Xem mẫu

  1. HỘI THẢO KHOA HỌC “PHÁT TRIỂN XÃ HỘI HỌC CÔNG Ở VIỆT NAM” XÃ HỘI HỌC CÔNG CỘNG: MỘT HƢỚNG NGHIÊN CỨU XÃ HỘI HỌC HƠN LÀ MỘT PHƢƠNG PHÁP, HAY TẬP HỢP CÁC LÝ THUYẾT ThS. Tạ Xuân Hoài Khoa Khoa học xã hội và Nhân văn, Trƣờng Đại học Tôn Đức Thắng Email: taxuanhoai@tdt.edu.vn Tóm tắt: Bài viết này thảo luận về xã hội học công cộng, đây là một chương trình nghị sự đã và đang được tranh luận chưa hoàn thành. Các nhà xã hội học cho rằng, để xã hội học công cộng tồn tại như một chuyên ngành xã hội hội học, điều quan trọng cần phải làm rõ tính khoa học của nó với các hình thức phù hợp khoa học, cố gắng vượt qua những lợi ích của chính nó. Nội dung bài viết này dựa vào những công trình nghiên cứu của các nhà xã hội học Mỹ - Hiệp hội Xã hội học Hoa Kỳ có nhiều đóng góp cho cuộc tranh luận công khai thực sự về nội dung này – Những quan điểm về xã hội học công cộng của Ben Agger, Theda Skocpol và Michael Burawoy được sử dụng nhằm để phân tích phù hợp với bản chất của tên gọi “Xã hội học công cộng” - “Public Sociology”, cũng như sự cần thiết của hướng nghiên cứu xã hội học công cộng là một hướng nghiên cứu xã hội học hơn là một phương pháp, hay tập hợp các lý thuyết. Từ khóa: xã hội học chuyên biệt, xã hội học phê phán, xã hội học chính sách và xã hội học công cộng, công chúng. 1. Dẫn nhập Trong thập niên trƣớc, các cuộc tranh luận về xã hội học công cộng đã đƣa ra những câu hỏi liên quan đến việc bổ sung mục đích nghiên cứu của xã hội học. Xã hội học công cộng đặt ra câu hỏi về xã hội học là gì và mục tiêu nghiên cứu cần có của nó là gì (1). Thực ra, các cuộc tranh luận nhƣ vậy có một lịch sử lâu dài trong xã hội học Mỹ và trong khoa học xã hội Mỹ nói chung. Chẳng hạn, nhà sử học Mark C. Smith đã điều tra các cuộc tranh luận trƣớc đây về mục đích của khoa học xã hội trong cuốn sách khoa học xã hội của ông: “Social Science in the Crucible: The American Debate over Objectivity and Purpose, 1918 - 1941” (1994), trong khi Stephen P. Turner và Jonathan H. Turner tranh luận trong cuốn sách của họ: “The Impossible Science: An Institutional Analysis of American Sociology” (1990), cho rằng nghiên cứu xã hội học với mục đích thông qua sự phụ thuộc vào công chúng bên ngoài, đã dẫn đến sự hạn chế tiềm năng xã hội học(2). Những cuộc tranh luận về xã hội học công cộng đã và đang tạo ra những kết quả sâu sắc đối với nghiên cứu, giảng dạy và làm xã hội học, đã bắt đầu với một vài thay đổi định hƣớng lại chƣơng trình đào tạo để trong đó bao gồm các hƣớng nghiên cứu xã hội học công cộng, cũng nhƣ làm rõ hơn vai trò của xã hội học trong đời sống công cộng, trong việc cung cấp thông tin hữu ích, chính xác và khoa học nghiêm ngặt cho các nhà hoạch định chính sách và các nhà lãnh đạo cộng đồng (Burawoy, 2005). 6
  2. HỘI THẢO KHOA HỌC “PHÁT TRIỂN XÃ HỘI HỌC CÔNG Ở VIỆT NAM” Cho đến nay, chƣa có định nghĩa nào về xã hội học công cộng một cách thống nhất, mặc dù thuật ngữ xã hội học công cộng - “public sociology” - lần đầu tiên đƣợc Herbert Gans giới thiệu trong "Sociology in America: The Discipline and the Public” của ông tại Hiệp hội Xã hội học Mỹ (American Sociological Association – ASA) vào năm 1988. Diễn văn này là tập hợp các nghiên cứu của các nhà xã hội học công cộng, nhƣ nhà xã hội học David Riesman, Robert Bellah. Đến năm 2000, nhà xã hội học Ben Agger cho xuất bản công trình “Public Sociology: