Xem mẫu
- VIỆT NAM CẦN CHUẨN BỊ GÌ
KHI THAM GIA CUỘC CHƠI TPP
ThS. Nguyễn Văn Diệu
Liên hiệp KHKT tỉnh Quảng Nam
Tóm tắt
TPP có nguồn gốc từ Hiệp định hợp tác Kinh tế chiến lược xuyên Thái Bình
Dương (Trans-Pacific Strategic Economic Partnership Agreement), có sự tham
gia của 12 nước gồm: Australia, Brunei Darussalam, Canada, Chile, Nhật Bản,
Malaysia, Mexico, New Zealand, Peru, Singapore, Mỹ và Việt Nam với mục tiêu
thiết lập một mặt bằng thương mại tự do chung cho các nước trong khu vực châu
Á Thái Bình Dương. Mặc khác, thỏa thuận TPP sẽ giúp nâng cao mức sống của
người dân, giảm nghèo, khuyến khích sự minh bạch, hiệu quả điều hành nền kinh
tế cũng như cải thiện việc bảo vệ người lao động và môi trường sống. Theo Bộ
trưởng Bộ Công thương Vũ Huy Hoàng, TPP được coi là hình mẫu cho hợp tác
kinh tế khu vực trong những năm đầu thế kỷ XXI, gồm 30 chương, đề cập không
chỉ các lĩnh vực truyền thống như hàng hóa, dịch vụ, đầu tư mà còn cả các vấn đề
mới như thương mại điện tử, hành xử đối với doanh nghiệp nhà nước, tạo thuận
lợi cho dây chuyền cung ứng sản phẩm,…
Đâu là cơ hội?
- Mở rộng thị trường xuất khẩu, nhất là thị trường xuất khẩu nông sản. Việt
Nam sẽ tiếp cận sâu rộng hơn vào hai nền kinh tế lớn nhất thế giới là Hoa Kỳ và
Nhật Bản bởi Việt Nam là một nước có thế mạnh trong nông nghiệp, có thể sản
xuất quanh năm. Vì vậy, TPP ký kết có thể thúc đẩy thu hút đầu tư từ các nước
trong khối vào lĩnh vực nông nghiệp nông thôn, tạo cơ hội cho Việt Nam khai
thác các lợi thế tiềm năng về nông nghiệp.
+ Khi tham gia TPP, thuế suất giảm về 0%, mang lại cơ hội xuất khẩu cho
các doanh nghiệp trong nước và bình đẳng hơn giữa các doanh nghiệp trên sân
chơi toàn cầu, có tác động tích cực đến đời sống sinh kế của người dân, cải thiện
sức cạnh tranh của hàng hóa xuất khẩu, nâng cao kim ngạch xuất khẩu cả nước.
381
- + Gia nhập TPP giúp cải thiện và hiện đại hóa nền sản xuất nông nghiệp, cải
thiện tình trạng sản xuất manh mún, nhỏ lẻ nâng cao chất lượng sản phẩm, tham
gia sâu hơn vào chuỗi giá trị sản xuất toàn cầu.
- Hội nhập sâu hơn vào thị trường tài chính thế giới: Các luồng vốn đầu tư
quốc tế vào Việt Nam cũng sẽ tăng mạnh, tạo thuận lợi cho hệ thống ngân hàng
tăng cường thanh khoản và tiếp cận các nguồn vốn quốc tế với chi phí thấp hơn.
Vì vậy, tham gia TPP sẽ tạo thành thị trường mở, minh bạch hơn và thúc đẩy đầu
tư vào Việt Nam. Hiện nay, dòng vốn từ nhiều nước thành viên TPP có trình độ
phát triển cao hơn hẳn chúng ta, điều này có thể mang lại những lợi ích đáng kể
trong việc giao lưu về công nghệ và kỹ năng quản lý. Ngoài ra, gia nhập TPP sẽ
mở ra cơ hội thu hút đầu tư, hợp tác với các nước nhằm hiện đại hóa sản xuất,
nâng cao chất lượng sản phẩm, thúc đẩy phát triển ngành công nghiệp hỗ trợ cũng
như mở rộng quy mô sản xuất của các doanh nghiệp nhỏ và vừa của Việt Nam.
