hoạt động. Sự kết hợp
giữa các chỉ số đó sẽ mở ra một phạm vi rộng lớn cho việc đo lường
và đánh giá lối sống.
2. CƠ CẤU CỦA NHỮNG ĐIỀU KIỆN SỐNG.
2.1. Tại sao phải tìm hiểu cơ cấu những điều kiện sống ?
Hệ thống những điều kiện xã hội và tự nhiên của hoạt động sống
không được xếp vào khái niệm lối sống, nhưng không nghiên cứu
chúng thì không thể hiểu được và cũng chẳng quản lý được một
cách có mục đích sự phát triển của lối sống trong một xã hội nhất
định.
2.2. Nội dung của cơ cấu những điều kiện sống.
Trong chương trình của một cuộc nghiên cứu xã hội học về lối
sống, người ta luôn phải đi tìm hai loại chỉ số có liên quan lẫn nhau.
Thứ nhất, đó là những chỉ số nói lên rằng lối sống đó là lối sống gì và
thứ hai, đó là những chỉ số nói lên rằng lối sống đó bị chi phối bởi cái
gì. Một cách khái quát, ta có thể chia các điều kiện sống thành điều
kiện xã hội và điều kiện tự nhiên.
13
- Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Software
http://www.foxitsoftware.com For evaluation only.
Xaõ hoäi hoïc loái soáng Haø Vaên
Taùc
2.2.1 Những điều kiện xã hội của đời sống là một hệ thống có thể
được chia ra trên cơ sở những tiêu chuẩn như sau :
- Theo tính chất của hoạt động, lối sống phụ thuộc vào :
+ Hoạt động sản xuất vật chất;
+ Hoạt động nhằm sản xuất các giá trị tinh thần;
+ Hoạt động nhằm tái sinh sản xã hội sinh học;
+ Hoạt động quản lý;
+ Hoạt động giao tiếp.
- Theo những chủ thể xã hội, lối sống phụ thuộc vào :
+ Cá nhân (những đặc tính xã hội và tâm sinh lý);
+ Nhóm nhỏ;
+ Thành phần giai cấp;
+ Nhóm chủng tộc;
+ Nguồn gốc quốc gia;
+ Nguồn gốc dân tộc.
- Theo những quan hệ và thiết chế xã hội, lối sống phụ thuộc vào
:
+ Những quan hệ kinh tế (quan hệ sản xuất, trao đổi, phân
phối và tiêu dùng phúc lợi vật chất) và những thiết chế tương ứng;
+ Những quan hệ và thiết chế chính trị – xã hội;
+ Những quan hệ tinh thần và những thiết chế văn hóa
tương ứng;
+ Những quan hệ quốc tế và thiết chế tương ứng.
- Theo tính chất của những quá trình xã hội, lối sống phụ thuộc
vào những quá trình :
+ Phát triển hoặc ngừng trệ;
+ Liên kết hoặc phân hóa;
+ Đoàn kết hoăc chia rẽ.
Tất cả những điều kiện xã hội của đời sống cần được xem xét ở
cấp độ vĩ mô, cấp độ trung gian và cấp độ vi mô.
2.2.2. Những điều kiện tự nhiên của đời sống là :
- Đất đai;
14
- Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Software
http://www.foxitsoftware.com For evaluation only.
Xaõ hoäi hoïc loái soáng Haø Vaên
Taùc
- Khí hậu;
- Địa hình;
- Thực vật;
- Động vật;
- Nguồn năng lượng.
Lưu ý, trên đây ta phân chia ra các loại chỉ số về lối sống (các
loại hoạt động) và các loại chỉ số về nhân tố tác động đến lối sống
(các điều kiện xã hội và tự nhiên) đó là việc làm có tính nguyên tắc
về mặt lý luận và thực tiễn.
Tuy nhiên, trong nghiên cứu ở kiểu cụ thể nhất (ở cấp độ địa
phương) thì những nhân tố chế định kiểu cụ thể của đời sống dường
như được “hòa nhập” vào lối sống; những chỉ số về các nhân tố
được “chuyển hóa” thành những chỉ số về lối sống, và đặc biệt là về
khía cạnh chất của lối sống. Chẳng hạn, những chỉ số về trang bị
khoa học – kỹ thuật cho lao động thể hiện khía cạnh chất của lối
sống và cũng có thể đồng nhất với những chỉ số về các điều kiện vật
chất, kỹ thuật của lao động. Những chỉ số về tính chất chuyên môn
hóa của hoạt động trùng với những chỉ số về sức lao động .V.V..