From Social Facts to Literary Acts”, đƣợc xem là công trình về xã hội học công cộng đầu tiên và Ben Agger gọi xã hội học công cộng là xã hội học giải quyết các vấn đề công cộng lớn của xã hội. Tuy nhiên, sau cuộc họp thƣờng niên của Hiệp hội Xã hội học Hoa Kỳ (ASA) vào năm 2004, tại đó Michael Burawoy đã đƣa ra quan điểm về xã hội học công cộng đƣợc giới thiệu trong bài diễn văn của ông, cung cấp một tóm tắt ngắn gọn về thuật ngữ xã hội học công cộng. "Phản ánh tâm thế của xã hội, xã hội học công cộng phải chỉ ra, thúc đẩy và thông báo tranh luận công khai về sự bất bình đẳng và phân biệt chủng tộc, các chế độ giới tính mới, suy thoái môi trường, trào lưu thị trường, bạo lực của chính phủ hoặc phi chính phủ”(3). M. Burawoy tin rằng thế giới cần xã hội học công cộng. M. Burawoy và những ngƣời ủng hộ xã hội học công cộng khác khuyến khích xã hội học công cộng phấn đấu mang lại những đối thoại giữa nhà xã hội học và các (loại) công chúng ngoài các viện, trƣờng đại học nghiên cứu, một sự đối thoại mà trong đó cả hai bên có thể nâng cao sự hiểu biết của mình về những vấn đề công cộng. Chúng bao gồm những cuộc tranh luận về chính sách công, hoạt động chính trị, mục đích của phong trào xã hội và các thể chế của xã hội dân sự. Nếu xã hội học công cộng đƣợc coi là "chuyển thể" trong ngành xã hội học, thì đó chính là mục tiêu khôi phục lại nguyên tắc xã hội học bằng cách vận dụng các phƣơng pháp thực nghiệm và hiểu biết lý thuyết để tìm ra những gì xã hội có thể đƣợc. Xã hội học công cộng có lẽ đƣợc hiểu rõ nhất là một hƣớng nghiên cứu xã hội học hơn là một phƣơng pháp, hay tập hợp các lý thuyết(4). Theo M. Burawoy việc xác định và làm rõ sự khác biệt của bốn loại kiến thức xã hội học: xã hội học chuyên nghiệp, xã hội học chính sách, xã hội học phê bình và xã hội học công cộng sẽ phân biệt đƣợc xã hội học công cộng nhƣ là một hƣớng nghiên cứu của xã hội học, nó rộng lớn hơn nhấn mạnh việc mở rộng thêm ranh giới chuyên ngành xã hội học. 2. Xã hội học công cộng trong nghiên cứu xã hội học Công việc của các nhà xã hội học từ cổ điển đến đƣơng đại, thƣờng chia ra làm hai lĩnh vực nghiên cứu: xã hội học ứng dụng và xã hội học hàn lâm. Xã hội học ứng dụng hay còn đƣợc gọi là xã hội học thực hành, đã đề cập đến hoạt động lao động của các nhà xã hội học can thiệp vào đối tƣợng nghiên cứu, bằng cách sử dụng kiến thức xã hội học trong một môi trƣờng cụ thể. Các nhà xã hội học ứng dụng hoạt động trong nhiều lĩnh vực nghiên cứu khác nhau, bao gồm các trƣờng đại học, chính phủ và các tổ chức tƣ nhân. Xã hội học ứng dụng sử dụng lý thuyết xã hội và các phƣơng pháp nghiên cứu xã 7
  3. HỘI THẢO KHOA HỌC “PHÁT TRIỂN XÃ HỘI HỌC CÔNG Ở VIỆT NAM” hội với mục đích “tạo ra thay đổi xã hội tích cực thông qua can thiệp tích cực” (Bruhn, 1999, 1). Cụ thể hơn, xã hội học ứng dụng có thể đƣợc xem nhƣ là phần vận dụng của lý thuyết xã hội học chuyển thể thành thực tiễn cho các đối tƣợng nghiên cứu của nó. Các nhà xã hội học ứng dụng có vai trò mô tả cách thức sử dụng kiến thức xã hội học trong việc trả lời các câu hỏi nghiên cứu, hoặc các vấn đề đƣợc xác định bởi các nhóm lợi ích cụ thể, chứ không phải để trả lời các câu hỏi của các nhà nghiên cứu (Steele và Price, 2007, 4). Nghiên cứu ứng dụng đôi khi đƣợc tiến hành trong một môi trƣờng đa lĩnh vực và phối hợp với các tổ chức khác nhau, bao gồm các dịch vụ cộng