Xem mẫu
- VIỆT NAM VÀ HIỆP ĐỊNH ĐỐI TÁC
XUYÊN THÁI BÌNH DƯƠNG (TPP)
TS. Nguyễn Mạnh Hùng
Ban Kinh tế Trung ương
Tóm tắt
Ngày 5-10/2015, sau năm năm đàm phán, 12 nước tham gia đàm phán Hiệp
định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) đã đạt được thỏa thuận lịch sử về
việc kết thúc đàm phán hiệp định TPP. Đây là hiệp định mang tính bước ngoặt
của thế kỷ XXI; là “thỏa thuận lịch sử” sẽ giúp giải quyết các thách thức của
thương mại quốc tế thế kỷ 21, xây dựng các quy tắc thương mại của khu vực
trong nhiều thập kỷ tới2. Bài viết sơ lược quá trình tham gia của Việt Nam vào
TPP, phân tích mục đích, đồng thời vạch ra những cơ hội cũng như thách thức
đối với Việt Nam khi gia nhập TPP và đề xuất các giải pháp để Việt Nam có thể
tận dụng tối đa những lợi thế, hạn chế những tác động tiêu cực từ TPP.
1. Quá trình tham gia của Việt Nam vào TPP
Trước đây, TPP được biết đến với tên tiếng Anh là Pacific Three Closer
Economic Partnership (P3-CEP) và được tổng thống Chile Ricardo Lagos, thủ
tướng Singapore Goh Chok Tong và thủ tướng New Zealand Helen Clark đưa ra
thảo luận tại một cuộc họp các nhà lãnh đạo của APEC diễn ra tại Los
Cabos, Mexico. Brunei nhanh chóng tham gia đàm phán ở vòng 5 vào tháng 04
năm 2005. Sau vòng đàm phán này, hiệp định lấy tên là Hiệp định Đối tác Kinh tế
Chiến lược Xuyên Thái Bình Dương (TPSEP hoặc P4). Mục tiêu ban đầu của
Hiệp định là giảm 90% các loại thuế xuất nhập khẩu giữa các nước thành viên
trước ngày 01 tháng 01 năm 2006 và cắt giảm bằng không tới năm 2015. Đây là
một thỏa thuận toàn diện bao quát tất cả các khía cạnh chính của một hiệp định
thương mại tự do, bao gồm trao đổi hàng hóa, các quy định về xuất xứ, can thiệp,
2
Ông Michael Froman đại diện thương mại Mỹ.
239
- rào cản kỹ thuật, trao đổi dịch vụ, vấn đề sở hữu trí tuệ, các chính sách của chính
quyền...
Ngày 22 tháng 9 năm 2008, Hoa Kỳ tuyên bố tham gia vào P4 nhưng không
phải Hiệp định P4 cũ mà các bên sẽ đàm phán một Hiệp định hoàn toàn mới, gọi
là Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP). Ngay sau đó, các nước Ô-
xtrây-lia và Pê-ru cũng tuyên bố tham gia TPP.
Năm 2008, các nước TPP mời Việt Nam tham gia với lý do: (i) trong những
năm đổi mới vừa qua, Việt Nam đã chứng tỏ là một quốc gia năng động, nhất
quán thi hành đường lối đổi mới; nghiêm túc trong việc thực thi cam kết quốc tế;
có môi trường chính trị ổn định và đang có vai trò ngày càng quan trọng trong
khu vực; là một đối tác quan trọng trong hiện tại và tương lai, có thể giúp tăng
ảnh hưởng của TPP. (ii) Việt Nam có quy mô dân số đáng kể, nền kinh tế phát
triển năng động, hứa hẹn trở thành thị trường có sức mua lớn, là điểm đến được
doanh nghiệp các nước, nhất là tại khu vực Châu Á - Thái Bình Dương, hết sức
quan tâm. (iii) Việt Nam là nước đang phát triển ở trình độ thấp. Việc Việt Nam
có thể tham gia thành công vào TPP sẽ là bằng chứng thuyết phục về việc Hiệp
định TPP thực sự quan tâm đến các nước đang phát triển (thông qua các biện
pháp đa dạng để hỗ trợ một nước đang phát triển thực thi các tiêu chuẩn cao của
Hiệp định). Đây là yếu tố quan trọng, giúp thu hút các nước có trình độ phát triển
kinh tế chưa cao cùng tham gia vào TPP để TPP có thể mở rộng trong tương lai.
