Xem mẫu
-
TRIỀU ĐẠI NHÀ ĐINH,
TĂNG LỤC TRƯƠNG MA NI VÀ MA NI GIÁO
1. Thế kỉ X biến động nhất trong lịch sử dân tộc. Từ Khúc
Thừa Dụ, Khúc Hạo (907), Dương Đình Nghệ (931), Kiều Công
Tiễn (937) đến Ngô Quyền (938), Dương Tam Kha (945), Ngô
Xương Văn (951), các sứ quân (966), Đinh Bộ Lĩnh (968), Lê Hoàn
(980), lịch sử đã vận động từ nội thuộc sang li khai tự chủ rồi đến
độc lập dân tộc. Có nổi dậy khởi nghĩa, có xâm lăng và kháng
chiến, có nội chiến và tranh giành để cuối cùng kỉ nguyên độc lập
vững bền được khẳng định, quốc gia Đại Việt từ đó trường tồn.
Những vấn đề lịch sử của của thế kỉ bản lề này đã và đang được
nghiên cứu ngày càng sâu rộng hơn, trong đó có lịch sử tư tưởng,
tôn giáo và văn hóa. Những khát vọng, triết lí, mục tiêu góp phần
cắt nghĩa những động thái lịch sử.
Trường hợp Tăng lục Trương Ma Ni dưới triều Đinh ẩn chứa
sự phức tạp của tôn giáo thời kì này. Đây là việc chúng tôi muốn
tìm hiểu.
Đại Việt sử kí toàn thư (bản khắc in năm Chính Hòa thứ 18 ‐
1697) ghi chép thật ngắn gọn: ʺTân mùi, [Thái Bình] năm thứ 2
[971], (Tống Khai Bảo năm thứ 4). Bắt đầu quy định cấp bậc văn
võ, tăng đạo, cho Nguyễn Bặc làm Định Quốc công, Lưu Cơ làm
đô hộ phủ sĩ sư, Lê Hoàn làm thập đạo tướng quân, tăng thống
Ngô Chân Lưu được ban hiệu Khuông Việt đại sư, Trương Ma Ni
làm tăng lục, đạo sĩ Đặng Huyền Quang được trao chức sùng chân
uy nghiʺ.
203
- Theo Lê Mạnh Thát, sách Tân đính hiệu bình Việt điện u linh
tập 3 do Ngô Giáp Đậu san định năm 1774 còn ghi: ʺGặp nhà sư có
tên gọi Trương Ma Ni (...) tìm được đúng dấu xưa. Bèn hưng
công, xây dựng danh lam, mở mang đất đai, để làm nơi thờ Phật
đốt hương, gọi tên là chùa Kiến Sơʺ.
Hầu như sử sách cổ chỉ chép có thế. Các nhà nghiên cứu hiện
đại hầu hết cũng chỉ nhắc tên theo cổ thư mà không giải thích gì.
Năm 1988, Giáo sư Hà Văn Tấn ở phần viết trong sách Lịch
sử Phật giáo Việt Nam (Nguyễn Tài Thư chủ biên) đặt nghi vấn ʺ...
bấy giờ còn có một số nhà sư không thuộc phái nào, chẳng hạn
như tăng lục Trương Ma Niʺ. Với sử liệu Việt Nam thật ít ỏi,
chạm vào 3 chữ ʺTrương Ma Niʺ mà đặt ra một nghi vấn, đúng là
mẫn cảm tinh tế của một tri thức uyên bác, một gợi mở đáng
khâm phục.
Năm 2009, nhà nghiên cứu Tạ Chí Đại Trường trong sách Bài
sử khác cho Việt Nam (Sơ thảo), mạnh dạn viết: ʺTăng lục Ni sư
Trương Ma có vẻ là người đã thu xếp các sứ quân gom lại trong
con số mười hai, mượn từ mối tin tưởng Mười hai nhân duyên của
Đạo mình để nói lên hàm ơn đối với vị hoàng đế đã mang lại an
bình cho xứ sở, đưa tăng ni lên địa vị tột đỉnh trong thời đại mới.
Và những ghi chú thời sự của bà, của những người nối tiếp có lẽ
theo thói quen trong sinh hoạt thường trực của tôn giáo, đã được
thu tóm thành những câu ngắn gọn như kệ rồi sẽ biến thành sấm
kí trong những quyển sử về sauʺ.
Nếu như GS. Hà Văn Tấn thận trọng đặt câu hỏi thì sử gia Tạ
Chí Đại Trường tưởng tượng một cách vu khoát về Trương Ma Ni:
là Bà (có lẽ vì chữ ʺniʺ trong tên), là người chép sử (chữ ʺlụcʺ trong
cấp bậc), là người thu gom thành khái niệm ʺ12 sứ quânʺ theo tinh
thần Phật giáo. Nhưng có lẽ đó chỉ là những suy diễn.