đồng, các nhóm xã hội, các tổ chức xã hội và đôi khi hợp tác với các trƣờng đại học. Xã hội học ứng dụng sử dụng kết quả nghiên cứu của mình để giúp cộng đồng giải quyết các vấn đề hàng ngày. Chẳng hạn nhƣ cải thiện trật tự cộng đồng và phòng chống tội phạm, mô tả thực trạng và cải thiện tình trạng ma túy, đánh giá nhu cầu của các khu vực nông thôn – đô thị, phát triển năng lực của hệ thống giáo dục, hoặc thúc đẩy sự phát triển tình trạng nhà ở, các nguồn lực liên quan đến mƣu sinh và mô thức sống của cộng đồng. Xã hội học hàn lâm khác với xã hội học ứng dụng, vì xã hội học hàn lâm trong đó các nhà xã hội học làm việc trong môi trƣờng học tập nhƣ trƣờng đại học với giảng dạy và định hƣớng nghiên cứu thuần túy. Mặc dù có một số nguồn gốc phổ biến, thực hành xã hội học hoàn toàn khác biệt với công việc xã hội. Hiện nay, một số lƣợng ngày càng tăng của các trƣờng đại học đang cố gắng để giảng dạy chƣơng trình đào tạo xã hội học thực tế theo cách này. Các khóa học xã hội học hàn lâm cung cấp cho sinh viên những kỹ năng để có thể làm việc hiệu quả với từng đối tƣợng nghiên cứu, cung cấp kiến thức hữu ích cho nghề nghiệp nhƣ hỗ trợ nạn nhân và phục hồi ma túy và dạy học sinh cách tích hợp kiến thức xã hội với các lĩnh vực khác mà họ có thể đi vào nhƣ liệu pháp hôn nhân và gia đình và các công việc xã hội. Nguyên tắc xã hội học là năng động và luôn thay đổi và có một lịch sử lâu dài về việc kết hợp những hiểu biết về lý thuyết mới và phƣơng pháp thực nghiệm vào các phân tích các hiện tƣợng nghiên cứu của nó(5). Thật vậy, xã hội học đã phát triển từ các quá trình nghiên cứu thích ứng với vấn đề nghiên cứu về sự thống trị và phong trào lao động; các khái niệm về lý thuyết phân tầng đã chuyển từ nghiên cứu về tính di động trong một hệ thống phân tầng của uy tín nghề nghiệp, để xem xét việc thay đổi cấu trúc bất bình đẳng xã hội, chủng tộc và giới tính; xã hội học chủng tộc đã chuyển từ các lý thuyết về đồng hóa, sang nền kinh tế chính trị, để nghiên cứu về các chủng tộc; và lý thuyết xã hội đã đƣa ra những cách giải thích căn bản về các hiện tƣợng xã hội trên đƣờng dẫn đến kiến thức xã hội hoàn toàn mở hơn. Đáp ứng khoảng cách ngày càng tăng giữa các đặc điểm xã hội học và thế giới hiện nay, đó cũng chính là thách thức của xã hội học công cộng nghiên cứu làm sao thu hút nhiều công chúng bằng nhiều phƣơng cách, thƣờng với mục tiêu trao quyền cho công chúng bị thiệt thòi (Burawoy, 2005). Bằng cách này, các nhà xã hội học Mỹ những năm gần đây đã và đang làm cho xã hội học công cộng trở thành một hƣớng nghiên cứu có thể đƣợc công nhận và hợp pháp. Theo đó, họ đã chỉ ra sự phân chia lao động xã hội học, trong đó xã hội học 8
  4. HỘI THẢO KHOA HỌC “PHÁT TRIỂN XÃ HỘI HỌC CÔNG Ở VIỆT NAM” công cộng là một phần của nghiên cứu xã hội học rộng lớn, bao gồm xã hội học chuyên biệt, xã hội học phê phán, xã hội học chính sách và xã hội học công cộng. Xã hội học chính sách Đầu tiên cần phân biệt xã hội học công cộng từ xã hội học chính sách. Xã hội học chính sách là hƣớng nghiên cứu cung cấp các giải pháp cho các vấn đề xã hội và mục tiêu thƣờng đƣợc xác định bởi một đối tƣợng nghiên cứu, có thể là chính phủ hay các tổ chức xã hội. Xã hội học chính sách cung cấp kiến thức, công cụ có thể đƣợc sử dụng để giải quyết hoặc giúp đỡ một trƣờng hợp cụ thể trong lĩnh vực nghiên cứu của xã hội. Một số đối tƣợng