Xem mẫu
- Về các tiêu chuẩn sản xuất thủy sản
bền vững
Mặc dù được tái tạo, song nguồn lợi thủy sản không phải là
vô tận. Vì vậy nghề cá cần được quản lý để duy trì được
những đóng góp về dinh dưỡng, kinh tế và phúc lợi XH cho
thế hệ hiện tại và tương lai.
Nhận thức tầm quan trọng của vấn đề, kỳ họp thứ 19 của
Ủy ban Nghề cá Thế giới (COFI) của Liên hợp quốc (LHQ)
đã đề ra việc xây dựng những khái niệm về nghề cá bền
vững. Trên cơ sở đó, Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp
của LHQ (FAO) đã chủ trì soạn thảo và sau khi lấy ý kiến
đóng góp của các tổ chức quốc tế và quốc gia thành viên,
ngày 31/10/1995 Đại hội đồng FAO đã thông qua bộ Quy
tắc ứng xử về Nghề cá có trách nhiệm (Code of Conduct
for Responsible Fisheries - CoC) như một tiếp cận khung
cần thiết cho các nỗ lực quốc gia và quốc tế nhằm khai thác
các nguồn lợi thủy sản bền vững, có trách nhiệm.
Qui tắc CoC bao gồm 4 nhóm yếu tố cơ bản: Trách nhiệm
với người tiêu dùng (dinh dưỡng, chất lượng, vệ sinh an
- toàn), trách nhiệm với người sản xuất (thu nhập, sức khỏe,
phúc lợi), trách nhiệm xã hội (an sinh, công bằng, giới tính,
tuổi lao động, văn hóa xã hội, xóa đói giảm nghèo), và
trách nhiệm môi trường và đối tượng sản xuất (ô nhiễm, sử
dụng tài nguyên, bảo tồn hệ sinh thái, an toàn dịch bệnh,
nhân đạo với vật nuôi).
Tiêu chuẩn tự nguyện và quy định pháp lý
Mặc dù CoC là một bộ quy tắc ứng xử tự nguyện, nhưng
nhiều phần của nó căn cứ trên các văn bản pháp lý quốc tế,
bao gồm cả Công ước về Luật Biển của LHQ 1982. Trên
cơ sở của CoC, các quốc gia và tổ chức quốc tế đã xây
dựng nhiều văn bản pháp lý, cụ thể hóa và pháp chế hóa
những nội dung chi tiết liên quan đến phát triển nghề cá
bền vững và thương mại thủy sản. CoC cũng là văn bản
tham chiếu quan trọng trong xây dựng nhiều văn bản của
các tổ chức như WTO, WHO và trong các vòng đàm phán
quốc tế về nghề cá. Luật Thủy sản (2003) và nhiều văn bản
quy phạm pháp luật của Việt Nam cũng có những nội dung
tham chiếu CoC.
- Từ tiếp cận phát triển bền vững, một số tổ chức xã hội,
nghề nghiệp phi chính phủ, và đi cùng với họ là một số hệ
thống thương mại đóng vai trò đại diện cho đòi hỏi của
khách hàng, đồng thời là người cung cấp tài chính, đã cụ
thể hóa các nội dung của CoC thành những hệ thống tiêu
chuẩn bền vững để đánh giá các nền sản xuất. Tùy theo
mục đích và đối tượng của tổ chức xây dựng, các tiêu
chuẩn này có thể ưu tiên cho một hoặc một vài khía cạnh
của bền vững như VSATTP, an toàn bệnh dịch, quyền lợi
của người lao động, an sinh xã hội hay bền vững môi
trường... Các tiêu chuẩn này không mang tính pháp lý, thực
hiện trên cơ sở tự nguyện, do các bên độc lập thứ ba đánh
giá và công nhận.
Hoạt động của dự án chứng nhận MSC cho nghề nghêu
Bến Tre (ảnh của WWF)
- Trước đây, dấu hiệu của chứng nhận tiêu chuẩn tự nguyện
có thể có hoặc không xuất hiện trên sản phẩm bán lẻ, do
người tiêu dùng các nước phát triển đặt niềm tin hoàn toàn
vào các nhà bán lẻ hay các dây siêu thị sẽ thay mặt họ thực
hiện tất cả các yêu cầu đối với sản phẩm. Nhưng trào lưu
hiện nay là mọi thứ đều được thể hiện trên bao bì sản phẩm.
Có thể vì người tiêu dùng ít tin hơn vào những người trực
tiếp đem hàng đến cho họ chăng?