204
- 2. Thật ra, hai chữ Ma Ni trong tên của tăng lục này là hoàn
toàn có nghĩa.
Phật quang đại từ điển cung cấp cho ta những hiểu biết như sau:
Mục từ MA NI viết:ʺ Phạm, Pali: Mani. Hán dịch: Châu,
Bảo châu. Từ gọi chung các loài ngọc quí. Truyền thuyết phổ
thông cho rằng ma ni có thể tiêu trừ tai nạn, tật bệnh, lắng nước
đục thành trong và đổi sắc màu của nước. Còn tiếng Phạm
Cinta ‐ mani (Hán âm Chân đà ma ni, Chấn đà ma ni) thì Hán
dịch là: Như ý bảo, Như ý châu, Như ý ma ni, Ma ni bảo châu,
Mạt ni bảo châu, Vô giá bảo châu. Vì loại châu này có khả năng
làm thỏa mãn ý muốn và sự mong cầu của con người, nên gọi
Bảo châu như ý. Có thuyết cho rằng ma ni được lấy ra từ óc cá
Ma kiệt hoặc bảo nó là mảnh vỡ từ vật cầm tay của trời Đế
thích; lại có thuyết nói từ xá lợi của Phật biến thành. Trong 40
tay của bồ tát Thiên thủ Quan âm thì tay phải cầm ma ni Nhật
tinh, tay trái cầm ma ni Nguyệt tinh. Ma ni Nhật tinh cũng gọi
là Nhật ma ni là loại ma ni tự nhiên phát ra ánh sáng nóng nực,
chói lọi; còn ma ni Nguyệt tinh cũng gọi là Nguyệt quang ma ni,
Minh nguyệt ma ni, Minh nguyệt chân châu, Nguyệt ái châu, là
loại ma ni có năng lực tiêu trừ sự nóng bức đem lại sự mát mẻ
cho mọi người.. ʺ.
Mục từ MA NI ĐÔI viết: ʺĐống đá được xếp thành do những
phiến đá hoặc tảng đá trên có khắc 6 chữ chân ngôn ʺÁn ma ni bát
di hồngʺ. Tín đồ Phật giáo Tây Tạng khắc thần chú 6 chữ ʺÁn Ma
Ni Bát Di Hồngʺ trên đá rồi đặt ở trên đường đi vào núi, tín đồ qua
đường tiếp tục xếp thêm những phiến đá khác lên, lâu ngày thành
đống (đôi); vì lấy hai chữ Ma Ni trong thần chú 6 chữ mà gọi là Ma
ni đôi. Những người đi ngang qua đây, tùy theo thời gian, phương
hướng mà nhiễu quanh 1 vòng để tích lũy công đứcʺ.
205
- Mục từ ÁN MA NI BÁT DI HỒNG viết: ʺPhạm: Om mani
padme hum. Cũng gọi Án ma ni bát một minh hồng, Án ma ni bát
đầu mê hồng. Có nghĩa là ʺQui y châu ma ni trên hoa senʺ. Tín đồ
Phật giáo Tây tạng khi cầu vị lai được sinh về thế giới Cực lạc thì
đọc 6 chữ này trước bồ tát Liên hoa thủ... ʺ
Mục từ MA NI GIÁO viết: ʺAnh: Manicheism. Đức: Manichaismus.
Pháp: Manichésme. Cũng gọi là Mạt ni giáo, Mâu ni giáo, Minh
giáo, Minh tôn giáo. Tông giáo do ông Mani người Ba tư sống vào
thế kỉ thứ III Tây lịch tổng hợp các thuyết của Bái hỏa giáo (cũng
gọi Thiên giáo, tông giáo của Ba Tư cổ đại), Cơ Đốc giáo và tư
tưởng của Phật giáo mà thành lập ra. Giáo nghĩa của Ma ni giáo
lấy thiện ác nhị nguyên luận của Bái hỏa giáo làm nền tảng, tóm
thu tất cả mọi hiện tượng vào thiên và ác, thiện là ánh sáng, ác là
bóng tối, mà ánh sáng thì chắc chắn đánh tan bóng tối, nếu nhân
loại nương theo chân lí của tông giáo và chí hướng của thần linh
thì chắc chắn sẽ đi đến thế giới tươi sáng và hạnh phúc yên vui.
