Xem mẫu

VỊ TRÍ THƯƠNG NHÂN TRUNG QUỐC TRONG TUYẾN
THƯƠNG MẠI THUYỀN BUỒM GIỮA MANILA (PHILIPPINES)
VÀ ACAPULCO (MEXICO) CỦA TÂY BAN NHA (1572 - 1815)
TRẦN THỊ QUẾ CHÂU
Trường Đại học Sư phạm – Đại học Huế
Tóm tắt: Thương mại thuyền buồm giữa Manila (Philippines) và Acapulco
(Mexico) của Tây Ban Nha còn được gọi là Manila Galleon1. Tuy nhiên, đối
với người Mexico, Manila Galleon còn được biết đến với tên gọi “Nao de
China” hay “China ship”. Tên gọi này phản ánh thực tế là hầu hết những
hàng hóa trên các Galleon đến với người Tân Tây Ban Nha đều có nguồn
gốc từ Trung Quốc. Từ sự gợi ý đó, chúng tôi khai thác vấn đề vị trí của
thương nhân Trung Quốc trong tuyến thương mại Manila Galleon. Vai trò đó
được thể hiện: các thương nhân Trung Quốc không chỉ cung cấp khối lượng
hàng hóa chủ yếu cho Manila Galleon mà còn nhập khẩu khối lượng bạc
trắng khổng lồ từ Châu Mĩ vào thị trường Trung Quốc. Ngoài ra lực lượng
thương nhân người Hoa ở Philippines đóng vai trò vô cùng cần thiết đối với
việc duy trì sự ổn định cho tuyến thương mại này.
Từ khóa: Thương mại thuyền buồm, Manila, Acapulco, thương nhân Trung
Quốc

1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Trong suốt thời kì đầu chinh phục và cai trị ở Philippines, Tây Ban Nha đã có nhiều nổ
lực để tìm hiểu, khai thác tiềm năng kinh tế của ở quần đảo này nhưng họ dường như thất
vọng. Gia vị - thứ tài sản quí giá của Moluccas không thể phát triển ở Philippines. Ngoài
ra, Philippines không có nhiều nguồn tài nguyên, nông nghiệp lạc hậu và không có công
nghiệp khai mỏ như thuộc địa Tây Ban Nha ở Châu Mỹ. Lợi tức mà Tây Ban Nha thu
được hằng năm không đủ chi trả cho bộ máy cai trị và những phí tổn khác ở thuộc địa.
Thiết lập thương mại với Trung Quốc là giải pháp duy nhất mà người Tây Ban Nha tính
đến để tiếp tục duy trì sự hiện diện của họ ở Philippines và Châu Á. Tuy nhiên, do sự
cạnh tranh và đối chọi mạnh mẽ của người Bồ Đào Nha, mục tiêu của họ đã nhanh chóng
thất bại, thay vì thiết lập quan hệ thương mại trực tiếp với Trung Quốc, họ buộc phải
chuyển sang chính sách thu hút thương nhân Trung Quốc đến Manila trao đổi hàng hóa.
Từ 1572 đến 1815, các thương nhân Trung Quốc có vị trí quan trọng đối với hoạt động
thương mại Tây Ban Nha ở Philippines nói chung và Manila Galleon nói riêng.
1

Galleon theo tiếng Tây Ban Nha nghĩa là thuyền buồm lớn. Một chuyến tàu từ Manila đi Acapulco hay
ngược lại được gọi là một Galleon. Hoạt động thương mại này tồn tại trong gần 2,5 thế kỉ từ 1572 – 1815
(năm Mexico giành được độc lập). Tàu từ Acapulco cập bến ở Manila thường mang theo một số lượng
lớn bạc trắng từ Châu Mĩ để đối lấy những hàng hóa có giá trị từ Châu Á: hương liệu từ Moluccas, gốm
sứ, ngọc bích và tơ lụa từ Trung Quốc, hàng sơn mài từ Nhật Bản, cây quế ở Philippines.
Tạp chí Khoa học và Giáo dục, Trường Đại học Sư phạm Huế
ISSN 1859-1612, Số 02(30)/2014: tr. 98-106