Về phía Việt Nam, trên cơ sở đường lối đổi mới, “mở cửa” nền kinh tế và
phương châm đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ quốc tế trong chính sách đối
ngoại, Việt Nam đã thấy được lợi thế khi tham gia vào TPP. Do vậy, được sự chỉ
đạo kịp thời, sát sao của Bộ Chính trị, Chính phủ Việt Nam đã tích cực, chủ động
tham gia vào quá trình đàm phán TPP. Việt Nam đã tham gia đàm phán ngay từ
những ngày đầu nhưng chưa phải thành viên chính thức mà là thành viên liên kết.
Sau 3 phiên tham dự với tư cách thành viên liên kết, Việt Nam chính thức tham
gia TPP từ tháng 11 năm 2010. Cùng với quá trình đàm phán, TPP đã tiếp nhận
thêm các thành viên mới là Ma-lai-xia, Mê-xi-cô, Ca-na-đa và Nhật Bản, nâng
tổng số nước tham gia lên thành 12 vào giữa năm 2013. Sau đó, một số nước khác
như Hàn Quốc, Thái Lan, Cô-lôm-bia… cũng bày tỏ ý muốn tham gia nhưng các
nước TPP thống nhất cần tập trung cho việc kết thúc đàm phán trước khi kết nạp
thêm thành viên mới.
240
- Trong quá trình đàm phán Việt Nam đã chủ động đề xuất các nội dung liên
quan đến doanh nghiệp nhà nước, thương mại điện tử và đã được các đối tác tham
gia đàm phán đánh giá cao nội dung này.
2. Mục đích tham gia TPP của Việt Nam và các nước
Việt Nam và các nước tham gia TPP với mục đích: (i) Gắn kết môi trường
và hội tụ phương pháp hoạch định chính sách thương mại giữa các nước khác
nhau theo cùng một xu hướng chung để tạo ra môi trường kinh doanh thuận lợi,
đồng nhất nhằm thúc đẩy thương mại tự do. (ii) Tạo ra một mô hình mới về hội
nhập và hợp tác kinh tế khu vực, tạo thuận lợi hơn nữa cho dòng chảy thương mại
và đầu tư và nếu có thể thì biến TPP thành hạt nhân để hình thành một khu vực
thương mại tự do chung cho toàn khu vực Châu Á - Thái Bình Dương. (iii) Đi
đường ngắn nhất để đạt lợi ích cao nhất. Do khu vực thương mại tự do mà TPP
tạo ra rất lớn (có tổng GDP hơn 28.000 tỷ USD, chiếm 40% tổng GDP và hơn
30% tổng thương mại toàn cầu) nên các chuỗi cung ứng sản xuất sẽ có động lực
dịch chuyển về khu vực này, tạo ra lợi thế và lợi ích kinh tế to lớn cho tất cả các
nước tham gia. (iv) Những nước chưa có quan hệ FTA với Hoa Kỳ như Nhật
Bản, Niu Di-lân, Ma-lai-xia và Việt Nam đều mong muốn thông qua TPP để thiết
lập FTA với Hoa Kỳ và tiếp cận thị trường rộng lớn này.
3. Cơ hội và thách thức cho Việt Nam
3.1. Về cơ hội
(1) Tham gia TPP với tư cách là một trong những thành viên đầu tiên sẽ
giúp nâng cao vị thế của Việt Nam trong khu vực cũng như trên trường quốc tế,
giúp Việt Nam thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa và
đa dạng hóa quan hệ quốc tế.