Nhưng từ vô thủy đến nay, sáng và tối giao nhau; ác ma thường ở
trong thế giới tối tăm gây nhiễu loạn, do đó thế giới vẫn lẫn lộn
thiện và ác, bởi thế loài người phải nỗ lực hướng thiện, để tạo nên
một thế giới tươi sáng... Ma ni giáo được truyền đến Tân Cương
thuộc Trung Quốc vào khoảng từ thế kỉ VI đến thế kỉ VII, rồi từ
Tân Cương truyền đến Hồi hột ở phía bắc sa mạc và thịnh hành ở
vùng này. Vào năm Đại lịch thứ 3 (768) đời Đường, đáp lời thỉnh
cầu của nước Hồi hột, vua Đại tông cho phép xây chùa Ma ni giáo
ở vùng Giang hoài. Năm Hội xương thứ 5 (845), Đường Vũ tông
phá diệt Phật pháp, Ma ni giáo cũng bị đả kích nghiêm trọng, vì
thế mà chuyển thành tông giáo bí mật, đồng thời tiếp thu Đạo
giáo và tín ngưỡng dân gian, cũng từ đó đổi tên Minh giáo. Minh
giáo tin chắc bóng tối sẽ qua đi và ánh sáng tất phải đến, cho nên
dám tạo phản, thường tỏ dấu hiệu chống lại chính phủ. Bắt đầu từ
206
- cuối Bắc Tống, ở các tỉnh Chiết Giang, An Giang, An Huy v. v...
thường xảy ra việc Minh giáo làm loạn... ʺ
Mục từ MINH GIÁO viết: ʺTổ chức tông giáo bí mật được
triển khai từ Ma ni giáo, do ông TrươngGiác làm giáo chủ. Tông
giáo này thờ kính Ma ni làm thần ánh sáng và sùng bái mặt trời,
mặt trăng. Giáo đồ chuộng y phục mà trắng, đề cao ăn chay,
không uống rượu, khi chết chôn cất không mặc quần áo, coi
trọng sự đoàn kết giúp đỡ lẫn nhau, chủ trương thiên hạ một
nhà. Đồng thời, tin rằng trên đời, lực lượng ánh sáng cuối cùng
nhất định sẽ chiến thắng các thế lực đen tối. Vào đời Nam Tống
và Bắc Tống, tông giáo này lưu hành ở vùng Hoài Nam, Lưỡng
Chiết, Phúc Kiến... ʺ
Qua những mục từ trên, ta có thể có những liên hệ hữu lí:
‐ Giữa Ma ni (ngọc) và Ma ni giáo có mối quan hệ khá trực
tiếp (biểu tượng ánh sáng, tục thờ tự và chân ngôn)
‐ Ngay từ khi xuất hiện, Ma ni giáo đã mang yếu tố Phật giáo
một cách cơ hữu.
‐ Nó được truyền sang Trung Hoa theo đường Tân Cương,
Tây Tạng và phát triển mạnh mẽ
‐ Đời Đường nó đã du nhập trung nguyên và sau đó bị đả
kích xuôi xuống vùng đông nam Trung Hoa mà Phúc Kiến là một
trong những trung tâm. Lúc này thâu nhận những yếu tố Đạo giáo
và tín ngưỡng dân gian, trở thành Minh giáo do Trương Giác làm
giáo chủ, là một tôn giáo hoạt động bí mật.
‐ Minh giáo có tính chất phản tỉnh, sẵn sàng chống đối chính
thể v.v...
‐ Đồng thời, ở Trung Quốc, nơi thờ tự của Ma ni giáo được gọi
là chùa, tu sĩ gọi là tăng theo truyền thống Phật giáo có từ bản thể.
207
- Đến đây, chúng ta có thể suy luận về cái tên tăng lục Trương
Ma Ni: Ma Ni là tên tông giáo, họ Trương có thể là họ riêng nhưng
cũng dễ là tên giáo chủ Ma ni giáo khi chuyển thành Minh giáo.
Việc đặt hoặc gọi tên như vậy là rất thường thấy trong lịch sử
truyền bá đạo Phật.
3. Liên hệ lại với những ghi chép cổ sử chúng ta được mách
bảo những thông tin (ẩn tàng qua một lần truyền thuyết) để mà
suy tưởng, nối kết.