nghiên cứu đƣợc xác định là nhiệm vụ của các nhà xã hội học chính sách với mức độ cá nhân, tổ chức..., bên cạnh đó cũng có thể là các đối tƣợng nghiên cứu khác ở cấp độ rộng lớn hơn, nhƣ các chƣơng trình nghị sự, chính sách xã hội, tổ chức cộng đồng... Thƣờng xã hội học chính sách tập trung nghiên cứu về các dịch vụ quan trọng đối với cộng đồng, nghèo đói, phát triển cộng đồng hoặc có thể cung cấp một chƣơng trình nghiên cứu rộng hơn ở cấp độ quốc gia, quốc tế. Thông tin thu thập đƣợc từ xã hội học chính sách mở ra cho một đối tƣợng nghiên cứu khác ngoài học thuật. Nó không chỉ giới hạn trong ranh giới học thuật. Những phát hiện của nghiên cứu xã hội học chính sách có thể ảnh hƣởng đến công chúng, vì chúng có thể ảnh hƣởng đến chính sách của chính phủ, hay chính sách của một tổ chức xã hội. Trong những năm gần đây, xã hội học chính sách đƣợc xem nhƣ là một phƣơng pháp nghiên cứu phổ biến để phân tích các chính sách về giáo dục, kinh tế, chính trị… Chính công việc nghiên cứu của các nhà xã hội học chính sách nhƣ vậy, nên đôi khi nó còn đƣợc gọi là “xã hội học chính sách xã hội”. Xã hội học công cộng Ngƣợc lại, xã hội học công cộng, tham gia vào một mối quan hệ đối thoại giữa nhà xã hội học và công chúng. Trong đó chƣơng trình nghị sự của mỗi đối tƣợng nghiên cứu đƣợc đƣa vào thảo luận và bổ sung, hiệu chỉnh cho nhau. Các nghiên cứu của xã hội học công cộng, chƣơng trình nghị sự đƣợc đƣa vào nghiên cứu thƣờng liên quan đến các giá trị hoặc mục tiêu nghiên cứu đƣợc chia sẻ từ cả hai bên, để thông tin thảo luận có đi có lại. Đó là mục tiêu của xã hội học công cộng, phấn đấu mang lại những đối thoại giữa nhà xã hội học và các (loại) công chúng ngoài các viện, trƣờng đại học nghiên cứu; một đối thoại mà trong đó cả hai bên có thể nâng cao sự hiểu biết của mình về những vấn đề công cộng. Chúng bao gồm những cuộc tranh luận về chính sách công, hoạt động chính trị, mục đích của phong trào xã hội và các thể chế của xã hội dân sự. Các phƣơng pháp tiếp cận xã hội học công cộng và xã hội học chính sách không loại trừ lẫn nhau và thậm chí không đối kháng nhau, chúng thƣờng bổ sung cho nhau trong quá trình nghiên cứu. Đặc biệt là khi chính sách thất bại, xã hội học chính sách có thể trở thành xã hội học công cộng (Burawoy, 2005). Sự khác biệt giữa xã hội học công cộng và xã hội học chính sách thƣờng khó có thể phân định rạch ròi, nhƣ việc xã hội học công cộng có thể đồng thời phục vụ khách hàng và tạo ra cuộc tranh luận công khai. 9
  5. HỘI THẢO KHOA HỌC “PHÁT TRIỂN XÃ HỘI HỌC CÔNG Ở VIỆT NAM” Xã hội học chuyên biệt Xã hội học chuyên biệt cung cấp các phƣơng pháp nghiên cứu và thử nghiệm, các chuyên ngành hẹp, bằng cách phân tích và tích lũy kiến thức, đƣa ra những câu hỏi định hƣớng cũng nhƣ khung khái niệm trong nghiên cứu các vấn đề xã hội trong từng lĩnh vực cụ thể. Xã hội học chuyên biệt quan trọng nhất là bao gồm rất nhiều chƣơng trình nghiên cứu giao thoa nhau, mỗi chƣơng trình có các giả định khác nhau. Từ việc thao tác hóa bộ khái niệm, xác định bộ câu hỏi và vận dụng lý thuyết nghiên cứu, nhƣ các lý thuyết chuyên ngành về xã hội học tổ chức, xã hội học chính trị, xã hội học văn hóa, xã hội học gia đình, xã hội học kinh tế, xã hội học đô thị… Trong các lĩnh vực nghiên cứu cụ thể này, còn có các lý thuyết chuyên sâu hơn, lý giải các sự kiện hiện tƣợng nghiên cứu của nó rõ hơn. Xã hội