Download Tài liệu học tập miễn phí Ngư nghiệp
Bài viết tiến hành nghiên cứu nhằm đánh giá hiệu quả sử dụng thức ăn công nghiệp có bổ sung axit amin đối với tăng trưởng và tỷ lệ sống của cá Hồng mỹ giai đoạn cá giống. Mời các bạn cùng tham khảo!
Bài viết tiến hành xây dựng quy trình sản xuất giống và nuôi thương phẩm cá chuối hoa là rất cần thiết, giúp chủ động sản xuất giống nhân tạo chất lượng đảm bảo cho người nuôi, hạn chế đánh bắt khai thác ngoài tự nhiên, giữ được nguồn gen quý hiếm, tăng đối tượng nuôi có giá trị kinh tế cao trong tập đoàn cá nước ngọt Việt Nam.
Việc phát triển nuôi trồng thủy sản hồ chứa thông qua việc xây dựng các mô hình nuôi có hiệu quả kinh tế, dễ áp dụng và nhân rộng cho người dân huyện Quế Phong là giải pháp phù hợp và cấp thiết. Bài viết này tiến hành nghiên cứu mô hình nuôi cá trắm đen thương phẩm trong lồng bè trên lòng hồ thủy điện.
Bài viết trình bày kết quả nghiên cứu về đặc tính sinh trưởng của cá Hồng chấm ở đầm Ô Loan, là cơ sở khoa học bước đầu cho các nghiên cứu tiếp theo để xây dựng mô hình nuôi thử nghiệm loài cá có giá trị kinh tế này.
Nghiên cứu này được thực hiện để khảo sát sự đa dạng thành phần loài cá của khu hệ đầm Thị Nại. Các mẫu cá được thu thập định kỳ hàng tháng và được phân loại đến cấp loài. Thành phần loài cá ở đầm Thị Nại khá đa dạng, gồm có 95 loài, 81 giống nằm trong 55 họ thuộc 16 bộ.
Nghiên cứu này cung cấp dẫn liệu mới về đặc điểm hình thái ống tiêu hóa và sự biến động của hệ số béo Clark theo giới tính, nhóm chiều dài cá, mùa thu mẫu và điểm thu mẫu của loài cá bống lưng cao Butis koilomatodon, một trong những loài cá bống có giá trị thương phẩm ở vùng Đồng bằng sông Cửu Long.
Kết quả phân tích chất lượng mực ống bảo quản bằng công nghệ lạnh kết hợp (lạnh ngâm và lạnh thấm) cho thấy: mực ống bảo quản bằng công nghệ lạnh kết hợp có hao hụt trọng lượng giảm 1,9%, điểm cảm quan tăng 33,0% và thất thoát protein giảm 6,8% so với bảo quản bằng đá xay của ngư dân.
Bài viết này trình bày nghiên cứu ứng dụng lý thuyết toán tối ưu trong xây dựng mô hình toán, giải thuật và lập trình giải bài toán quy hoạch xác định số lượng và cơ cấu tối ưu của đội tàu khai thác thủy sản Việt Nam nhằm đạt được hàm mục tiêu về lợi nhuận là cao nhất trong các điều kiện ràng buộc về kinh tế, kỹ thuật và ngư trường với mục đích đảm bảo sự phát triển bền vững cho một nghề cá cụ thể.
Bài viết nhằm cung cấp hệ thống tri thức bản địa về thời tiết, thủy văn của ngư dân ven biển Tây Nam Bộ dựa trên dữ liệu nghiên cứu tại hai cộng đồng cụ thể: xã An Thủy (huyện Ba Tri, tỉnh Bến Tre) và thị trấn Sông Đốc (huyện Trần Văn Thời, tỉnh Cà Mau); khuyến nghị việc bảo tồn hợp lý những tri thức này trong điều kiện hiện nay.
Gluten, bột mì, tinh bột biến tính được biết đến như một loại phụ gia thực phẩm trong việc nâng cao độ bền đông kết, độ uốn lát và chất lượng cảm quan của chả cá từ phụ phẩm cá chẽm. Trong nghiên cứu này đã xác định ảnh hưởng của tỷ lệ gluten, bột mì và tinh bột biến tính đến một số đặc tính của chả cá từ phụ phẩm cá chẽm.
Trong nghiên cứu này, cá bảy màu mẹ đang mang thai được cho ăn thức ăn có chứa 17α- MT với liều 300, 400 và 500 mg/kg thức ăn trong thời gian từ 5 – 9 ngày trước khi đẻ. Kết quả sản xuất được 94,9 - 98,8% cá bảy màu đực, trong đó có thể phân biệt được cá đực XX so với cá đực XY ở 90 ngày tuổi thông qua kích thước thân và hình dạng vây đuôi.