Hiện nay, ở Việt Nam đã có một vài hệ thống chứng nhận
đối với NTTS, trong đó phổ biến hơn cả là SQF 1000 (Mỹ),
thủy sản hữu cơ (organic aquaculture – Naturland, Thụy
Sỹ), và từ đầu năm 2010 hàng loạt cơ sở nuôi tôm và cá tra
đã hoặc đang chuẩn bị để nhận chứng chỉ Global G.A.P.
Mặc dù cũng xoay quanh nội dung NTTS có trách nhiệm,
nhưng mỗi tiêu chuẩn này hướng vào những nhóm chỉ tiêu
khác nhau, tùy theo mối quan tâm và sở trường của những
tổ chức xây dựng nó.
PAD/ASC
Với vai trò là một tổ chức phi chính phủ hoạt động trong
lĩnh vực bảo vệ thiên nhiên và môi trường, Quỹ Quốc tế về
- Bảo vệ Thiên nhiên (WWF) rất tích cực khởi xướng xây
dựng các tiêu chuẩn về sản xuất bền vững. Phổ biến nhất ở
các nước phát triển là tiêu chuẩn về sản xuất lâm nghiệp
bền vững (FSC), với hơn 40% tổng diện tích rừng ở châu
Âu và Bắc Mỹ đã đạt chứng chỉ. Chứng nhận FSC thậm chí
là bắt buộc đối với đồ gỗ XK vào nhiều nước EU. Chứng
nhận Nghề cá biển Bền vững (MSC) cũng đang nhanh
chóng được áp dụng ở nhiều nước, trong đó Việt Nam là
nước đầu tiên ở châu Á nhận được chứng chỉ này cho nghề
khai thác thủ công nghêu Bến Tre vào năm 2009. Ngày
30/6/2010, Công ty CP Gò Đàng cũng đã nhận được chứng
nhận MSC cho sản phẩm nghêu của mình.
Từ năm 2007, WWF bắt đầu chú trọng đến việc xây dựng
các bộ tiêu chuẩn để góp phần giảm thiểu những tác động
có ảnh hưởng đến đến quá trình phát triển bền vững của
nghề NTTS, trước hết là một số đối tượng như cá tra/basa,
tôm, cá rô phi và cá hồi. WWF đã công bố bộ tiêu chuẩn
đối với cá tra/basa, gọi là Tiêu chuẩn Đối thoại Nuôi cá tra
(Pangasius Aquaculturre Dialogue Standards - PAD).
- WWF đặt tên gọi cho các tiêu chuẩn NTTS là Đối thoại,
nhằm nhấn mạnh việc xây dựng chúng đều tuân theo một
phương pháp tiếp cận như nhau, theo cơ chế đa thành phần
liên quan (có sự tham gia của tất cả các bên liên quan) và
trên cơ sở đồng thuận. Các tiêu chí thu thập qua phỏng vấn
và nghiên cứu được trình bày để đại diện các bên có liên
quan thảo luận và tìm ra những điểm chung nhất, đạt được
sự đồng thuận về các vấn đề cần giải quyết và cách thức
giải quyết phù hợp nhất đối với hoàn cảnh hiện tại. Các chỉ
tiêu được đặt ra, sau đó sẽ được liên tục đối chiếu, cập nhật
và sửa đổi - nếu cần - cho phù hợp với sự tiến bộ trong thực
tiễn sản xuất.
PAD đánh giá nghề nuôi cá tra bền vững theo 7 nguyên tắc:
1) Trại nuôi phải nằm trong vùng quy hoạch quốc gia và
địa phương.
2) Trại nuôi phải được lựa chọn vị trí, thiết kế và quản lý
sao cho hạn chế tối đa ảnh hưởng tiêu cực đến môi trường
và đến những người khác cùng sử dụng chung môi trường.
3) Giảm thiểu tác động của nghề nuôi đến nguồn lợi đất và
nước.
- 4) Giảm thiểu tác động của nghề nuôi đến nguồn gen của
quần đàn cá tra tự nhiên.
5) Sử dụng thức ăn và cách cho ăn bảo đảm nguồn thức ăn
bền vững và ở mức tối thiểu.
6) Giảm thiểu tác động xấu đến môi trường sống và sức
khỏe con người.
7) Phát triển và vận hành trại nuôi một cách có trách nhiệm
với xã hội, đóng góp hiệu quả vào sự phát triển xã hội và
xóa đói giảm nghèo.