VỊ TRÍ THƯƠNG NHÂN TRUNG QUỐC TRONG TUYẾN THƯƠNG MẠI…

99

2. QUÁ TRÌNH TÂY BAN NHA THIẾT LẬP QUAN HỆ THƯƠNG MẠI VỚI
TRUNG QUỐC VÀ THƯƠNG NHÂN TRUNG QUỐC
Đối với người Tây Ban Nha, tài sản duy nhất có gía trị của thuộc địa Philippines lúc
bấy giờ chỉ là cây quế ở Mindanao và một số vùng ở Luzon. Để khai thác nguồn tài
nguyên này, Tây Ban Nha đã mở ra tuyến thương mại thuyền buồm lớn giữa Philippines
và Mexico. 6/1565, tàu San Pablo dưới sự chỉ huy của Filipe de Salcedo nhổ neo ở cảng
Cebu, đi về phía Bắc Thái Bình Dương, giữa 37 - 39 vĩ độ Bắc, cập bến ở Acapulco vào
8/9/1565. Tàu San Pablo chỉ chở một ít số lượng quế ở Mindanao, sáp ong và một số
sản phẩm địa phương khác ở Philippines. “Năm 1568, tàu San Pablo tiếp tục cuộc hành
trình vượt Thái Bình Dương của mình mang theo 15.000 pounds quế cho nhà vua Tây
Ban Nha và 25.000 pounds cho nhu cầu của cá nhân nhưng không may chuyến tàu đó bị
lạc mất ở Ladrones” [6, tr. 345-346]. Năm 1569, Lagaspi phàn nàn với Phó vương ở
Mexico rằng chúng ta sẽ chỉ kiếm được rất ít lợi nhuận từ cây quế của Philippines. Sự
nghèo nàn của thuộc địa Philippines là thách thức lớn đối với sự cai trị của Tây Ban
Nha thời kì đầu. Lợi tức hằng năm không đủ chi trả cho phí tổn của chính quyền thuộc
địa. Do đó, vua Tây Ban Nha, trực tiếp là Phó vương Mexico gửi viện trợ đến Manila
hằng năm. “Số tiền viện trợ không cố định, phụ thuộc vào nhu cầu của chính quyền
Philippines, trung bình P.250.000/năm. Trong đó, số tiền viện trợ cao nhất là
P.1.200.000 (1799), thấp nhất là P.72.801 (1752) [8, tr. 196].
Trong quá trình chinh phục Philippines, Miguel Legaspi nhận thấy tàu buôn của người
Moro xuất hiện ở Cebu chất đầy gốm sứ và lụa từ phía Bắc, hoàn toàn không phải có
nguồn gốc ở địa phương. Điều này có lẽ là sự gợi ý đầu tiên cho người Tây Ban Nha về
khả năng buôn bán với người Trung Quốc. Ngay lập tức, người Tây Ban Nha đưa
thuyền đến Canton trong nổ lực thiết lập một thương điếm để tiến hành buôn bán những
hàng hóa Phương Đông. Nhưng kế hoạch này đã gặp phải cản trở lớn, người Bồ Đào
Nha đã phản đối sự hiện diện của họ ở khu vực này. Người Bồ Đào Nha đã cố gắng
thuyết phục người Trung Quốc rằng “Tây Ban Nha không đáng tin cậy” và cuối cùng họ
đã thành công. Người Trung Quốc đã từ chối đề nghị của Tây Ban Nha về việc thiết lập
thương điếm và chỉ cho phép họ đem thuyền đến Canton để mua hàng hóa. Tuy nhiên,
người Tây Ban Nha nhận thấy rằng họ phải trả giá quá cao cho những hàng hóa mà họ
mua ở Canton, những hàng hóa này khi xuất khẩu sang Tân Tây Ban Nha thì giá của nó
sẽ cao hơn gấp nhiều lần. Năm 1593, Vua Philipp II ban hành sắc lệnh Hoàng gia cấm
người Tây Ban Nha đưa thuyền đến Canton và Macau để mua hàng hóa. Năm 1598,
Toàn quyền Francisco Tello de Guzman (1595-1602) cho phép phục hồi lại hoạt động
thương mại của Philippines với những quốc gia ở khu vực bởi vì thương mại được xem
là sự thuận lợi của thuộc địa. Juan Zammudio được cử đến Canton một lần nữa để thỉnh
cầu người Trung Quốc cho phép thiết lập một thương điếm 1 .Người Trung Quốc đã cho
1

Người Tây Ban Nha có những động cơ khác trong việc thiết lập thương điếm ở Canton. Họ có giấc mơ về việc cải
đạo cho toàn bộ Trung Quốc. Trong suốt thời kì của toàn quyền Diego Gonzalo Ronquillo de Penalosa (1580-1583),
Ông và Giám mục Domingo de Salazaz thảo luận kế hoạch xâm chiếm Trung Quốc và buộc mọi người dân ở đó
chấp nhận Thiên chúa giáo. Kế hoạch đó được biết với tên gọi “China enterpise” or “La empresa de China”. Kế
hoạch này cuối cùng bị từ bỏ vì những thành viên của cộng đồng tôn giáo phản đối.