Hiện tượng có vẻ trùng khớp “giữa những chỉ số về khía cạnh
chất của hoạt động và những điều kiện của hoạt động nó phản ánh
tính biện chứng sinh động của quá trình tác động lẫn nhau giữa
chúng. Đó là quá trình mà các điều kiện tác động với hoạt động sống
của con người nhưng mặt khác chúng lại cũng có thể là đặc tính của
hoạt động đó.
Nhưng không phải vì thế mà nhập cục các điều kiện sống với
hoạt động sống làm một trong quá trình nghiên cứu lối sống.
15
- Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Software
http://www.foxitsoftware.com For evaluation only.
Xaõ hoäi hoïc loái soáng Haø Vaên
Taùc
Sơ đồ tóm tắt về cơ cấu của việc nghiên cứu xã hội học về lối
sống [V.Đô-bơ-ri-a-nốp.1985.224]:
Nước (khu vực)
Chỉ số về các kiểu và Các biến
Biến dạng hoạt động thể xã hội
Các giai khác:
cấp và -gia đình
nhóm xã -tuổi tác
hội -học vấn
-nghề
Chỉ số về các Chỉ số về chất
nghiệp
nhân tố thuộc về lượng của hoạt -đảng
phái
điều kiện hoạt động.
động.
Các tộc người
16
- Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Software
http://www.foxitsoftware.com For evaluation only.
Xaõ hoäi hoïc loái soáng Haø Vaên
Taùc
Chương 3 :
QUI LUẬT CỦA SỰ HÌNH THÀNH LỐI SỐNG.
Để xây dựng một lối sống, cần thiết phải hiểu các qui luật của
nó. Có thể đề cập đến vấn đề này bằng cách nói đến những cơ sở
kinh tế, cơ sở chính trị, sự tác động của văn hóa, đến sự tác động
qua lại giữa tính quyết định của xã hội và tính tích cực của cá nhân.
Ở đây, chúng ta đề cập đến vấn đề này dưới dạng những mối
quan hệ có tính tính tất yếu trong quá trình hình thành lối sống. [Trần
Độ.1954.11]
1.MỐI QUAN HỆ GIỮA YẾU TỐ VẬT CHẤT VÀ YẾU TỐ TINH THẦN TRONG
LỐI SỐNG.
Đời sống con người luôn tồn tại hai mặt cơ bản : vật chất và tinh
thần. Hai mặt này cũng tồn tại thống nhất và đều có quan hệ với
nhau, hoặc chi phối nhau, hạn chế nhau, hoặc chứa đựng nhau hoặc
thâm nhập nhau.
Mối quan hệ giữa vật chất và tinh thần là mối quan hệ biện
chứng, năng động, phong phú và phức tạp. Vì vậy khi xem xét qui
luật hình thành phát triển lối sống cần chống hai khuynh hướng cực
đoan. Một là, khuynh hướng khẳng định rằng không có điều kiện vật
chất tốt thì không thể xây dựng lối sống đẹp được. Đây là khuynh
hướng duy vật máy móc, tầm thường. Hai là, khuynh hướng cho
rằng hễ cứ có giáo dục tư tưởng đúng thì bất cứ hoàn cảnh vật chất
thế nào cũng có lối sống đẹp được. Đây là khuynh hướng duy tâm.
Mối quan hệ giữa yếu tố vật chất và yếu tố tinh thần trong cuộc
sống có ở nhiều qui mô và tính chất rất khác nhau, từ qui mô lớn
nhất bao gồm toàn bộ cuộc sống một xã hội đến qui mô nhỏ nhất
trong từng hành vi sống hàng ngày của mỗi con người. Trong phạm
vi toàn xã hội, đó là quan hệ giữa phương thức sản xuất và lối sống
(quan hệ giữa cơ sở kinh tế và lối sống). Trong phạm vi hẹp hơn là
quan hệ giữa mức sống vật chất và lối sống, trong phạm vi cụ thể
17
- Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Software
http://www.foxitsoftware.com For evaluation only.