học chuyên biệt là một dạng xã hội học có liên quan chủ yếu với việc nghiên cứu của các nhà xã hội học hàn lâm khác. Xã hội học phê phán Xã hội học phê phán là một hƣớng nghiên cứu về xã hội học, nhằm để kiểm tra tri thức của các chƣơng trình nghiên cứu xã hội học chuyên biệt. Một vài nghiên cứu về xã hội học phê phán nhƣ: Công trình nghiên cứu xã hội học chuyên biệt của Alvin Gouldner (1970) đã sử dụng lý thuyết cấu trúc chức năng để nghiên cứu cho các giả định của ông về một xã hội đồng thuận không phù hợp với các cuộc xung đột leo thang của những năm 1960. Lý thuyết Nữ quyền đƣợc cho là lý thuyết kỳ quặc đã kéo theo các nhà xã hội học chuyên biệt xem xét nguyên nhân sâu xa và sự phổ biến của giới tính, tình dục và chủng tộc đàn áp. Trong mỗi trƣờng hợp xã hội học phê phán cố gắng để làm cho xã hội học chuyên biệt nhận thức đƣợc các thành kiến, thúc đẩy các chƣơng trình nghiên cứu mới đƣợc xây dựng trên nền tảng thay thế. Kiến thức xã hội học phê phán thẩm định lại các cơ sở giá trị của xã hội cũng nhƣ nghề nghiệp của xã hội học và xã hội học phê phán cũng chính là lƣơng tâm của các nhà xã hội học chuyên biệt (Burawoy, 2005). Các nhà xã hội học thế giới nói chung và các nhà xã hội học Mỹ nói riêng vẫn tiếp tục tạo sự tranh luận trong việc phân loại nghiên cứu xã hội học trên thế giới hiện nay, thay vì tiếp tục dành cho các cuộc tranh luận về kỹ thuật nghiên cứu định lƣợng và kỹ thuật nghiên cứu định tính, phƣơng pháp luận quy nạp và phƣơng pháp luận diễn giải, xã hội học vĩ mô và xã hội học vi mô bằng cách tập trung hai câu hỏi: Vì sao chúng ta theo đuổi xã hội học? Các luận điểm còn lại cố gắng biện minh và mở rộng hệ thống phân loại xã hội học này thế nào?(6) 3. Xã hội học công hay Xã hội học công cộng? Để hiểu rõ khái niệm “public” trong khái niệm “public sociology”, chúng ta cần phải tìm hiểu rõ mục tiêu của xã hội học công cộng khi các nhà xã hội học tuyên bố về nó. Theo M. Burawoy, “những lý do cho sự hấp dẫn của xã hội học ngày nay, là tính đa dạng và mối quan hệ của xã hội học trong nguyên tắc chung, nhƣng có sự chuyển thể trong phân công lao động xã hội học”. Việc xem xét mối quan hệ hỗ tƣơng của việc phân chia các hƣớng nghiên cứu xã hội học – chuyên biệt, phê phán, chính sách, công cộng, cũng nhƣ so sánh xã hội học với 10
  6. HỘI THẢO KHOA HỌC “PHÁT TRIỂN XÃ HỘI HỌC CÔNG Ở VIỆT NAM” các ngành khoa học xã hội khác, sẽ làm xã hội học trở nên đặc biệt, không chỉ là khoa học mà còn là một lực lƣợng đạo đức và công cộng. Đây là lời hứa và thách thức của xã hội học công cộng, cũng chính là sự bổ sung nguyên tắc xã hội học, chứ không phải là sự phủ nhận vai trò của xã hội học chuyên biệt. M. Burawoy cho rằng, nhiệm vụ của các nhà xã hội học bấy lâu nay đã trở nên nhạy cảm hơn, tập trung hơn vào tiêu cực, nhƣng bằng chứng mà các nhà xã hội học đã tìm ra đƣợc không gợi ý hồi quy trong rất nhiều môi trƣờng xã hội khác nhau – khu vực, quốc gia, thế giới. Và tất nhiên, các nhà xã hội học bị chi phối rất nhiều trong đặc tính của nó bởi một thể chế xã hội cụ thể thù địch với chính ý tƣởng của “xã hội”. Do vậy, xã hội học công cộng có nhiệm vụ "phản ánh tâm thế của xã hội” nhƣ là một phần của đời sống xã hội học của chúng ta. Xã hội học công cộng phấn đấu mang lại những đối thoại giữa nhà xã hội học và các (loại) công chúng ngoài các viện, trƣờng đại học nghiên cứu, một sự đối