100

TRẦN THỊ QUẾ CHÂU

phép người Tây Ban Nha xây dựng kho hàng ở Canton gọi là El Pinal (The Pine tree).
Khi hoạt động thương mại của người Tây Ban Nha ở Trung Quốc ngày càng phát triển,
người Bồ Đào Nha ở Macau bắt đầu chiến dịch hất cẳng người Tây Ban Nha khỏi El
Pinal. Trước những khó khăn gây ra bởi người Bồ Đào Nha, người Tây Ban Nha quyết
định trở lại Manila và suy nghĩ có một thương điếm ở Trung Quốc đã hoàn toàn tan biến.
Từ thời điểm này trở về sau (đến 1815 khi Mexico giành được độc lập) người Tây Ban
Nha phải dựa vào thương nhân Trung Quốc nhập khẩu hàng hóa vào Manila để chở
sang Acapulco và Seville (Tây Ban Nha).
3. SỰ KẾT NỐI THƯƠNG MẠI TRUNG QUỐC – MANILA – ACAPULCO QUA
MANILA GALLEON
Để thu hút hoạt động thương mại của khu vực và đối chọi với sự cạnh tranh của Bồ Đào
Nha ở Đông Nam Á, chính quyền Tây Ban Nha đã đề ra những chính sách khuyến
khích thương nhân Châu Á đến Philippines buôn bán. “Manila trở thành điểm đến của
các nhà buôn Trung Quốc, Nhật Bản, Siam, Cambodia và quần đảo Spice” [3, tr. 393].
Với vị trí không xa các thương cảng vùng duyên hải Đông Nam Trung Quốc, Manila đã
thu hút số lượng lớn thương thuyền từ đại lục và có thể nói những chuyến thuyền mành
(junks) chất đầy hàng hóa đến từ Trung Quốc là rất quan trọng đối với sự thịnh vượng
của Manila Galleon.
Từ Canton hoặc Amoy thuộc tỉnh Phúc Kiến hàng hóa trực tiếp mang đến Manila qua
đường biển, khoảng cách từ 650 – 700 miles. Trên những chiếc thuyền mành lớn đến
Philippines thường chở từ 200 – 400 người. Theo sự miêu tả của Tổng đốc Tây Ban
Nha ở Manila là Antonio de Morga “những thuyền buôn Trung Quốc thường đi theo
đoàn, thường vào đầu tháng 3 khi thời tiết ổn định, hành trình đến Manila mất khoảng
từ 15-20 ngày, sau khi bán xong hàng hóa của họ, họ mua hàng hóa và để không bị
nguy hiểm, họ đã quay trở về trước khi gió mùa đổi vào cuối tháng 6” [7, tr. 71].
Trong những hoạt động thương mại từ Trung Quốc đại lục đến Manila, các thuyền buôn
đến từ các cảng của Phúc Kiến luôn chiếm đa số và là lực lượng thuyền buôn chủ yếu.
“Chỉ từ năm 1571 đến năm 1600, đã có khoảng 630 thương thuyền từ cảng Nguyệt
Chương Châu xuất hành đến Manila”[4, tr. 24]. Tuy nhiên, con số thuyền buôn từ
Trung Quốc đến buôn bán hàng năm ở Manila rất thất thường do những biến động về
chính trị, kinh tế, xã hội từ cả hai phía. Những năm cuối thế kỉ XVI số lượng thuyền
buôn từ Trung Quốc được ghi lại như sau: “Năm 1572 có 3 thuyền cập bến Manila và 5
thuyền đến buôn bán ở những vùng khác. Năm 1574, có 6 thuyền đến Manila, và năm
1575 có từ 12 đến 15 thuyền. Những năm sau đó trao đổi buôn bán được củng cố và
năm 1580 có từ 40 đến 50 thuyền đến Philippines hằng năm” [6, tr. 347]. Vào nửa đầu
thế kỉ XVII, được xem là thời kì hoàng kim của thương mại Manila Galleon, số lượng
thuyền buôn Trung Quốc có sự gia tăng ổn định về số lượng, mỗi năm có 40-50 thuyền
đến Manila, đặc biệt vào năm 1626 có đến 100 thương thuyền đến Manila 1.
1

Xem thêm Dương Văn Huy (2010), Thương cảng Manila (Philippin) thế kỉ XVII, Nghiên cứu Đông
Nam Á, số 3-2010.