- Thúc đẩy cạnh tranh bình đẳng giữa các loại hình doanh nghiệp: Với việc
tham gia TPP, các doanh nghiệp nhà nước (DNNN) sẽ không còn được hưởng
các ưu đãi như trước đây nữa, điều này sẽ tạo cơ hội cho các doanh nghiệp tư
nhân phát triển và cạnh tranh bình đẳng, đồng thời tạo sức ép thúc đẩy các DNNN
chủ động nâng cao năng lực cạnh tranh và năng lực quản lý nhằm giảm thiểu dần
gánh nặng nhà nước, tạo điều kiện kích cầu cho nền kinh tế phát triển.
- Thúc đẩy cân bằng cơ cấu ngành ở các khu vực kinh tế bởi TPP có khả
năng kích thích các nhà đầu tư nội địa cũng như nước ngoài trong khu vực đầu tư
sản xuất các ngành công nghiệp hỗ trợ nhằm tạo nguồn nguyên vật liệu tại chỗ
phục vụ các ngành kinh tế khác.
- Tham gia TPP tạo cơ hội cho Việt Nam hoàn thiện thể chế nền kinh tế thị
trường trong điều hành chính sách vĩ mô, xây dựng cơ chế chính sách và quản lý
nền kinh tế thị trường theo hướng sâu hơn và toàn diện hơn.
Đâu là thách thức?
Mặc dù tham gia TPP sẽ mở rộng thị trường xuất khẩu nhưng với quy mô
nền kinh tế và cơ cấu các ngành sản xuất chưa phù hợp với các quy định của TPP
nên ảnh hưởng lớn đến việc tham gia chuỗi giá trị sản xuất toàn cầu, một số
ngành hàng như may mặc, giày dép, trang thiết bị nội thất, điện tử... hiện nay chủ
yếu xuất khẩu nguyên liệu thô, chưa qua sơ chế hoặc gia công nên khiến việc
cạnh tranh về giá cả, chất lượng, giá trị tăng thêm của hàng hóa… trở nên yếu.
Mặc khác ngành công nghiệp hỗ trợ còn yếu nên khó khai thác được các ưu đãi từ
TPP khi tham gia chuỗi giá trị sản xuất do năng lực cung ứng từ nội địa còn yếu.
382
- Bên cạnh đó, quy mô doanh nghiệp của ta còn nhỏ, khó thâm nhập vào
chuỗi giá trị sản xuất và phân phối sản phẩm cho thị trường xuất khẩu từ TPP nên
khó đứng vững; song song với đó, sức ép thị trường từ TPP sẽ càng đẩy doanh
nghiệp Việt Nam vào thế bị động nếu không có giải pháp kịp thời và sáng tạo do
chưa thích ứng kịp thời.
Ngoài ra, hiện nay các doanh nghiệp Việt Nam vẫn được bảo hộ từ chính
phủ bằng các mức thuế quan, khi tham gia TPP sẽ đặt ra yêu cầu đưa thuế suất về
không và đối xử công bằng như các thành viên khác trong TPP nên đây là những
thách thức lớn nếu doanh nghiệp chúng ta không chuẩn bị kỹ, nhất là đối với các
ngành sản xuất hiện nay đang được bảo hộ như công nghiệp ô-tô, các ngành nông
nghiệp, đặc biệt là chăn nuôi vốn chủ yếu là sản xuất nhỏ, manh mún sẽ không có
khả năng cạnh tranh trước các đối thủ có kinh nghiệm, thương hiệu và sản xuất
truyền thống.
Đặc biệt, khi tham gia TPP yêu cầu bảo hộ sở hữu trí tuệ càng trở nên khắc
nghiệt, trong khi yêu cầu này của ta trong thời gian qua chưa làm tốt, đôi lúc còn
buông lỏng, đây có thể nói là yêu cầu tối thượng của cuộc chơi. Vì vậy, nguy cơ
“hầu tòa” do vi phạm luật sở hữu trí tuệ sẽ luôn đặt ra nếu chúng ta không chú
trọng và làm tốt.
Chuẩn bị gì khi tham gia TPP
- Cải cách thủ tục hành chính: Cần xây xây dựng môi trường hành chính
minh bạch và công khai, các nhũng nhiễu, nhiêu khê, phiền hà, tham nhũng cần
phải được xử lý triệt để, trách nhiệm minh bạch và giải trình cần phải được tăng
cường nhằm tăng độ tạo tin cậy từ các nước tham gia TPP.