(2) Về mặt kinh tế, theo tính toán của các chuyên gia kinh tế độc lập, trong
điều kiện các yếu tố khác đều thuận lợi, việc tham gia các FTA thế hệ mới, đặc
biệt là TPP sẽ giúp tăng trưởng của Việt Nam tăng thêm 1-2% năm. TPP giúp
Việt Nam đa dạng hóa thị trường, cân đối lại thị trường xuất khẩu. TPP có thể
giúp GDP của Việt Nam tăng thêm 23,5 tỷ USD vào năm 2020 và 33,5 tỷ USD
vào năm 2025. Xuất khẩu sẽ tăng thêm được 68 tỷ USD vào năm 20253. Theo các
nghiên cứu này, Việt Nam có thể là nước được hưởng lợi nhiều nhất trong số 12
3
Tăng thêm ờ đây là so với kịch bản không có TPP. Toàn bộ trị giá tăng thêm này đã được quy đổi về giá
cố định năm 2007.
241
- nước tham gia TPP. Đối với xuất khẩu, việc các nước, trong đó có các thị trường
lớn như Hoa Kỳ, Nhật Bản và Ca-na-đa giảm thuế nhập khẩu về 0% cho hàng hóa
của Việt Nam sẽ tạo ra “cú hích” lớn. Riêng ngành dệt may, kim ngạch có thể
tăng đáng kể. Theo tính toán, cứ 1 tỷ USD kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may sẽ
tạo ra khoảng 250.000 việc làm các loại. Như vậy, nếu kim ngạch dệt may tăng,
có thể tạo ra nhiều việc làm mới. Ngoài ra, với quy mô xuất khẩu đủ lớn, Việt
Nam sẽ có điều kiện thu hút đầu tư vào lĩnh vực dệt, nhuộm và sản xuất nguyên
phụ liệu. Đây là mặt tích cực của quy tắc xuất xứ “từ sợi trở đi”, giúp Việt Nam
tăng giá trị nội địa cho hàng may xuất khẩu và giúp ngành may phát triển bền
vững trước các đối thủ cạnh tranh tiềm tàng. Tương tự dệt may, các mặt hàng
giày dép của Việt Nam cũng sẽ có cơ hội tăng đáng kể xuất khẩu. Với các mặt
hàng nông, lâm, thủy sản, cơ hội tăng xuất khẩu cũng rất lớn. Tham gia TPP sẽ
giúp Việt Nam và các nước có được các cơ hội mới từ chuỗi cung ứng mới, được
hình thành sau khi TPP có hiệu lực. Các nước TPP chiếm tới 40% GDP và 30%
thương mại toàn cầu, lại bao gồm các thị trường lớn như Hoa Kỳ, Nhật Bản, chắc
chắn sẽ mở ra rất nhiều cơ hội khi chuỗi cung ứng mới hình thành4. Một số tập
đoàn, công ty lớn trên thế giới đã cân nhắc đầu tư vào Việt Nam với mục tiêu
biến Việt Nam trở thành một trong những cứ điểm quan trọng trong chuỗi sản
xuất của họ. Tham gia TPP sẽ giúp xu hướng này phát triển mạnh hơn, là điều
kiện quan trọng để nước ta bước sang giai đoạn phát triển các ngành mới, có hàm
lượng công nghệ cao hơn.
(3) Về đầu tư: Cam kết trong TPP về dịch vụ và đầu tư dự kiến sẽ có tác
dụng tích cực trong việc cải thiện môi trường đầu tư, góp phần thu hút nguồn vốn
đầu tư nước ngoài. Nhiều nghiên cứu khẳng định rằng đầu tư nước ngoài sẽ gia
tăng khi Hiệp định TPP có hiệu lực. Ngoài ra, các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ
của ta cũng dễ tiếp cận thị trường của các nước tham gia TPP hơn, tuy tác động
này không lớn do khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp ta ở thị trường nước
ngoài còn thấp. Mặt khác, Việt Nam sẽ có điều kiện tiếp cận các khoản đầu tư,
dịch vụ đến từ Hoa Kỳ và các nước đối tác TPP; tiếp cận với nhiều dự án đầu tư
và nhà đầu tư chiến lược, tiềm năng để đẩy mạnh thu hút các nguồn vốn đầu tư từ
bên ngoài để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và phát triển xã hội. Thu hút các thành
4
Trên thực tế, cạnh tranh giữa các tập đoàn trên thế giới hiện nay không chỉ là cạnh tranh giữa họ với nhau
mà còn là cạnh tranh giữa các chuỗi cung ứng cho họ nữa. Hầu hết các nước TPP đã có FTA với nhau nên
giữa các nước này đã hình thành các chuỗi cung ứng cho nhau. Tham gia TPP sẽ là cơ hội để Việt Nam gia
nhập vào các chuỗi cung ứng này.