Xaõ hoäi hoïc loái soáng Haø Vaên
Taùc
hơn nữa là những điều kiện vật chất cụ thể của cuộc sống như nhà
ở, quần áo, tiện nghi, đồ dùng, khả năng mức độ ăn uống.V.V…
Chẳng hạn, để có một điểm tốt trong lối sống là ăn ở trật tự, vệ
sinh, sạch đẹp thì nhất thiết phải có một diện tích ở tối thiểu hợp lý,
phải có điều kiện tối thiểu hợp lý về nguồn nước, ánh sáng…Nếu
thiếu những điều kiện vật chất tối thiểu hợp lý đó mà cứ hô hào
suông phải ăn ở cho trật tự vệ sinh, sạch đẹp là điều khó thực hiện
được.
Nhưng ngược lại cũng trong một điều kiện vật chất tương tự như
nhau nhưng có gia đình có một cách sống hòa thuận êm ấm, ai cũng
cảm thấy hạnh phúc, lại có gia đình mà mỗi thành viên sống trong đó
luôn thấy nghẹt thở chẳng khác nào sống trong địa ngục.
Cũng không ít những trường hợp điều kiện vật chất rất giàu có
sang trọng, lộng lẫy nhưng tình người nhạt nhẽo, sống gò bó đơn
điệu về tinh thần. Ngược lại nơi khác tuy chật chội nghèo nàn của cải
nhưng vẫn tạo được một bầu không khí cuộc sống thấm đượm tình
người.
Tính qui luật này, cho thấy khi xây dựng lối sống phải quan tâm
đến các cơ sở vật chất tối thiểu hợp lý, đồng thời phải quan tâm nêu
lên các chuẩn mực chung, định hướng giá trị tinh thần để làm căn cứ
mà đánh giá trình độ lối sống từng cá nhân trong các mối quan hệ
sống, hoặc trình độ nếp sống của từng tập thể lớn nhỏ. Chuẩn mực
là những nội dung tinh thần hết sức quan trọng.
2. MỐI QUAN HỆ GIỮA TÍNH PHỔ QUÁT VÀ TÍNH DÂN TỘC.
Trong quá trình hình thành phát triển của mình, lối sống vừa
mang tính phổ quát vừa mang tính dân tộc.
Lối sống là tổng thể của những nét đặc trưng nhất trong hoạt
động của con người gắn với điều kiện xã hội, tự nhiên cụ thể. Mà
hoạt động con người bao giờ cũng xuất phát từ những nhu cầu.
Những nhu cầu này của mỗi người, mỗi giai cấp tập đoàn rất phong
phú đa dạng. Tuy nhiên, xét chung trên toàn nhân loại thì có nhiều
nhu cầu có tính tất yếu giống nhau bởi tất cả đều phải sống và do đó
phải có một số hành vi ứng xử trong cuộc sống như nhau. Chẳng
18
- Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Software
http://www.foxitsoftware.com For evaluation only.
Xaõ hoäi hoïc loái soáng Haø Vaên
Taùc
hạn, sống phải ăn, phải mặc, quan hệ bạn bè, kết hôn, sinh đẻ, nuôi
con, phải quan hệ họ hàng xóm giềng, già, ốm đau, chết,…
Chính vì vậy từ thời nguyên thủy, không phải ngẫu nhiên mà ở
nhiều điểm trên thế giới xuất hiện những phương thức chăn nuôi
trồng trọt giống nhau, có những công cụ sản xuất tương tự, có những
phong tục tập quán trong các hành vi giống nhau.
Sự giống nhau trong nhu cầu và các loại hoạt động sống cơ bản
đã tạo ra tính phổ quát của lối sống, làm cho lối sống của các quốc
gia trên thế giới có nhiều điểm tương đồng. Tính phổ quát của lối
sống còn thể hiện ở hiện tượng lan truyền, ảnh hưởng, giao lưu các
lối sống giữa các địa phương trong một quốc gia hoặc giữa các quốc
gia với nhau một cách tự nguyện, xuất phát từ những nhu cầu văn
hoá tiến bộ.
Những lối sống bao giờ cũng thể hiện qua hoạt động sống của
con người. Nó xảy ra đối với mọi người, nó diễn ra ở mỗi dân tộc,
mỗi lớp người rất khác nhau. Sự khác nhau bị qui định bởi những
điều kiện vật chất nhất định như địa lý, khí hậu, trình độ kinh tế và
bởi những phong tục tập quán, thói quen truyền thống, trình độ kiến
thức, tinh thần. Những khác biệt đó đã làm nên tính dân tộc của lối
sống.