- Hoàn thiện thể chế: Tiếp tục cải cách môi trường pháp lý, chính sách điều
hành kinh tế vĩ mô để bảo đảm hướng tới một “chuẩn” thống nhất theo quy định
của TPP, các Bộ, Ban ngành trung ương cần sớm tham mưu chính phủ các quy
định theo luật chơi quốc tế mà cả các bên cùng thắng “Win - Win”. Chính phủ
cần cam kết hơn nữa trong việc cải cách chính sách thương mại, các tiêu chuẩn
hải quan, tiêu chuẩn kỹ thuật... theo thông lệ quốc tế để gia nhập sớm có hiệu quả.
- Xây dựng cơ chế phối hợp kiểm tra, giám sát đồng bộ: Các Bộ, ngành
trung ương và doanh nghiệp cần có sự phối hợp trong công tác tiếp cận, phòng
ngừa… nhằm đánh giá toàn diện những tiêu cực từ thị trường xuất khẩu và những
biến động trong nhóm TPP, tạo điều kiện để các doanh nghiệp trong nước nâng
cao năng lực cạnh tranh, tham gia chuỗi giá trị sản xuất và cung ứng sản phẩm
cho thị trường. Các chính sách điều hành kinh tế vĩ mô và thúc đẩy cung - cầu
383
- nền kinh tế cần được kiểm tra và giám sát liên ngành, liên bộ để hạn chế thấp nhất
những rủi ro. Công tác thông tin, báo cáo, phân tích thị trường… cần được làm rõ
để doanh nghiệp trong nước tiếp cận nhanh và kịp thời.
- Liên kết hội nhập: Có thể nói đây là cơ hội để các doanh nghiệp trong
nước tận dụng lợi thế về vốn, kỹ thuật, kinh nghiệm quản lý, điều hành… từ các
đối tác nước ngoài để nâng cao năng lực sản xuất và cạnh tranh thị trường. Cần
bám sát lộ trình và các quy định về mở cửa thị trường TPP nhằm xây dựng kế
hoạch đầu tư, sản xuất hiệu quả, nâng cao năng lực cạnh tranh của mình, tận dụng
được cơ hội tham gia chuỗi cung ứng trong khu vực. Mặc khác, ngoài việc liên
kết với các đối tác nước ngoài, các doanh nghiệp trong nước cũng cần có sự liên
kết với nhau nhằm tạo sức mạnh tổng hợp, phát huy năng lực nội sinh nhằm tạo
thế cạnh tranh bền vững với các doanh nghiệp nước ngoài.
384
- NHỮNG CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC MÀ HIỆP ĐỊNH
ĐỐI TÁC XUYÊN THÁI BÌNH DƯƠNG (TPP) ĐEM LẠI CHO
LAO ĐỘNG VIỆT NAM
Lê Thị Thùy Dung
Học viện Chính trị khu vực II
Tóm tắt
Gia nhập Hiệp định TPP sẽ tạo cho Việt Nam nhiều cơ hội và thách thức
đối với nhiều lĩnh vực kinh tế- xã hội như thương mại, đầu tư và phát triển, viễn
thông và thương mại điện tử,…Trong đó vấn đề về lao động Việt Nam trong thời
kỳ hội nhập là vấn đề rất được quan tâm. Việt Nam tham gia Hiệp định TPP sẽ
tạo ra nhiều cơ hội cho lao động Việt Nam. Thứ nhất là cơ hội việc làm: TPP sẽ
góp phần thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam tạo ra nhiều công ăn việc
làm cho lao động Việt Nam. Thứ hai là có có cơ hội nâng cao chất lượng lao
động. Thứ ba là giúp cải thiện tiền lương của người lao động và cuối cùng là
nâng cao hiệu quả phân bổ nguồn lực lao động. Bên cạnh những cơ hội đó thì lao
động Việt Nam cũng gặp rất nhiều thách thức đòi hỏi Đảng Nhà nước và doanh
nghiệp cần có những giải pháp tích cực nhằm đối phó với những thách thức
nhằm hoàn thiện lao động Việt Nam.
1. Đặt vấn đề
Hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay đang là một xu thế khách quan. Trong
hơn một thập kỷ qua xu thế toàn cầu hóa nền kinh tế thế giới có sự gia tăng mạnh
mẽ. Sự gia tăng mạnh mẽ của toàn cầu hóa kinh tế đặt ra yêu cầu khách quan đòi
hỏi các quốc gia phải có chiến lược, hội nhập phù hợp với nền kinh tế thế giới và
khu vực. Trong bối cảnh này không thể phát triển nếu như không mở cửa hội nhập.
Việt Nam đang trong quá trình đổi mới chuyển sang phát triển nền kinh tế thị
trượng theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Việc đẩy mạnh tham gia hội nhập với
nền kinh tế thế giới và khu vực là một vấn đề quan trọng trong công cuộc đổi mới.