VỊ TRÍ THƯƠNG NHÂN TRUNG QUỐC TRONG TUYẾN THƯƠNG MẠI…

101

Trên mỗi chiếc thuyền mành đến từ Phúc Kiến, ngoài thủy thủ, thương nhân còn lại
được dành để chở số lượng lớn sản phẩm hàng hóa của Trung Quốc. Theo Antonio de
Morga, người đã chứng kiến thời kì hoàng kim của thương mại thuyền buồm đã đưa ra
một danh sách các loại hàng hóa được thương nhân Trung Quốc mang đến Manila như
sau: “những cuộn tơ sống, những tấm vải lụa tinh tế với nhiều màu sắc khác nhau, lụa
nhung trơn và một số được thêu rực rỡ và thời trang, các loại lụa bóng như satins,
taffetas với đủ màu sắc, vải lanh dệt từ cây cỏ, vải bông trắng. Họ còn mang cả xạ
hương, cánh kiến trắng và ngà voi, đồ trang trí giường ngủ, màn treo, khăn phủ giường
và thảm nhung thêu… ngọc trai và đá quí, pha lê, chậu bằng kim loại, ấm đun nước
bằng đồng, thiếc, chì và thuốc súng… và những thứ quí hiếm khác” và Morga đã nhấn
mạnh rằng: “Tôi sẽ không bao giờ có thể kể hết hoặc không bao giờ đủ giấy để viết về
những loại hàng hóa đó” [7, tr. 72].
Theo những chuyến thuyền buôn, nhiều người Trung Quốc từ các tỉnh miền Nam đã đến
sống định cư ở Philippines. Trong bức thư Tổng giám mục Tây Ban Nha ở Manila gửi
cho nhà Vua Tây Ban Nha Fillip II vào năm 1588 thì có “30 thương thuyền Trung
Quốc đến đây mang theo rất nhiều người, khiến cho số lượng người Trung Quốc ở đây
tăng lên. Hiện thời con số đó ở Manila đã lên tới hơn 10.000 người” [4, tr. 27]. Mặc dù
chịu sự kiểm soát chặt chẽ của chính quyền Tây Ban Nha nhưng số lượng người Hoa ở
Philippines tiếp tục gia tăng trong những năm tiếp theo, đến năm 1748 là 40.000 người.
Người Hoa ở Philippines sống tập trung trong khu cư trú gọi là Parian1, họ hoạt động
trong nhiều lĩnh vực khác nhau nhưng chủ yếu là thương nghiệp và dịch vụ và họ có vai
trò đáng kể trong hoạt động của Manila Galleon trong nhiều thế kỉ. Thương nhân người
Hoa đóng vai trò như những người trung gian/môi giới (middle - men), xây dựng mối
quan hệ cộng sinh với các thuyền buôn Trung Quốc để làm nhiệm vụ giao hàng, gom
hàng phục vụ cho Manila Galleon và các nhu cầu khác ở thuộc địa Philippines. Theo ghi
chép của mục sư Richard Walter trong thời gian ông ở Manila những năm 1740-1745
“Khu vực này là nơi giao dịch các thương phẩm chủ yếu từ Trung Quốc cho đến các
vùng của Ấn Độ để cung cấp cho thị trường Mexico và Peru. Những thương phẩm này
là hương liệu, các loại tơ lụa và đồ chế tác của Trung Quốc, đặc biệt là bí tất lụa dài
tay. Về thứ này chúng tôi nghe nói số lượng mỗi lần vận chuyển thông thường không ít
hơn 50.000 đôi… Cho đến nhiều loại thương phẩm nhỏ khác như các trang sức bằng
vàng. Những Hoa thương ở Manila thường thu mua những loại hàng hóa này, rồi chúng
được chở đến Acapulco của Mexico” [5, tr. 26-27].