242
- phần kinh tế, nhất là thành phần kinh tế tư nhân đầu tư để khai thác các tiềm
năng, thế mạnh sẵn có của Việt Nam, nhất là trong các lĩnh vực thương mại biên
giới, xuất nhập khẩu. Hàng hóa, dịch vụ được lưu thông thuận lợi hơn, người dân
có điều kiện được tiếp cận với hàng hóa giá rẻ hơn, sạch hơn, an toàn hơn và dịch
vụ tốt hơn.
(4) Thúc đẩy hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa: Tham gia TPP, một hiệp định thương mại tự do thế hệ mới, sẽ là cơ hội để
Việt Nam tiếp tục hoàn thiện thể chế, trong đó có thể chế kinh tế thị trường, một
trong ba đột phá chiến lược mà Đảng ta đã xác định; thúc đẩy mạnh mẽ cải cách
hành chính; tăng cường trách nhiệm, kỷ luật, kỷ cương và phòng chống tham
nhũng, lãng phí, quan liêu; hỗ trợ cho tiến trình đổi mới mô hình tăng trưởng và
cơ cấu lại nền kinh tế của ta, đồng thời giúp ta có thêm cơ hội để cải thiện môi
trường kinh doanh theo hướng thông thoáng, minh bạch theo đúng thông lệ quốc
tế và dễ dự đoán hơn, từ đó thúc đẩy cả đầu tư trong nước lẫn đầu tư nước ngoài.
Đặc biệt, việc hoàn thiện và tăng cường công tác bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ sẽ
mở ra cơ hội thu hút đầu tư vào những lĩnh vực có hàm lượng tri thức cao, thí dụ
như sản xuất dược phẩm, trong đó có thuốc sinh học (đặc biệt là với vắc-xin và
một số sản phẩm ta có bước phát triển mạnh trong các năm qua).
(5) Đối với các doanh nghiệp: sẽ có điều kiện mở rộng trao đổi thương mại,
thu hút đầu tư, đẩy mạnh xuất khẩu, cắt giảm chi phí nhập khẩu, hạ giá thành sản
phẩm, tiếp cận các thị trường rộng lớn hơn. Khi tham gia vào TPP, các doanh
nghiệp của ta cũng sẽ có điều kiện tham gia vào thị trường mua sắm công của
Hoa Kỳ, Nhật Bản, Ca-na-đa... Theo số liệu của Hoa Kỳ, chỉ tính riêng mua sắm
công các loại hàng hóa, vật dụng văn phòng thông thường của các cơ quan chính
quyền liên bang Hoa Kỳ hàng năm đã vào khoảng 10-12 tỷ USD. Đây cũng là
một kênh tiêu thụ hấp dẫn đối với hàng xuất khẩu của Việt Nam. Mặt khác, các
sản phẩm chủ lực của Việt Nam có điều kiện tham gia sâu hơn vào chuỗi sản
xuất, cung ứng trong khu vực và toàn cầu. Từ đó sẽ tác động tích cực để hình
thành các mối liên kết sản xuất - chế biến - tiêu thụ ổn định các sản phẩm có quy
mô sản xuất tập trung.
(6) Về mặt xã hội:
- Tham gia TPP sẽ tạo ra các cơ hội giúp nâng cao tốc độ tăng trưởng; từ đó
sẽ tạo thêm nhiều việc làm, tăng lương nâng cao thu nhập và góp phần xoá đói
giảm nghèo. Tăng trưởng kinh tế cũng giúp ta có thêm nguồn lực để cải thiện chất
lượng nguồn nhân lực và chăm sóc sức khỏe cộng đồng. Mặt khác, nó tạo ra đòi
243
- hỏi tất yếu, khách quan cũng như điều kiện thuận lợi để thực hiện quyết liệt, có
hiệu quả việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, tăng cường ứng dụng tiến bộ
khoa học - kỹ thuật và chuyển giao công nghệ để đáp ứng yêu cầu phát triển và
hội nhập. Tạo ra sự di chuyển tự do thị trường lao động, đặc biệt là nguồn nhân
lực có chất lượng cao, lao động có tay nghề, tạo ra nhiều cơ hội giải quyết việc
làm cho người lao động cũng như chuyển dịch cơ cấu lao động.