Hiện nay, để phát triển kinh tế xã hội với các trên thế giới và khu vực hơn nữa
ngoài những hiệp định đã có, Việt Nam vẫn tiếp tục tham gia vào những hiệp định
mới. Trong đó phải kể đến Hiệp định đối tác thương mại xuyên Thái Bình Dương
385
- (Trans - Pacific Partnership - TPP) - hiệp định được đánh giá là cơ hội không thể
bỏ qua.
Tháng 11 năm 2010, sau khi tham gia 3 phiên đàm phán TPP với tư cách
thành viên liên kết, Việt Nam đã chính thức tham gia đàm phán TPP với tư cách
đầy đủ. Quy mô của TPP sẽ tạo ra nhiều thuận lợi cho nền kinh tế Việt Nam về
các lĩnh vực quan trọng như tài chính ngân hàng, đầu tư, viễn thông và thương
mại điện tử, xuất khẩu hàng hóa,…Tuy nhiên bên cạnh những thuận lợi đó, Việt
Nam cũng phải đối mặt với những thách thức không nhỏ. Trong đó, vấn đề lao
động khi Việt Nam tham gia Hiệp định TPP cũng là vấn đề cần được quan tâm.
2. Khái quát về Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP)
TPP - Hiệp định hợp tác kinh tế, chiến lược xuyên Thái Bình Dương (một
hiệp định thương mại tự do nhiều bên), được kí kết với mục đích thiết lập một
mặt bằng thương mại tự do cho các nước châu Á - Thái Bình Dương. Hiệp định
này được ký kết ngày 3-6-2005, có hiệu lực từ 28-5-2006 giữa 4 nước Singapore,
Chile, New Zealand, Brunei (vì vậy hiệp định này còn gọi là P4). Và đến năm
2007 P4 quyết định mở rộng phạm vi đàm phán của Hiệp định.
Tháng 9-2008, Hoa Kỳ tỏ ý định muốn đàm phán để tham gia TPP. Sau đó,
tháng 11-2008, các nước khác là Australia, Peru, Việt Nam cũng thể hiện ý định
tương tự. Hiện nay, có 12 quốc gia đang đàm phán TPP, ngoài 8 quốc gia có tên
trên, con thêm các nước Malaysia, Mexico, Canada và Nhật.
Thỏa thuận TPP gồm 29 chương, trong đó chỉ có 5 chương là trực tiếp liên
quan đến vấn đề trao đổi hàng hóa, dịch vụ, các chương còn lại đề cập nhiều vấn
đề liên quan đến các chuẩn mực, tiêu chuẩn khác nhau về môi trường, chất lượng
lao động, luật lệ tài chính, thực phẩm và thuốc men… TPP sẽ loại bỏ nhiều lợi ích
của các công ty nhà nước để tạo cơ hội cạnh tranh cho các công ty tư nhân.
Với hiệp định TPP, các công ty, tập đoàn nước ngoài và quốc tế có khả
năng mang chính phủ các quốc gia thành viên ra toàn án đặc biệt của TPP khi các
quốc gia này đặt ra các luật lệ, chính sách đi ngược lại với các tiêu chí của
TPP. Tòa án đặc biệt này có toàn quyền bắt chính phủ đền bù không những cho
các thiệt hại đã xảy ra, mà còn những mất mát về cơ hội trong tương lai của các
tập đoàn, công ty quốc tế.
Các thành viên trong TPP đều đã phải ký một thỏa thuận giữ bí mật về tiến
trình thương lượng chi tiết các điều luật của TPP. Các nước này chỉ được tiết lộ
những thông tin trên đến các cơ quan chính phủ, tổ chức và các cá nhân có liên
quan trực tiếp đến tư vấn chính sách giao dịch.
386
- Mục tiêu của TTP là giảm 90% các loại thuế xuất nhập khẩu giữa các nước
thành viên trước ngày 1/1/2006 và đến năm 2015 cắt giảm tới bằng 0%. Đây là
một thỏa thuận toàn diện bao quát tất cả các khía cạnh chính của hiệp định
thương mại tự do bao gồm trao đổi hàng hóa, các quy định về xuất xứ, can thiệp,
rào cản kĩ thuật, vấn đề về sở hữu trí tuệ….