Mỗi nguyên tắc trên được cụ thể hóa trong một hoặc nhiều
tiêu chí đánh giá khác nhau. Mỗi tiêu chí được tiếp tục chia
nhỏ thành một hoặc nhiều chỉ tiêu, trong đó một số chỉ tiêu
là định tính (trả lời cho câu hỏi: có/không? Ví dụ: có bằng
chứng về việc xả chất thải trực tiếp ra môi trường hay
không?), một số chỉ tiêu khác là định lượng (trả lời cho câu
hỏi: bao nhiêu? Ví dụ: hàm lượng ôxy hòa tan (DO) tối
thiểu trong nước thải bằng 3 mg/l). PAD cũng kèm theo
bảng các mục để kiểm tra đánh giá tại trại nuôi theo các chỉ
tiêu đó.
- Theo WWF, sự ra đời của các đối thoại như PAD là giai
đoạn quá độ để hình thành một Hội đồng Quản lý Nuôi
trồng thủy sản (Aquaculture Stewardship Council - ASC)
làm tổ chức điều phối chung, dự kiến sẽ ra đời vào giữa
năm 2011. ASC sẽ lựa chọn và ký thỏa thuận với các tổ
chức độc lập đủ năng lực làm bên thứ ba đánh giá và chứng
nhận sự tuân thủ các tiêu chuẩn. Với tiến độ này, khó hy
vọng trong năm 2011 sản phẩm có chứng nhận ASC sẽ có
mặt trên thị trường.
Từ các nguyên tắc nêu trên, có thể thấy mối quan tâm bền
vững của PAD hầu như chỉ tập trung vào các khía cạnh môi
trường, bảo vệ tính đa dạng sinh học của nguồn lợi và xã
hội mà ít đề cập đến một số khía cạnh khác như bệnh dịch,
VSATTP...
Có nên thực hiện tiêu chuẩn tự nguyện?
Các bộ tiêu chuẩn tự nguyện không mang tính pháp lý,
không bị các cơ quan thẩm quyền bắt buộc thực hiện. Việc
thỏa mãn chúng do một bên thứ ba là một tổ chức độc lập
đánh giá và công nhận. Việc các bộ tiêu chuẩn chú trọng
vào những khía cạnh khác nhau của thực tiễn sản xuất và
- được chấp nhận phổ biến ở các khối thị trường khác nhau
làm cho vấn đề trở thành rắc rối hơn, khi người sản xuất
phải thực hiện nhiều tiêu chuẩn khác nhau để bán hàng cho
các thị trường khác nhau.
Để được chứng nhận, nhà sản xuất phải đầu tư không ít,
không phải chỉ để trả phí cho hoạt động đánh giá, mà chủ
yếu là chi cho nâng cấp cải tạo điều kiện của cơ sở sản
xuất, áp dụng hệ thống quản lý và đào tạo nguồn nhân lực.
Tuy vậy, nhiều nhà sản xuất vẫn tự nguyện thực hiện, một
mặt vì chính thái độ trách nhiệm của họ đối với người tiêu
dùng sản phẩm do mình cung cấp; mặt khác do biết rằng
sản phẩm của mình sẽ dễ vượt qua những rào cản thương
mại hơn và đáp ứng được yêu cầu của khách hàng.
Số chuỗi phân phối sản phẩm hay siêu thị công bố chỉ chấp
nhận các sản phẩm được chứng nhận ngày càng nhiều hơn,
và số nhà sản xuất được chứng nhận cũng liên tục tăng. Và
suy cho cùng, chính những khách hàng đòi hỏi sản phẩm có
chứng nhận mới là người phải trả cho khoản chi phí đã bỏ
ra để thỏa mãn đòi hỏi cao hơn của họ. Ngay cả ở Việt
Nam hiện nay, ngày càng nhiều người tiêu dùng sẵn sàng
- trả giá cao hơn để mua các sản phẩm “sạch”, bảo đảm an
toàn hơn cho sức khỏe của họ.
Thậm chí, có những tiêu chuẩn sau đó đã được luật hóa trở
thành bắt buộc, chẳng hạn yêu cầu của tổ chức bảo tồn rùa
biển ở Mỹ đòi hỏi lưới kéo tôm phải gắn thiết bị giải thoát
rùa biển (TED), sau đó đã được Quốc hội Mỹ ban hành
thành luật. Điều tương tự cũng từng xảy ra với nhiều lĩnh
vực khác, chẳng hạn hệ thống quản lý vệ sinh an toàn thực
phẩm HACCP xuất xứ cũng là sáng kiến của công ty
Pillsbury nhằm sản xuất thực phẩm an toàn nhất dành cho
các phi công vũ trụ.