- Do nhập khẩu từ Hoa Kỳ và các nước TPP chưa có FTA với ta phần lớn là
không cạnh tranh trực tiếp, nên nếu có một lộ trình giảm thuế hợp lý, kết hợp với
hoàn thiện hệ thống an sinh xã hội, ta có thể xử lý được các vấn đề xã hội nảy
sinh do tham gia TPP. Đặc biệt, do Hiệp định TPP bao gồm cả các cam kết về bảo
vệ môi trường nên tiến trình mở cửa, tự do hóa thương mại và thu hút đầu tư sẽ
được thực hiện theo cách thân thiện với môi trường hơn, giúp ta tăng trưởng bền
vững hơn.
- Tạo điều kiện cho Việt Nam có điều kiện tiếp nhận, bổ sung giá trị văn
hóa mới, tiến bộ của các nước, các dân tộc và vùng miền làm phong phú thêm các
giá trị văn hóa tinh thần của dân tộc Việt Nam.
3.2. Về thách thức
(1) Về kinh tế:
- Sẽ có sự cạnh tranh ngày càng gay gắt, nhất là về chất lượng hàng hóa và
dịch vụ, về thị trường; đồng thời, làm tăng sự phụ thuộc của Việt Nam vào thị
trường quốc tế. Các doanh nghiệp của Việt Nam sẽ phải đối mặt với nhiều thách
thức trong cạnh tranh do hầu hết là doanh nghiệp quy mô nhỏ, công nghệ lạc hậu
và khả năng đầu tư rất hạn chế, liên kết rời rạc với vùng sản xuất nguyên liệu.
Điều này đặt ra đòi hỏi cấp thiết đối với chính quyền, doanh nghiệp và người dân
trong việc thay đổi về cả nhận thức, tư duy, hiểu biết; nâng cao trình độ, năng lực,
kỹ năng; phương thức sản xuất kinh doanh và chiến lược tiếp cận thị trường…
- Năng lực cạnh tranh của Việt Nam có nguy cơ giảm do nguồn lực lao
động chất lượng cao, có kỹ năng sẽ dịch chuyển sang các nước với mức lương
cao hơn; cơ sở hạ tầng giao thông, dịch vụ còn hạn chế nên nguồn FDI có thể sẽ
chuyển dịch sang các nước có lợi thế cạnh tranh hơn.
- Thị trường mở nên người tiêu dùng có nhiều lựa chọn hơn về hàng hóa và
dịch vụ với giá thấp hơn, mẫu mã và chất lượng cao hơn sẽ làm cho nhiều sản
phẩm hàng hóa, dịch vụ của Việt Nam đứng trước nguy cơ không thể cạnh tranh
nếu không nhanh chóng có sự thay đổi phù hợp để thích ứng, duy trì và phát triển.
Đặc biệt, người nông dân phải cạnh tranh với những sản phẩm nông sản do các
nước có chất lượng cao hơn với giá thành cạnh tranh hơn trừ khi có sự nâng cao
244
- giá trị gia tăng trong sản xuất. Đặc biệt, chăn nuôi lợn, gà và bò đang ở quy mô
nhỏ, không có khả năng cạnh tranh với đối thủ mạnh hơn đến từ Hoa Kỳ, Ô-xtrây-
lia, Niu Di-lân, Chi-lê …; khả năng cạnh tranh sẽ càng thấp hơn khi thuế được đưa
về 0% và thị hiếu tiêu dùng người Việt vẫn đang chuộng hàng nhập khẩu.