3. Cơ hội và thách thức của lao động Việt Nam khi tham gia Hiệp
định TPP
Hội nhập khu vực đang nổi lên đóng vai trò chủ đạo với nhiều hình thức
phong phú, đa dạng, đặc biệt là tại khu vực Châu Á - Thái Bình Dương. Xu thế
này không chỉ phản ánh sự mưu cầu lợi ích kinh tế mà còn phản ánh cục diện
chính trị quốc tế mới, sau sự nổi lên nhanh chóng của một số nước đang phát triển
hàng đầu.
Tham gia Hiệp định TPP sẽ giúp Việt Nam có thêm điều kiện, tranh thủ hợp
tác quốc tế để phục vụ chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, triển khai chiến lược
hội nhập quốc tế nói chung và chiến lược đối ngoại ở khu vực châu Á - Thái Bình
Dương nói riêng, nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.
Tham gia vào Hiệp định TPP, một cấu trúc quan trọng của khu vực, Việt
Nam sẽ gặp không ít cơ hội và thách thức, đặc biệt là trong vấn đề lao động.
3.1. Cơ hội
Thứ nhất là cơ hội về việc làm
Với tư duy mở cửa chưa từng có, TPP vừa được 12 nước thống nhất sẽ mở
ra cơ hội tiếp cận thị trường, hỗ trợ phát triển sản xuất trong toàn khu vực và xác
lập tiêu chuẩn mới cho thương mại toàn cầu. Bộ trưởng Thương mại của 12 nước
tham gia đàm phán TPP đã thống nhất đạt một hiệp định với tiêu chuẩn cao, tham
vọng, toàn diện và cân bằng, qua đó giúp thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, hỗ trợ việc
làm, giúp nâng cao mức sống của người dân, giảm nghèo, khuyến khích sự minh
bạch, hiệu quả điều hành cũng như cải thiện việc bảo vệ người lao động.
Khi tham gia Hiệp định TPP, hàng hóa có xuất xứ Việt Nam có cơ hội tiếp
cận các thị trường Mỹ, Nhật Bản, Canada... với thuế nhập khẩu bằng 0%. Kết hợp
với các cam kết rõ ràng hơn về cải thiện môi trường đầu tư và bảo hộ quyền sở
hữu trí tuệ, TPP sẽ góp phần thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam, nhất là
từ các tập đoàn lớn. Nếu biết tận dụng thời cơ này, Việt Nam sẽ hưởng lợi từ làn
sóng đầu tư mới, tạo ra nhiều công ăn việc làm, hình thành năng lực sản xuất mới
để tận dụng các cơ hội xuất khẩu và tham gia các chuỗi giá trị trong khu vực và
387
- toàn cầu. TPP cũng tạo cơ hội cho các doanh nghiệp đẩy mạnh xuất khẩu hàng
hoá, mở rộng sản xuất, kinh doanh, tạo thêm nhiều công ăn việc làm cho người
lao động, trong đó tập trung vào các ngành, lĩnh vực như: may mặc, giầy da, thủy
hải sản, lắp ráp thiết bị điện tử ...
Thứ hai là về tiền lương
TPP vừa là đòi hỏi bắt buộc, vừa là động lực để thay đổi cơ cấu đầu tư,
chuyển dịch nền kinh tế, nâng cao năng lực cạnh tranh và năng suất lao
động. Trong xu thế hội nhập và chiều hướng phát triển hiện nay, khi gia nhập
TPP, với tầm nhìn lâu dài và tổng thể, tiền lương và thu nhập của người lao động
có xu hướng được cải thiện tốt hơn.
Thứ ba là nâng cao tay nghề lao động
Khi tham gia vào Hiệp định TPP, bên cạnh dòng hàng hóa, dịch vụ, vốn đầu
tư, vốn, thì nguồn lao động di chuyển tự do giữa các nước trong hiệp định là
nguồn lao động có kỹ năng. Một thị trường lao động nói chung và một phân khúc
thị trường lao động có trình độ cao, lao động có kỹ năng sẽ nhanh chóng được
hình thành trong TPP. Việt Nam là một thành viên của TPP cho nên việc lao động
di chuyển giữa các nước thành viên trong đó có Việt Nam là tất yếu và cũng là cơ
hội để quá trình hội nhập và cạnh tranh trên phân khúc thị trường lao động có kỹ
năng. Cạnh tranh trên thị trường lao động sẽ trở nên gay gắt và sự tham gia của
lao động nước ngoài trên thị trường lao động Việt Nam cũng tất yếu. Sức ép cạnh
tranh giữa các ngành, lĩnh vực, các doanh nghiệp trong và ngoài nước cũng góp
phần tạo điều kiện để thị trường lao động phát triển. Thông qua đó, góp phần tạo
động lực thúc đẩy mọi người lao động phải phấn đấu nâng cao trình độ, kỹ năng
và ý thức lao động đáp ứng yêu cầu thị trường lao động. Ngoài ra, TPP làm tăng
cơ hội để người lao động tiếp cận trực tiếp với nền sản xuất hiện đại, với trình độ
và kinh nghiệm quản lý, điều hành sản xuất, kinh doanh tiên tiến của thế giới, qua
đó góp phần nâng cao trình độ, kỹ năng, tác phong lao động, kiến thức tổ chức,
quản lý của người lao động.