thoại mà trong đó cả hai bên có thể nâng cao sự hiểu biết của mình về những vấn đề công cộng. Chúng bao gồm những cuộc tranh luận về chính sách công, hoạt động chính trị, mục đích của phong trào xã hội và các thể chế của xã hội dân sự (Burawoy, 2005). Xã hội dân sự đƣợc hiểu nhƣ là các hiệp hội, phong trào và công chúng ở bên ngoài nhà nƣớc và nền kinh tế, nhƣ: các đảng phái chính trị, công đoàn, trƣờng học, cộng đồng đức tin, phƣơng tiện truyền thông in ấn, tổ chức tự nguyện và tổ chức nhân quyền(7). Xã hội học liên kết với xã hội dân sự, đó là nhiệm vụ xã hội học công cộng, nó đại diện cho lợi ích của nhân loại, loại trừ hoặc giảm thiểu lợi ích của chủ nghĩa độc tài nhà nƣớc và thị trƣờng. Điều này đã thể hiện đầy đủ nghĩa “công cộng” của khái niệm “public” trong khái niệm “public sociology” – Xã hội học công cộng. Nghĩa thứ hai của khái niệm “public” trong khái niệm “public sociology” là nghĩa “công chúng”. Xã hội học công cộng đƣa xã hội học vào một cuộc trò chuyện với công chúng, đƣợc hiểu là những ngƣời tự tham gia vào cuộc trò chuyện trong quá trình nghiên cứu của các nhà xã hội học (Burawoy, 2005). Chúng ta không nên nghĩ về công chúng nhƣ cố định, nhƣng trong quá trình nghiên cứu các nhà xã hội học có thể tham gia vào sáng tạo của công chúng, cũng nhƣ nắm bắt diễn tiến của công chúng. Thật vậy, một phần nghiên cứu của các nhà xã hội học cụ thể là định nghĩa các dạng (loại) ngƣời - những ngƣời bị AIDS, phụ nữ, phụ nữ bị ung thƣ, ngƣời đồng tính, tội phạm thanh thiếu niên… - và nếu các nhà xã hội học làm đƣợc nhƣ vậy với sự cộng tác của công chúng, là đồng nghĩa với việc xã hội học sẽ tạo ra công chúng, mặc dù họ có thể không thực sự tham gia vào. Ví nhƣ, ngƣời phụ nữ đã trở thành cơ sở của công chúng, nghĩa là những phụ nữ đƣợc định nghĩa sẽ không bị gạt ra ngoài và không bị im lặng. Với sự trợ giúp của xã hội học chuyên biệt, các nhà xã hội học công cộng sẽ nhìn nhận các vấn đề riêng tƣ của công chúng thành các vấn đề công cộng, bằng cách các nhà xã hội học công cộng tham gia vào cuộc sống của công chúng. Từ quan điểm này đã cho thấy, sự đa dạng của công chúng, rõ ràng rằng xã hội học công cộng cần phát triển một “xã hội học của công chúng”. 11
  7. HỘI THẢO KHOA HỌC “PHÁT TRIỂN XÃ HỘI HỌC CÔNG Ở VIỆT NAM” Trƣớc đó, Theda Skocpol (2003) đã khuyến cáo rằng, công chúng đang biến mất - bị phá hủy bởi thị trƣờng, bị xâm chiếm bởi các phƣơng tiện truyền thông hoặc bị cản trở bởi bộ máy quan liêu của nhà nƣớc. Tuy nhiên, chính sự tồn tại của một xã hội học công cộng rộng lớn, cho thấy không có sự thiếu hụt công chúng nếu chúng ta quan tâm đến việc tìm kiếm công chúng. Và các nhà xã hội học công cộng phải sử dụng rất nhiều phƣơng pháp để tìm hiểu về việc thu hút công chúng tham gia vào nghiên cứu của họ. Xã hội học ngoài việc tạo ra các công chúng khác nhau cho nghiên cứu của chính mình, các nhà xã hội học còn có thể cấu thành chính mình nhƣ một công chúng hoạt động trong lĩnh vực nghiên cứu. M. Burawoy chứng minh rằng, “có một công chúng sẽ không biến mất trƣớc khi chúng ta làm xã hội học công cộng, đó là sinh viên của chúng ta. Mỗi năm chúng tôi tạo ra khoảng 25.000 BA mới, những ngƣời có chuyên ngành xã hội học. Có ý nghĩa gì khi nghĩ họ là một công chúng tiềm năng? Sinh viên sẽ trở thành đại sứ xã hội học cho thế giới bên ngoài rộng lớn hơn khi họ trở lại lớp học, với sự tham