(2) Về hoàn thiện khung khổ pháp luật, thể chế: Các tiêu chuẩn cao về quản
trị minh bạch và hành xử khách quan của bộ máy Nhà nước sẽ đặt ra những thách
thức lớn cho bộ máy quản lý. Tuy nhiên, đây cũng là những tiêu chuẩn mà chúng
ta đang hướng đến để xây dựng một Nhà nước pháp quyền XHCN, thực sự của
dân, do dân và vì dân, với đội ngũ cán bộ, công chức có phẩm chất, năng lực, kỷ
luật, kỷ cương. Chính phủ sẽ chủ động xây dựng chương trình để thực hiện các
tiêu chuẩn cao này của TPP.
(3) Về xã hội:
- Cạnh tranh tăng lên khi tham gia TPP có thể làm cho một số doanh
nghiệp, trước hết là các doanh nghiệp vẫn dựa vào sự bao cấp của Nhà nước, các
doanh nghiệp có công nghệ sản xuất và kinh doanh lạc hậu rơi vào tình trạng khó
khăn, thậm chí phá sản kéo theo đó là khả năng thất nghiệp trong một bộ phận lao
động sẽ xảy ra.
- Làm gia tăng khoảng cách giàu nghèo, vai trò kinh tế tư nhân ngày càng
cao; tăng nguy cơ ô nhiễm môi trường do thu hút đầu tư, nhập khẩu hàng hóa và
công nghệ (tiêu thụ rác thải công nghệ) nếu không được kiểm soát chặt chẽ.
4. Một số kiến nghị
Để triển khai có hiệu quả và khai thác tối đa các lợi thế và hạn chế những
tác động từ PPP, cần có các giải pháp sau:
1. Nhóm các giải pháp phê chuẩn TPP: Sau khi kết thúc đàm phán, Việt
Nam sẽ cùng các nước TPP thực hiện các bước tiếp theo sau đây:
- Rà soát pháp lý để bảo đảm lời văn và các biểu cam kết thể hiện đúng kết
quả đàm phán. Đây là công việc phức tạp. Để làm nhanh, đòi hỏi nỗ lực cao độ
của tất cả các đoàn đàm phán.
- Dịch thuật và công bố rộng rãi nội dung Hiệp định, trên cơ sở hoàn tất
sớm rà soát pháp lý.
- Dành thời gian thỏa đáng để các đại biểu Quốc hội, người dân và các
doanh nghiệp nghiên cứu nội dung Hiệp định.
- Ký kết Hiệp định
- Thực hiện quy trình thông qua Hiệp định theo đúng quy định của pháp luật
từng nước. Thời gian mất từ 18 tháng tới 2 năm.
245
- 2. Nhóm các giải pháp để triển khai TPP:
(1) Cần có kết luận/chị thị chỉ đạo của Bộ Chính trị về việc triển khai TPP
khi nó chính thức có hiệu lực. Trên cơ sở đó, các cấp ủy Đảng, Quốc hội, Chính
phủ các bộ, ngành, địa phương và các doanh nghiệp cần xây dựng các kế hoạch,
chương trình hành động cụ thể, sát thực, nhằm tận dụng các cơ hội và giảm thiểu,
rủi ro, vượt qua thách thức. Qua đó thúc đẩy tăng trưởng và nâng cao chất lượng,
hiệu quả của nền kinh tế.
(2) Đẩy mạnh tuyên truyền, cải thiện, nâng cao nhận thức của các cơ quan
quản lý nhà nước, doanh nghiệp và người dân về hội nhập quốc tế, về TPP và các
FTA khác. Thực hiện tích hợp các nội dung cam kết tương tự trong khuôn khổ
các FTA đã, sẽ ký kết và TPP; vừa phải theo chiều ngang hiệp định, mặt khác vừa
phải theo chiều dọc từng lĩnh vực đã cam kết để biên tập tài liệu và chủ động phổ
biến thông tin cho hiệp hội doanh nghiệp, người dân.
(3) Đẩy mạnh hoàn thiện thể chế trong nước trên 3 góc độ nhằm đáp ứng
yêu cầu của TPP.