Thứ tư là về phân bổ nguồn lực lao động
Thị trường lao động Việt Nam đang được các nhà đầu tư, tuyển dụng đánh
giá cao khi dân số Việt Nam đang ở thế “cơ cấu dân số vàng” (tức người trong độ
tuổi lao động nhiều gấp đôi người ngoài độ tuổi lao động), nó đang tạo ra nhiều
thuận lợi cho sự phát triển kinh tế đất nước. Khi Hiệp định TPP có hiệu lực, việc
tự do hóa thương mại và đầu tư cũng luôn dẫn đến tăng nhu cầu lao động, mức
linh hoạt của thị trường lao động sẽ tăng lên và từ đó dẫn đến việc nâng cao hiệu
quả phân bổ nguồn lực lao động.
388
- 3.2. Thách thức
Bên cạnh những cơ hội và thuận lợi không thể phủ nhận, thì khi tham gia
TPP, Việt Nam cũng phải đối mặt với nhiều nguy cơ, thách thức và những khó
khăn không hề nhỏ, đặc biệt là với lao động Việt Nam.
Thứ nhất là chất lượng lao động
Về trình độ chuyên môn: Thống kê của cơ quan chức năng cũng cho thấy,
năm 2013, lực lượng lao động qua đào tạo của nước ta chỉ chiếm gần 18% và đến
năm 2015, tỷ lệ này mới được nâng lên thành 19,5% - một con số còn quá khiêm
tốn và không đáp ứng được nhu cầu thực tiễn cho ngay cả các doanh nghiệp trong
nước. Chúng ta cũng cần nhìn thẳng vào vấn đề, nhìn chung trình độ, tay nghề lao
động của nước ta còn thấp. Lực lượng nhân công trong các nhà máy xí nghiệp
đang hoạt động hiện nay thường tham gia các công đoạn đơn giản trong các quy
trình sản xuất sản phẩm. Họ chủ yếu sản xuất gia công sản phẩm theo đơn đặt
hàng của nước ngoài kiểu “thuê gì làm nấy” nên luôn ở thế bị động. Vì không có
điều kiện ổn định sản xuất để nâng cao tay nghề, nên trình độ chuyên môn hóa
trong lao động của nước ta không cao, kể cả so với các doanh nghiệp có vốn đầu
tư nước ngoài (FDI) đang hoạt động trong cùng lãnh thổ Việt Nam. Do vậy, việc
gặp phải sự cạnh tranh gay gắt về trình độ lao động trong một nội khối TPP bình
đẳng sẽ xảy ra như một tất yếu.
Về năng suất lao động: Việt Nam chúng ta vẫn dùng lao động giá rẻ để cạnh
tranh. Cụ thể, Việt Nam đang đứng trước nguy cơ bị bỏ lại phía sau trong cuộc
đua phát triển kinh tế bởi vẫn cạnh tranh bằng nhân công giá rẻ chứ không phải
cạnh tranh trên nền tảng đổi mới, sáng tạo như Singapore hoặc yếu tố hiệu quả
như Hàn Quốc, Malaysia. Trong khi đó, năng suất thấp là nguyên nhân chính kìm
hãm năng lực cạnh tranh - chìa khoá của tăng trưởng kinh tế. Dù liên tục tăng
năng suất lao động trong thời gian qua song năng suất lao động của Việt Nam so
với các nước trên thế giới và khu vực thì chỉ bằng 1/18 của Singapore, 1/6 của
Malaysia, 1/3 của Thái Lan và Trung Quốc. Như vậy, năng suất lao động của Việt
Nam thuộc diện thấp so với khu vực.