Nhưng cũng có không ít lời phàn nàn, phản đối các tiêu
chuẩn như vậy. Một số người lý luận, không cần chứng
nhận, họ cũng có đủ khách hàng sẵn sàng tiêu thụ sản
phẩm. Số đông hơn thì đòi hỏi xây dựng những bộ tiêu
chuẩn chung, toàn diện, được chấp nhận ở mọi thị trường
để giảm chi phí và thủ tục chứng nhận. Đòi hỏi này là hoàn
toàn chính đáng và là mục tiêu dài hạn phải hướng tới,
nhưng xem ra đích đến còn rất xa trong một thế giới đa cực
với đa dạng nhận thức về bền vững, cũng như sự quan tâm
- khác nhau của khách hàng và nhiều mối xung đột về quyền
lợi của những người bán hàng.
Ở Việt Nam, thậm chí còn có những lời phản bác khác về
sự tham gia chứng nhận của bên thứ ba. Điều này xuất phát
từ nhận thức khác nhau về vai trò của nhà nước. Ở các
nước phát triển, công tác chứng nhận được xã hội hóa, kể
cả việc chứng nhận tuân thủ các quy chuẩn pháp lý cũng
được trao cho các tổ chức độc lập tiến hành. Điều này
nhằm bảo đảm tính khách quan và tránh tiêu cực trong bộ
máy nhà nước, không để một cơ quan vừa kiểm tra, chứng
nhận – là hoạt động dịch vụ thu phí, vừa công nhận kết quả
kiểm tra đó. Trong khi đó, ở Việt Nam, nhiều cơ quan thẩm
quyền muốn giữ lấy cả hai phần việc, vừa để tăng “thu
nhập”, vừa để tăng quyền hành của mình.
Cũng cần phân biệt rõ những thái độ trên với việc người
sản xuất cá tra, các hiệp hội và cơ quan nhà nước Việt Nam
phản đối một số tổ chức thành viên WWF ở 6 nước EU đưa
cá tra vào “danh sách đo” trong cẩm nang hướng dẫn tiêu
dùng thủy sản năm 2010 - 2011 của họ vừa qua. Trong
trường hợp này, chúng ta phản đối cách đánh giá thiếu cơ
- sở khoa học, không công bằng và không minh bạch đối với
sản xuất cá tra, mà không phản đối hay ủng hộ việc áp dụng
PAD/ASC. Việc áp dụng hay không áp dụng PAD/ASC sẽ
do chính người sản xuất cá tra quyết định, sau khi đã tìm
hiểu đầy đủ sự cần thiết, tính hợp lý và quan hệ lợi ích/chi
phí của việc áp dụng này, mà không một cơ quan nhà nước
hay tổ chức xã hội nghề nghiệp nào có thể quyết định thay.
Song, cũng phải thừa nhận một thực tế, rằng đa số tiêu
chuẩn về phát triển bền vững hoàn toàn không trái với nỗ
lực của cộng đồng thế giới như đã nêu trong tuyên ngôn
thiên niên kỷ của LHQ; và cũng phù hợp với các chính
sách, các cam kết quốc tế của Việt Nam, được thể hiện
trong các luật và văn bản quy phạm pháp luật. Thực hiện
các tiêu chuẩn thực chất chỉ là sự thúc ép thực hiện đầy đủ
các quy định đó nhanh hơn, cụ thể hơn mà thôi. Đó là điều,
sớm hay muộn, nhà sản xuất cũng phải làm.
Phải đến khi những quy định pháp lý của Việt Nam cụ thể
hóa các tiêu chí về phát triển thủy sản bền vững, chẳng hạn
dưới dạng Viet G.A.P, được người tiêu dùng ở các thị
trường chấp nhận thay thế hoàn toàn cho những tiêu chuẩn
- như Global G.A.P hay ASC, người sản xuất thủy sản Việt
Nam mới không phải lo lắng đối với các tiêu chuẩn do các
tổ chức khác xây dựng nữa. Nhưng ngay cả khi đó, việc
tuân thủ Viet G.A.P cũng phải do các tổ chức độc lập thứ
ba đánh giá và công nhận.
TS. Thái Thanh Dương
nguon tai.lieu . vn