- Về pháp luật: Tiếp tục cải cách, đổi mới thể chế kinh tế, hoàn thiện hệ
thống chính sách, pháp luật kinh tế để thực hiện đầy đủ các cam kết trong TPP;
tăng cường tính công khai, minh bạch và hiệu lực của hệ thống chính sách, pháp
luật, tạo môi trường kinh doanh lành mạnh và cạnh tranh bình đẳng. Đẩy mạnh
cải cách hành chính trên tất cả các lĩnh vực, đặc biệt là cải cách mạnh mẽ thủ tục
hành chính về đầu tư, xây dựng, thuế, hải quan, xuất nhập khẩu phù hợp với các
cam kết hội nhập kinh tế quốc tế. Tiếp tục cải cách tư pháp; rà soát, đàm phán để
sửa đổi các điều ước quốc tế song phương về tương trợ tư pháp; rà soát các hiệp
định thương mại đầu tư đã ký kết trước đây; hoàn thiện pháp luật về tương trợ tư
pháp phù hợp với pháp luật quốc tế. Việc hoàn thiện hệ thống pháp luật nhằm
đảm bảo tự do sở hữu, tự do kinh doanh và tự do cạnh tranh trên cơ sở không
phân biệt đối xử, minh bạch, cải cách đơn giản hóa thủ tục hành chính. Hoàn
thiện thể chế để tận dụng cơ hội và phòng ngừa, giảm thiểu các thách thức do
tranh chấp quốc tế, nhất là tranh chấp thương mại, đầu tư quốc tế.
- Tổ chức bộ máy: Xác lập cơ chế phối kết hợp đồng bộ giữa các bộ,
ngành, địa phương và cộng đồng doanh nghiệp nhằm thúc đẩy hội nhập kinh tế
quốc tế có hiệu quả, song hành cùng với việc rà soát, cải cách bộ máy, cải cách
thủ tục hành chính phục vụ hội nhập kinh tế quốc tế, đặc biệt cần khẩn trương, tập
trung thực hiện việc áp dụng các tiêu chuẩn, chuẩn mực quốc tế. Đẩy mạnh công
tác người Việt Nam ở nước ngoài.
246
- - Về con người: Việc đào tạo nguồn nhân lực cho hội nhập kinh tế quốc tế
vẫn là một đòi hỏi bức thiết, cần được tiếp tục tăng cường hơn ở cả cấp Trung
ương và cấp địa phương, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao cần được giải
quyết ở tận gốc vấn đề là đổi mới trong công tác giáo dục và đào tạo bậc đại học,
cao đẳng và dạy nghề. Chú trọng ưu tiên xây dựng đội ngũ chuyên gia pháp luật
thương mại quốc tế đủ trình độ để tư vấn chính sách và giúp Chính phủ giải quyết
tốt các vấn đề pháp lý phát sinh từ hội PPP.
(4) Đẩy mạnh cơ cấu lại tổng thể nền kinh tế phải gắn với đổi mới mô hình
tăng trưởng theo hướng nâng cao chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh, đảm
bảo phát triển nhanh và bền vững, nâng cao trình độ phát triển và năng lực cạnh
tranh của từng ngành, từng doanh nghiệp, từng sản phẩm và toàn bộ nền kinh tế.
Đột phá trong đổi mới tư duy phát triển, nhất quán và đồng bộ với quyết tâm
chính trị cao, lấy lợi ích quốc gia - dân tộc, lợi ích của người dân là mục tiêu
cao nhất. Thực hiện cơ cấu lại đồng bộ, toàn diện trong các ngành, lĩnh vực,
vùng kinh tế trên phạm vi cả nước và từng địa phương, doanh nghiệp, cơ sở, sản
phẩm chủ yếu, với tầm nhìn dài hạn và có lộ trình cụ thể; gắn kết chặt chẽ giữa
“tổng thể” và các “trọng tâm” trong cơ cấu lại nền kinh tế. Tiếp tục triển khai có
hiệu quả cơ cấu lại các lĩnh vực trọng tâm về đầu tư công, hệ thống tài chính -
ngân hàng và các doanh nghiệp nhà nước. Hoàn thiện, bổ sung Đề án tái cơ cấu
nền kinh tế, trong đó cần lượng hóa nội hàm và các cấu phần mô hình tăng
trưởng, nêu rõ mục tiêu, lộ trình, phương thức phân bổ lại nguồn lực, huy động
sự tham gia của xã hội, gắn quá trình tái cơ cấu nền kinh tế với quá trình hội
nhập kinh tế quốc tế, gắn tái cơ cấu ngành công nghiệp và dịch vụ với tái cơ cấu
ngành nông nghiệp. Đặc biệt, trong lĩnh vực nông nghiệp - chăn nuôi, ta sẽ phải
hết sức nỗ lực, biến thách thức thành cơ hội, trong đó đặc biệt coi trọng cơ cấu lại
ngành nông nghiệp, tổ chức lại sản xuất, thúc đẩy ứng dụng khoa học - công nghệ
... để sản phẩm nông nghiệp của ta đủ sức đứng vững trên sân nhà5. Với những
chương trình cơ cấu lại sản xuất nông nghiệp như việc triển khai cánh đồng mẫu
lớn ta cần sớm rút kinh nghiệm để nhân rộng và phát triển hợp lý trong tương lai.