Nghiên cứu sinh sản cá lăng vàng được thực hiện tại trại thực nghiệm Trường Cao đẳng cộng đồng Đồng Tháp và Trường trung cấp nghề - giáo dục thường xuyên Hồng Ngự trong hai năm 2015 và 2016. Cá bố mẹ được thu gom từ tự nhiên khu vực Đồng Tháp.
Nghiên cứu nhằm xác định mật độ cá nâu thích hợp trong mô hình nuôi kết hợp với tôm sú. Thí nghiệm được bố trí hoàn toàn ngẫu nhiên với 3 nghiệm thức mật độ cá nâu (i) 0 con/m3 (đối chứng), (ii) 8 con/m3 , (iii) 12 con/m3 . Tôm sú được nuôi kết hợp ở tất cả các nghiệm thức với mật độ 40 con/ m3 , mỗi thí nghiệm được lặp lại 3 lần.
Bài viết trình bày việc lựa chọn Delftiaacidovorans (NCCB 28024) làm chủng tham khảo (RDA) được mua từ Viện CBS của Hà Lan để so sánh với 2 phân lập Delftia giả định (Sh2-4 và So1-40) được sàn lọc từ các trại nuôi tôm ở Thái Lan bằng nuôi cấy và phân tích PCR.
Bài viết tổng quan các nghiên cứu về nhóm vi khuẩn này với các điều kiện thích hợp cho sinh trưởng và hoạt tính nitrate hóa của chúng (như nguồn cacbon, nhiệt độ, pH, cơ chất, chất mang…), lựa chọn một số chủng điển hình để xác định được vị trí phân loại của chúng bằng trình tự gen 16S rRNA, chúng thuộc chi Nitrosomonas và Nitrobacter.
Nghiên cứu được thực hiện nhằm phân lập vi khuẩn lactic từ đường ruột cá da trơn tự nhiên và sàng lọc các chủng có khả năng kháng với vi khuẩn Aeromonas hydrophila gây bệnh xuất huyết trên cá tra.
Nghiên cứu và đánh giá tác động của các công trình ngăn mặn dự án Thủy lợi Bắc Bến Tre đến nguồn lợi thủy sản để phục vụ cho phát triển bền vững được thực hiện từ tháng 4/2015 đến 4/2016 tại 20 trạm khảo sát với 26 ngư dân tham gia quan trắc thành phần loài và sản lượng khai thác hàng ngày, kết hợp với việc thu mẫu định kỳ hàng tháng qua 5 loại ngư cụ khai thác thủy sản phổ biến ở địa phương.
Nghiên cứu được thực hiện ở vùng rừng ngập mặn ven biển Mỏ Ó, huyện Trần Đề, tỉnh Sóc Trăng nhằm xác định thành phần loài và mức độ đa dạng thành phần loài cá bống ở các thủy vực khác nhau làm cơ sở cho hoạt động quản lý và bảo tồn. Mẫu cá được thu bằng vợt ở ba hệ sinh thái chính là Rừng, Bãi bồi và Kênh, sau đó được định danh và ghi nhận số lượng mẫu.
Đắk Nông là tỉnh có nhiều hồ chứa không những có nhiều chức năng quan trọng như thủy lợi, thủy điện mà còn là nơi có nguồn lợi thủy sản khá đa dạng, phong phú, là nguồn cung cấp thực phẩm quan trọng cho cộng đồng địa phương. Nghiên cứu thành phần loài cá ở 2 hồ chứa hồ Tây và Đắk R’Tang (tỉnh Đắk Nông) được thực hiện từ tháng 5/2015 đến tháng 5/2016, với mục tiêu lập danh mục thành phần loài, xác định sự biến động của các loài cá ở mùa mưa và mùa khô.
Bài viết tập trung điều tra sự phân bố, đánh giá tác động đề ra các giải pháp quản lý và tuyên truyền giáo dục cho cộng đồng về tác động của các loài thủy sinh vật ngoại lai xâm hại trên địa bàn tỉnh Sóc Trăng làm cơ sở để tỉnh có kế hoạch phát triển bền vững nhằm giảm thiểu các tác động gây ra đến hệ sinh thái, bảo tồn đa dạng sinh học động vật thủy sản và thực hiện các công ước quốc tế về đa dạng sinh học mà Việt Nam đã tham gia.