gia của họ với vai trò nhiều (loại) công chúng khác nhau. Chúng tôi là tất cả các nhà xã hội học công cộng tiềm năng.” (Burawoy, 2005). Tuy nhiên, các nhà xã hội học công cộng cần phân biệt giữa các (loại) công chúng khác nhau, nhƣ việc làm nhƣ thế nào để hai bên công chúng học thuật và công chúng ngoài học thuật đƣợc đƣa vào đối thoại? Đó là một câu hỏi mở và rất khó cho các nhà xã hội học công cộng trả lời. Do vậy, các nhà xã hội học công cộng cần thông qua đối thoại mở, thông qua sự tham gia tự do và bình đẳng cho công chúng, thông qua tính dân chủ nội tại của mỗi tổ chức, xã hội cụ thể. Sự đa dạng của xã hội học công cộng phản ánh không chỉ các công chúng khác nhau mà là các cam kết giá trị khác nhau về một phần của nguyên tắc xã hội học. Xã hội học công cộng không có giá trị quy tắc nội tại, ngoài cam kết đối thoại công chúng về các vấn đề công cộng đƣợc nêu lên bởi xã hội học. Nhƣ vậy cho thấy, khái niệm “public sociology” không thể đƣợc hiểu và dùng với nghĩa “xã hội học công” hoặc “xã hội học công chúng”. Vì nhƣ thế rất dễ ngộ nhận xã hội học nghiên cứu về các chính sách công, về chính sách nhà nƣớc, các vấn đề mang tầm chiến lƣợc của chính sách xã hội, hoặc nghiên cứu về công chúng. Do vậy, để hiểu rõ hơn vai trò, nhiệm vụ và hƣớng nghiên cứu của chuyên ngành xã hội học mới này đúng bản chất với “cái tên” của nó đã đƣợc phân tích ở trên, cần phải đƣợc gọi tên thể hiện đầy đủ bản chất của nó là Xã hội học cộng cộng. 4. Thay lời kết Khoa học xã hội không phải là một lĩnh vực nghiên cứu chung của các ngành, mặc dù xu hƣớng nghiên cứu liên ngành ngày càng có giá trị và mở rộng. Bởi vì mỗi ngành có nhiệm vụ và vai trò nghiên cứu đặc thù khác nhau và cả lợi ích cũng khác nhau. Nếu nhƣ quan điểm của khoa học kinh tế là thị trƣờng và sự mở rộng của nó, quan điểm của khoa học chính trị là trạng thái và sự bảo đảm ổn định chính trị, thì quan điểm xã hội học là xã hội dân sự và bảo vệ xã hội. Trong giới thiệu về xã hội học công cộng của Michael Burawoy, “nhiệm vụ xã hội học công cộng là tăng cƣờng các thể chế xã hội dân sự chống lại sự lấn 12
  8. HỘI THẢO KHOA HỌC “PHÁT TRIỂN XÃ HỘI HỌC CÔNG Ở VIỆT NAM” chiếm của nhà nƣớc và thị trƣờng”, đã giúp xã hội học có thể đƣợc kết nối với xã hội bằng cách nghiên cứu xã hội dân sự. Trong đó, xã hội học công cộng đang có xu hƣớng làm thay đổi đối với cái nhìn và nhiệm vụ của xã hội học, từ đó chính các nhà xã hội học đã điều chỉnh những thay đổi cho phù hợp với việc dạy học và làm xã hội học trong bối cảnh xã hội hiện nay. Từ những phân tích trên cho thấy, chúng ta cần hiểu và gọi đúng tên Xã hội học công cộng, sẽ giúp cho chúng ta định hƣớng lại chƣơng trình đào tạo phù hợp, triển khai các công trình nghiên cứu khả thi với đối tƣợng nghiên cứu của xã hội học, bao gồm cả các kiến thức xã hội học (xã hội học chuyên biệt, xã hội học phê phán, xã hội học chính sách hay xã hội học công cộng). Thật vậy, với rất nhiều chƣơng trình kết hợp lý tƣởng của xã hội học công cộng vào chƣơng trình giảng dạy cho sinh viên, điều này sẽ giúp khả năng đào tạo hiệu quả đáng kể cho cách các nhà xã hội học tƣơng lai đƣợc đào tạo để làm xã hội học. Chú thích (1) Nguyên văn Tiếng Anh: “Debates over public sociology have rekindled questions concerning the extra-academic purpose of sociology. Public sociology raises questions about what sociology is and what its