Thừa nhận tính qui luật của mối quan hệ giữa tính phổ quát và
tính dân tộc của lối sống cũng có nghĩa là thừa nhận sự tiếp nhân, kế
thừa những giá trị văn hoá tiến bộ bên ngoài một cách có chọn lọc, tự
nguyện, phù hợp hoàn cảnh, điều kiện cụ thể của dân tộc. Qui luật
này không đồng nghĩa với hiện tượng xâm lược của các đế quốc và
âm mưu đồng hóa văn hóa, áp đặt lối sống của nó đối với dân tộc bị
xâm lược. Trong trường hợp này phải hết sức tỉnh táo cảnh giác để
dân tộc không bị đồng hóa, mất bản sắc trong lối sống của mình.
Ngược lại, nếu bảo thủ, không khôn ngoan tìm cách tiếp thu lối sống
hiện đại thì không thể phát triển được.
3.MỐI QUAN HỆ GIỮA TÍNH KẾ THỪA VÀ TÍNH PHÁT TRIỂN.
Sự sống là liên tục. Để sống, con người luôn luôn phải hoạt
động, vì thế lối sống cũng diễn ra một cách liên tục, có sự kế thừa tất
19
- Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Software
http://www.foxitsoftware.com For evaluation only.
Xaõ hoäi hoïc loái soáng Haø Vaên
Taùc
yếu. Sự kế thừa diễn ra mạnh mẽ và chủ yếu trong các nhóm sơ cấp
như gia đình, nhóm công tác, nhóm bạn và từ đó tạo nên một sự kế
thừa trong cả một dân tộc. Trong thời đại ngày nay các phương tiện
truyền thông cũng đóng vai trò rất quan trọng đối vớ việc kế thừa
này. Tuy nhiên, gia đình có vai trò quan trọng nhất trong việc bảo
đảm tính kế thừa của lối sống. Bởi vì mỗi con người đều sinh ra và
lớn lên từ một gia đình. Những năm tháng của tuổi thơ chủ yếu sống
dựa vào những sinh hoạt trong gia đình, do đó, điều kiện vật chất và
tinh thần, lối sống của cha mẹ, của các người thân ảnh hưởng rất lớn
đến sự hình thành phát triển lối sống của họ. Nó để lại những đặc
điểm khó phai mờ trong cuộc đời của họ.
Xã hội càng ổn định thì nếp sống của gia đình cũng ổn định và
ngày càng trở nên sâu sắc. Xã hội càng phát triển mạnh ít ổn định
cũng ảnh hưởng tới các nền nếp gia đình nhưng không thể đảo lộn
hết được sự kế thừa liên tục của gia đình. Dù sao thì trong gia đình
vẫn còn có những yếu tố bền vững cố định. Một dân tộc sống trong
một thế giới xáo động, cũng bị xáo động theo, nhưng có những yếu
tố bản sắc dân tộc cũng bền vững vô cùng, đặc biệt là khi dân tộc đó
nhận thức được giá trị bản sắc của mình. Nếu để bản sắc dân tộc bị
phá vỡ thì việc khôi phục lại bản sắc đó rất khó khăn, thậm chí có khi
không thể thực hiện được. Vì thế, hiện nay, các nước đang phát triển
bị cuốn hút vào cơn lốc công nghiệp hóa, toàn cầu hóa không thể
không quan tâm đến vấn đề này. Trong điều kiện đó, việc nâng cao
đời sống vật chất và tinh thần của mỗi gia đình và xây dựng gia đình
văn hóa là hết sức quan trọng.
Tuy nhiên, để kế thừa, người ta phải ý thức được cái giá trị độc
đáo, cái bản sắc quí báu của mình để gìn giữ, tạo nguồn sống cho
quá trình phát triển, người ta phải biết được nó quan trọng, cần thiết,
tạo đà cho phát triển tương lai như thế nào. Kế thừa không phải là sự
lặp lại máy móc, giản đơn. Phải đứng trên quan điểm phát triển để
nhận thức và thực hiện sự kế thừa. Phải nắm vững bản sắc dân tộc
để định hướng cho sự phát triển. Những người hoang mang, hoảng
hốt báo động trước những hiện tượng đổi mới sẽ dễ rơi vào tình
20
nguon tai.lieu . vn