Về kỷ luật lao động: Cùng với phát triển trình độ lao động thì phát triển kỹ
năng mềm rất quan trọng trong thời kỳ hội nhập, đặc biệt là khi Việt Nam gia
nhập Hiệp định TPP. Kỹ năng ở đây không chỉ là giao tiếp, làm việc nhóm mà
còn là tác phong công nghiệp. Đặc trưng của lao động Việt Nam là chưa quen với
xã hội công nghiệp, làm việc còn rời rạc, thiếu tính kỷ luật, tác phong công
nghiệp yếu, một bộ phận lớn người lao động hiện nay chưa được tập huấn về kỷ
389
- luật lao động công nghiệp, tùy tiện về giờ giấc và hành vi. Người lao động chưa
được trang bị các kiến thức và kỹ năng làm việc theo nhóm, thiếu khả năng hợp
tác và gánh chịu rủi ro, ngại phát huy sáng kiến và chia sẻ kinh nghiệm làm việc
nên các doanh nghiệp trong và ngoài nước không hài lòng. Kỷ luật lao động nước
ta còn kém so với nhiều quốc gia trong khu vực. Vì vậy, đây là một thách thức
lớn cho lao động Việt Nam khi hội nhập kinh tế quốc tế.
Thứ hai là vấn đề việc làm và thu nhập của người lao động.
Bên cạnh những tác động tích cực thì vấn đề tự do hóa thương mại của TPP
cũng sẽ làm cho một bộ phận lao động mất việc do các doanh nghiệp không có
khả năng cạnh tranh, dẫn đến phải thu hẹp sản xuất thậm chí giải thể, phá sản. Vì
vậy, trước mắt khi tham gia TPP, lao động Việt Nam có thể phải chịu những bất
lợi sau đây:
Đầu tiên là cùng với mở cửa thị trường, hàng hóa của các nước đặc biệt là
hàng tiêu dùng sẽ nhập khẩu vào Việt Nam với số lượng ngày càng lớn và đa
dạng. Hàng nhập khẩu với nhiều ưu thế về chất lượng, giá cả và tâm lý thích dùng
hàng ngoại của người Việt sẽ rất dễ chiếm lĩnh thị trường. Tình trạng này khiến
doanh nghiệp trong nước gặp nhiều khó khăn, phải thực hiện tái cơ cấu, sắp xếp
lại, thu hẹp sản xuất, phá sản dẫn đến lao động trong các doanh nghiệp đó bị mất
việc làm.
Tiếp theo là cùng với quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước,
tham gia TPP sẽ góp phần thúc đẩy tốc độ di chuyển lao động từ nông thôn tới
thành phố và các khu công nghiệp. Sức ép về việc làm ở các khu đô thị sẽ tăng
lên. Vấn đề mất cân bằng giữa cung và cầu lao động có nguy cơ trở nên trầm
trọng hơn dẫn đến tỷ lệ thất nghiệp có nguy cơ tăng cao.
Thu nhập của người lao động Việt Nam nhìn chung còn thấp; lương tối
thiểu mới chỉ đáp ứng khoảng 70% nhu cầu tối thiểu và khoảng 80% lao động
Việt Nam không có tích lũy hoặc chỉ có mức tích lũy dưới 2 triệu đồng một người
mỗi tháng.
Thứ ba là về thực thi các tiêu chuẩn quốc tế về lao động.
Tất cả các quốc gia thành viên TPP trong đó có Việt Nam đều là thành viên
của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO: International Labour Organization) và các
thành viên đã công nhận tầm quan trọng của việc thúc đẩy các quyền của người
lao động đã được quốc tế công nhận. Các quốc gia thành viên của TPP nói chung
và Việt Nam nói riêng đều nhất trí thông qua và duy trì trong luật của họ và thực
hiện các quyền lao động cơ bản được ghi nhận trong Tuyên bố ILO năm 1998, cụ
thể là quyền tự do lập hội và quyền đàm phán tập thể; xóa bỏ lao động cưỡng
390
- bức; bãi bỏ lao động trẻ em và việc cấm các hình thức lao động trẻ em tồi tệ nhất;
và loại bỏ phân biệt đối xử trong việc làm. Các quốc gia thành viên TPP cũng
đồng ý có luật điều chỉnh tiền lương tối thiểu, giờ làm việc, và sự an toàn và sức
khỏe nghề nghiệp. Ngoài ra các quốc gia thuộc TPP sẽ phải áp dụng nhiều tiêu
chuẩn cao hơn nữa. Trong đó, đáng lưu ý là “đảm bảo các điều kiện lao động
chấp nhận được” gồm tiền công tối thiểu, thời giờ làm việc, an toàn vệ sinh lao
động, lao động trẻ em.