1

Hiện nay có nhiều cách giải thích khác nhau về nguồn gốc của từ Parian (Xem Dương Văn Huy, người
Hoa ở Philippin dưới thời thuộc Tây Ban Nha, nghiên cứu Đông Nam Á 2/2011). Tác giả đã đưa ra cách
hiểu theo tiếng Tagalog, tiếng Mexico, tiếng Tây Ban Nha với nhiều nghĩa khác nhau. Gần đây có một
cách giải thích thuật ngữ này theo tiếng Trung Quốc, từ Parian có nguồn gốc từ tiếng Trung Quốc là
“Palien” có nghĩa là “organization” (Sự tổ chức). Theo nghĩa này, khu vực người Hoa được chính quyền
Tây Ban Nha tổ chức chặt chẽ để có thể dễ dàng quản lí và thu thuế (Shirley Fish, The Manila – Acapulco
Galleons: the treasure ships of the Pacific, Authorhouse, 2011, p. 115).

102

TRẦN THỊ QUẾ CHÂU

Phương thức thanh toán cho những thương nhân Trung Quốc
Khi những thương thuyền chở đầy hàng hóa từ Trung Quốc đến Manila, những quan
chức địa phương định giá hàng hóa và thu thuế nhập khẩu (3-6% tùy thời điểm) và thuế
thả neo. Sau khi thương nhân Trung Quốc trả xong các khoản thuế cho người Tây Ban
Nha, giữa họ bắt đầu diễn ra cuộc thương lượng về giá cả của các loại hàng hóa trên
thuyền. “Toàn quyền Tây Ban Nha và chính quyền thành phố Manila chọn 2-3 người
phù hợp để đứng ra đàm phán với đại diện những người nhập hàng Trung Quốc về giá
cả phải trả cho những hàng hóa trên mỗi chiếc thuyền. Để ngăn chặn sự tham nhũng,
thành viên của hội đồng này (gọi là Pancada) chỉ có thể giữ chức vụ của họ trong vòng
2 năm và chịu sự kiểm tra nghiêm ngặt” [6, tr. 348]. Mục đích của hệ thống Pancada là
nhằm hạn chế việc bán lẻ hàng hóa cũng như việc tăng giá bán một cách tùy tiện khi
chúng được nhập vào Manila. Nhờ đó hoạt động thương mại Manila Galleon trở thành
độc quyền khống chế bởi người Tây Ban Nha.
Khác với những hàng hóa đến từ Nhật Bản và một số quốc gia Châu Á khác được thanh
toán theo phương thức đổi hàng lấy hàng (barter), những hàng hóa từ Trung Quốc được
thanh toán theo phương thức “đổi hàng lấy bạc trắng”. Bạc trắng được chở từ Mexico,
Peru qua Manila Galleon hằng năm ngoài mục đích trả lương cho bộ máy cai trị thuộc
địa Philippines, phần còn lại chủ yếu dùng để thanh toán cho những hàng nhập khẩu từ
Trung Quốc. Theo ghi chép của Don Francisco Tello gửi cho Vua Tây Ban Nha Fillip
II: “Người Trung Quốc đến đây buôn bán mỗi năm đem bạc đi 80 vạn pesos, có lúc
vượt quá 100 vạn pesos”. Hay như tuyên bố của Tổng Giám mục Pedro de Baeza ở
Manila năm 1609 “bình quân mỗi năm khoảng 30-40 thuyền Phúc Kiến từ Manila vận
chuyển đi 250-300 vạn rial bạc trắng, số bạc trắng này chủ yếu dùng để mua hàng hóa
tơ sống và lụa tấm của Trung Quốc” [4, tr. 22].
Sau khi thanh toán xong, hàng hóa được dở xuống thuyền và chuyển vào kho hàng của
Tây Ban Nha ở Manila. Hầu hết những hàng hóa này được dành riêng để đóng gói chất
lên Galleon để chở sang Acapulco, trong khi phần còn lại thường được bán bởi thương
nhân ở Parian (khu định cư người Hoa ở ngoại thành Manila) cho những người mua ở
địa phương.
Lợi nhuận từ hoạt động thương mại Manila Galleon
Như vậy, hiểu một cách đơn giản, thương mại Manila Galleon là cầu nối giữa thị trường
Trung Quốc với Mexico qua cảng Manila. Bạc trắng từ Châu Mĩ rời Acapulco đến
Manila, hàng hóa từ Trung Quốc (có giá trị nhất là tơ lụa) đến Manila và ở đây bạc và tơ
lụa sẽ được trao đổi, thương nhân Trung Quốc sẽ đem bạc trắng về đại lục, trong khi
thương nhân Tây Ban Nha sẽ mang tơ lụa về Mexico. Sự trao đối này đã mang lại cho
thương nhân Tây Ban Nha và thương nhân Trung Quốc những món lợi nhuận khổng lồ.
Đây chính là sức hút mãnh liệt của Manila Galleon.

nguon tai.lieu . vn