Mô hình nuôi luân canh tôm lúa (tôm lúa) là hình thức canh tác hiệu quả không chỉ về kinh tế, mà còn là phương thức canh tác bền vững. Sau mỗi vụ nuôi tôm, các chất thải sinh ra chính là nguồn dinh dưỡng tốt cho cây lúa. Quá trình sinh trưởng, phát triển của cây lúa sử dụng dinh dưỡng từ các sản phẩm thải từ nuôi tôm sẽ làm cho môi trường sạch hơn, khi lúa thu hoạch gốc rạ và hạt lúa sót lại cung cấp một phần nguồn thức ăn tự nhiên cho tôm nuôi.
Nghiên cứu nhằm mục tiêu xác định các biện pháp kỹ thuật kích thích sinh sản ngao móng tay chúa (Cultellus maximus) thích hợp nhằm bảo vệ nguồn lợi tự nhiên, chủ động nguồn giống và đa dạng đối tượng nuôi.
Đề tài “Ứng dụng di truyền phân tử, di truyền số lượng phục vụ chọn giống nâng cao sinh trưởng cá rô phi đỏ (Oreochromis spp.)” thực hiện năm 2014 – 2016 đã chọn giống qua 3 thế hệ từ G2 đến G4 cho tính trạng tăng trưởng và màu sắc đỏ đẹp.
Mục tiêu của nghiên cứu này là thử nghiệm tính hiệu quả của hai dịch chiết Khổ sâm (Croton tonkinensis) và Đơn châu chấu (Aralia armata) về khả năng phòng AHPND được gây ra bởi Vibrio parahaemolyticus ở tôm thẻ chân trắng (Penaeus vannamei) bằng gây cảm nhiễm thực nghiệm.
Bệnh hoại tử gan tụy cấp tính (AHPND) gây ra bởi vi khuẩn Vibrio parahaemolyticus đã gây thiệt hại kinh tế đáng kể trong nghề nuôi tôm tại Việt Nam. Nghiên cứu trước cho thấy V. parahaemolyticus kháng với nhiều loại kháng sinh do việc lạm dụng thuốc kháng sinh để kiểm soát bệnh nhiễm khuẩn trong nuôi trồng thủy sản.
Nghiên cứu được thực hiện trên 876 mẫu tôm giống thu tại các tỉnh Ninh Thuận, Bình Thuận, Vũng Tàu và ĐBSCL và 141 mẫu nuôi theo mô hình QC/QCCT được thu tại các tỉnh Bạc Liêu, Sóc Trăng, Cà Mau và Kiên Giang từ tháng 1 đến tháng 11 năm 2017.
Nghiên cứu này tập trung phân lập và định danh chủng nấm từ mẫu bệnh phẩm thu nhận từ 4 mẫu trứng cá Bá Chủ (Pterapogon kauderni) bị hỏng trong quá trình ấp trứng và xác định sự tái nhiễm lại nấm với mẫu trứng cá thông qua kĩ thuật SEM (Scanning Electron Microscope). Kết quả hình thái học của khuẩn lạc, khuẩn ty và bào tử cho thấy có 3 chủng nấm sợi (M1, M1.1 và M4.1).
Để nghiên cứu sự đóng góp của miễn dịch sơ cấp và lymphocyte dựa trên miễn dịch kháng lại virus nhiễm trên cá, hai dòng zebrafish hoang dại (wild-type) và đột biến (Rag1 mutant, không có tế bào lymphocyte T và B) được cảm nhiễm với Snakehead Rhabdovirus (SHRV), thuộc novirhabdovirus, bằng cách tiêm xoang bụng (IP) vào cá ở các độ tuổi khác nhau và nhiệt độ khác nhau.
Nghiên cứu được tiến hành thông qua hình thức phỏng vấn trực tiếp trên 93 hộ nuôi tôm ở 3 tỉnh đại diện cho 3 mô hình nuôi tôm ở ĐBSCL: Cà Mau (mô hình QCCT và tôm lúa), Bến Tre và Bạc Liêu (mô hình BTC/TC). Kết quả khảo sát cho thấy đa số các hộ được phỏng vấn đều nhận thức được tầm quan trọng của việc sử dụng chế phẩm vi sinh (CPVS) trong nuôi tôm.
Sự phát triển nhanh chóng của ngành công nghiệp thức ăn nuôi thủy sản dẫn đến nhu cầu sử dụng nguồn nguyên liệu protein ngày càng cao. Các nguyên liệu cung cấp protein có nguồn gốc đậu nành dùng trong sản xuất thức ăn nuôi thủy sản được xem như là giải pháp tối ưu trong việc giảm áp lực sử dụng nguyên liệu bột cá, giảm chi phí thức ăn và thân thiện với môi trường.