goals ought to (or even could) be”. (https://en.wikipedia.org/wiki/Public_sociology 2018) (2) Nguyên văn Tiếng Anh: “Historian Mark C. Smith, for instance, has investigated earlier debates over the purpose of social science in his book Social Science in the Crucible: The American Debate over Objectivity and Purpose,1918-1941 (1994), while Stephen P. Turner and Jonathan H. Turner argue in their book, The Impossible Science: An Institutional Analysis of American Sociology (1990), that sociology's search for purpose, through dependence on external publics, has limited the discipline's potential”. (https://en.wikipedia.org/wiki/Public_sociology 2018). (3) Nguyên văn Tiếng Anh: “As mirror and conscience of society, sociology must define, promote and inform public debate about deepening class and racial inequalities, new gender regimes, environmental degradation, market fundamentalism, state and nonstate violence”, (Michael Burawoy. 2005). (4) Nguyên văn Tiếng Anh: “Public sociology is a subfield of the wider sociological discipline that emphasizes expanding the disciplinary boundaries of sociology in order to engage with non-academic audiences. It is perhaps best understood as a style of sociology rather than a particular method, theory”. (Michael Burawoy. 2005). (5) Nguyên văn Tiếng Anh: “The sociological discipline is dynamic and ever changing, and has a long history of incorporating new theoretical and empirical insights into its analyses, often with the goal of empowering marginalized publics”. (https://en.wikipedia.org/wiki/Public_sociology 2018). (6) Nguyên văn Tiếng Anh: “displacing debates about quantitative and qualitative techniques, positivist and interpretive methodologies, micro and macro sociology by 13
  9. HỘI THẢO KHOA HỌC “PHÁT TRIỂN XÃ HỘI HỌC CÔNG Ở VIỆT NAM” centering two questions: for whom and for what do we pursue sociology? The remaining theses attempt to justify and expand this classification system”. (Michael Burawoy. 2005). (7) Nguyên văn Tiếng Anh: “… movements and publics that were outside both state and economy, political parties, trade unions, schooling, communities of faith, print media and a variety of voluntary organizations”. (Michael Burawoy. 2005). TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. J. G. Bruhn. (1999). “Introductory Statement: Philosophy and Future Direction”. Sociological Practice, Số 1(1): từ 1 - 2. 2. M. Burawoy. (2005). “2004 ASA Presidential Address For Public Sociology”. American Sociological Review, Số 70, từ 4 - 28/02. 3. M. Burawoy, W. Gamson, C. Ryan, S. Pfohl, D. Vaughan, C. Derber, J. Schor. “Public Sociologies: A Symposium from Boston College”. Social Problems, Số 51 (1), trang 103– 130. ISSN: 0037-7791. 4. J. Gans. (1989). "Sociology in America: The Discipline and the Public American Sociological Association, 1988 Presidential Address". American Sociological Review, Số 54, từ 1 – 16. 5. S. F. Steele and J. Price. (2007). “Applied Sociology: Terms, Topics, Tools And Tasks, 2nd ed”. Belmont: Thomson Wadsworth Publishing. 6. Straus, Roger A, Jammie, Straus, Roger và Breese, Jeffrey. (2009). “In Doing Sociology. Case Studies in Sociological Practice”. Rowman & Littlefield, ISBN 978-0- 7391-3395-8. 7. University of California. (2016). “Public Sociology”. University of California Press, 2016-04-15 14
nguon tai.lieu . vn