Về cơ bản, pháp luật Việt Nam hiện nay đã có những quy định cụ thể về
tiền công tối thiểu, thời gian làm việc và an toàn vệ sinh lao động, lao động trẻ
em. Nhưng hiệu quả thực tế của những chuẩn mực này vẫn còn nhiều điểm chưa
đáp ứng được yêu cầu theo TPP. Điều đó đồng nghĩa với việc chúng ta sẽ không
được hưởng mức thuế nhập khẩu 0% từ các nước thành viên nếu không cải thiện
các tiêu chuẩn này.
4. Giải pháp
4.1. Đối với Nhà nước
Cần đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền về Hiệp định TPP, đặc biệt
về lao động có kỹ năng cao, các tiêu chuẩn cụ thể được các nước trong hiệp định
khác công bố và áp dụng; đồng thời, tổng kết kinh nghiệm thích nghi và sẵn sàng
của các quốc gia khác để làm bài học tham chiếu cho Việt Nam. Công tác thông
tin về tình hình lao động các nước cũng cần được công bố công khai để các doanh
nghiệp, dân cư tiếp cận thuận lợi. Theo đó, các thỏa thuận được ký kết cần thông
báo cụ thể đến từng doanh nghiệp và dân cư, đặc biệt tới đội ngũ sinh viên các
trường đại học, cao đẳng, phổ thông trung học, trung tâm dạy nghề… chuẩn bị tốt
nghiệp. Các cuộc hội thảo, diễn đàn, trang thông tin điện tử và định hướng dư
luận cần đặc biệt được coi trọng.
Bên cạnh đó cần quản lý chặt chẽ vấn đề đào tạo lao động. Tránh trường
hợp đào tạo tràn lan nhưng chất lượng không đảm bảo, không đáp ứng yêu cầu.
Nước ta có hơn 500 trường đại học, cao đẳng nhưng lao động có chất lượng
chuyên môn đáp ứng được yêu cầu của doanh nghiệp còn thấp.
Nhà nước nên chủ trương sắp xếp và phát triển các cơ sở đào tạo và trung
tâm đào tạo nghề nghiệp nhằm thích nghi với điều kiện khi tham gia vào TPP,
trong đó cần chú ý tập trung đào tạo ngoại ngữ cho lao động Việt Nam.
391
- 4.2. Đối với doanh nghiệp
Cần tích cực, chủ động nghiên cứu thị trường TPP, trong đó có thị trường
lao động để có thể hiểu rõ hơn các tiêu chuẩn nghề nghiệp nhằm có kế hoạch
thích nghi. Tổ chức các khóa đào tạo kỹ năng, tay nghề, rèn luyện thể lực, cường
độ và năng suất lao động có thể thực hiện trong vòng 6 tháng đến 12 tháng nhằm
rèn luyện các loại kỹ năng cần thiết và cập nhật thông tin để thích nghi với thị
trường các nước trong hiệp định TPP.
4.3. Đối với cá nhân người lao động
Mặt bằng chung của lao động nước ta còn kém nhiều so với các nước trong
khu vực và thế giới. Vì vậy, chính bản thân người lao động phải tích cực chủ
động trong vấn đề nâng cao tay nghề, trình độ chuyên môn bằng cách chủ động
đăng ký tham gia các lớp đào tạo dạy nghề có chất lượng trên cả nước. Người lao
động nên dành nhiều thời gian để học hỏi và cập nhật những kỹ năng mới tránh
lạc hậu so với lao động nước ngoài./.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. PGS.TS. Hoàng Văn Châu “Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương
và vấn đề tham gia của Việt Nam, NXB Bách khoa Hà Nội, năm 2014.
2. Báo Chính phủ: http://baochinhphu.vn/Kinh-te/Noi-dung-co-ban-cua-
Hiep-dinh-TPP/238003.vgp
3. Báo Hội nhập: http://www.hoinhap.org.vn/
4. Tạp Chí tài chính: http://tapchitaichinh.vn/
5. Trang Thư viện pháp luật:http://thuvienphapluat.vn/tintuc/vn/hiep-dinh-
TPP/11921/ban-tieng-viet-cua-hiep-dinh-tpp-chuong-19-lao-dong
6. Trang Thư viện pháp luật: http://thuvienphapluat.vn/tintuc/vn/hiep-dinh-
TPP/11814/lao-dong-viet-nam-truoc-nguy-co-that-nghiep-khi-tham-gia-
tpp
392
nguon tai.lieu . vn