Theo kết quả đàm phán, việc mở cửa thị trường trong một số lĩnh vực nông
nghiệp cũng sẽ được thực hiện theo lộ trình phù hợp để hỗ trợ cho tiến trình cơ
cấu lại.
(5) Công khai, minh bạch trong hoạch định chính sách và hoạt động của
Đảng, Nhà nước, Quốc hội, Chính phủ và các Bộ, ngành, địa phương nhằm tránh
5
Hiện nay, nhiều Tập đoàn lớn của Việt Nam đã quan tâm đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp với các công
nghệ sản xuất và quản lý tiên tiến trên thế giới. Với công nghệ và phương thức quản lý hiện đại, các sản
phẩm do các Tập đoàn này làm ra hoàn toàn có khả năng cạnh tranh trên sân nhà.
247
- việc tranh chấp giữa nhà đầu tư và Chính phủ theo quy định của TPP.
(6) Nâng cao năng lực cạnh tranh ở cả ba cấp độ: quốc gia, doanh nghiệp,
sản phẩm. Phát triển cơ sở hạ tầng đồng bộ nhằm nâng cao chất lượng phục vụ và
góp phần giảm chi phí, giảm giá thành. Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin
và viễn thông cho phát triển kinh tế-xã hội của đất nước, giúp nâng cao năng lực
cạnh tranh quốc gia và doanh nghiệp. Nâng cao khả năng tiếp nhận, phát triển
công nghệ nguồn, công nghệ tiên tiến, công nghệ mới, góp phần phát triển tiềm
lực khoa học và công nghệ, nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm, dịch vụ với
giá trị gia tăng cao. Nâng cao năng lực cạnh tranh để tham gia vào các khâu có
giá trị gia tăng cao trong chuỗi giá trị toàn cầu mới. Quy hoạch và triển khai phát
triển các vùng nguyên liệu có chất lượng, hiệu quả cao, dựa trên lợi thế cạnh
tranh của các sản phẩm xuất khẩu chủ lực, tránh phụ thuộc vào nguồn nguyên liệu
nhập khẩu. Ban hành quy định chính thức về bộ chỉ số hội nhập kinh tế phù hợp
với chuẩn mực quốc tế và thực tiễn của Việt Nam trong năm 2016.
Với chủ trương, đường lối đúng đắn trong hoạch định chiến lược, chính
sách và phù hợp cho từng giai đoạn phát triển của Trung ương Đảng, Quốc hội và
Chính phủ; sự cố gắng vươn lên trong tổ chức thực hiện của các cấp, các ngành,
các địa phương; chúng ta luôn tin tưởng rằng Việt Nam sẽ đón nhận và thực thi
có hiệu quả TPP như chúng ta đã kỳ vọng khi tham gia đàm phán./.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Báo cáo của Bộ Công thương về Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình
Dương (TPP) và sự tham gia của Việt Nam.
2. Tổng kết một số vấn đề lý luận - thực tiễn qua 30 năm đổi mới (1986-
2016) vấn đề “Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa”; Ban Kinh tế Trung ương, tháng 3/2014.
3. Đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế, Ban Kinh tế Trung
ương, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội 2015.
4. Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở
Việt Nam, Ban Kinh tế Trung ương, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia -
Sự thật, Hà Nội 2015.
5. Bách khoa toàn thư mở Wikipedia.
248
nguon tai.lieu . vn