Đại Việt sử kí toàn thư ghi sau sự kiện Đỗ Thích giết Đinh Bộ
Lĩnh và Đinh Liễn như sau: ʺNgày trước, khi vua còn hàn vi,
thường đánh cá ở sông Giao Thủy, kéo lưới được viên ngọc khuê
to nhưng va vào mũi thuyền, sứt mất một góc. Đêm ấy vào ngủ
nhờ ở chùa Giao Thủy, giấu ngọc dưới đáy giỏ cá, đợi sáng ra chợ
bán cá. Bấy giờ vua đang ngủ say, trong giỏ có ánh sáng lạ, nhà sư
chùa ấy gọi dậy hỏi duyên cớ, vua nói thực và lấy ngọc khuê cho
xem. Sư than rằng: ʺAnh ngày sau phú quí không thể nói hết, chỉ
tiếc phúc không được dàiʺ. Lại vào năm Thái Bình thứ 5 (974), có
lời sấm ngữ: ʺĐỗ Thích thí Đinh Đinh, Lê gia xuất thánh minh,
cạnh đầu đa hoành nhi, đạo lộ tuyệt nhân hành. Thập nhị xưng
đại vương, thập ác vô nhất thiện, thập bát tử đăng tiên, kế đô nhị
thập thiênʺ. Người ta cho là số trời đã định như thếʺ.
Truyền thuyết tồn tại kiểu trầm tích, lại qua nhiều phong hóa
của thế gian nhưng ta có thể xem được các hóa thạch lỗ mỗ của
nó. Khi vua còn hàn vi thì Giao Thủy là địa hạt họ Trần. Sau này,
Đinh Bộ Lĩnh sẽ làm con nuôi Trần Lãm. Sư thuộc địa hạt nào thì
sứ quân địa hạt đó bố thí. Vị sư này ắt thuộc lý gia Trần Lãm. Vua
ngủ nhờ tại chùa là có quan hệ với tăng sư. Vua được ngọc thì
chính là Ma ni vậy. Ngọc sáng trong đêm tối là biểu trưng của tư
duy Ma ni giáo. Sư đoán định tương lai là tinh thần hướng đến vị
208
- lai của tông giáo này. Ngọc bị mẻ là vô thập toàn. Vấn đề là Trần
Lãm (Trần Minh công) và bố là Trần Đức công vốn là người từ
trung tâm Ma ni giáo Phúc Kiến sang, vậy cái hiệu Minh công liệu
có nhắc nhở gì đến Minh giáo không? Không loại trừ. Rất thú vị
là Thiên Nam ngữ lục, tập diễn ca lịch sử Việt Nam viết bằng chữ
Nôm, xuất hiện khoảng cuối thế kỉ XVII (theo Từ điển văn học ‐ Bộ
mới), không biết bằng nguồn nào chép vị sư này: ʺThầy cũng là kẻ
sư mô/ Xưa làm thuật sĩ nay tu ở giàʺ. Nếu thế thì tính chất Ma ni
giáo muộn xen lẫn nhiều yếu tố Đạo giáo của Phúc Kiến càng hiện
rõ. Lời sấm ngữ về cơ bản mang một âm hưởng đen tối, kết thúc
bằng hình ảnh sao kế đô khuất lấp ánh sáng. (Sao kế đô (kethu) và
sao la hầu (Rahu) là hai ngôi sao trong thiên văn cổ xưa của Ấn Độ
nhằm giải thích hiện tượng nhật thực và nguyệt thực, theo đó, vì
sự che khuất của hai sao này mà thế giới trở nên tăm tối). Đúng là
thế giới quan nhị nguyên của tông giáo này như những gì từ điển
đã cung cấp cho chúng ta. Khó có thể nói vị sư chùa Giao Thủy
này chính là Trương Ma Ni nhưng cũng không loại trừ vì sau khi
được nước, Đinh Bộ Lĩnh đã rất trọng dụng những người của sứ
quân Trần Lãm. Bên cạnh Ngô Khuông Việt đã là Tăng thống, vua
bổ nhiệm thêm chức Tăng lục cho Trương Ma Ni, chức sát dưới.
Lại nữa, Đại Việt sử kí toàn thư còn ghi, cũng dưới dạng
truyền thuyết: ʺTrước đó, Đỗ Thích làm chức lại ở Đồng Quan,
đêm nằm bên cầu, bỗng thấy sao sa rơi vào miệng, Thích cho là
điềm tốt, bèn nảy ra ý định giết vua. Đến đây, nhân lúc vua ăn yến
ban đêm, say rượu nằm trong sân, Thích bèn giết chết, lại giết
luôn cả Nam Việt vương Liễnʺ.
Cũng lạ, Chi hậu nội nhân là chức quan gần vua nhưng không
lấy gì làm to tát, ấy vậy mà một mình dám làm chuyện thí nghịch
tày trời. Nếu không có một âm mưu của phe cánh thì ắt phải là một
sự cuồng tín bột phát. Sao rơi vào miệng là ánh sáng, biểu tượng
209
- của Ma ni giáo, ban đêm là bóng tối, biểu tượng của ma quỷ. Uống
rượu là xâm phạm tín ngưỡng Ma ni. Vì thế chăng?.
Dĩ nhiên, truyền thuyết là truyền thuyết, suy tưởng là suy
tưởng. Nhưng sao mà càng đọc càng thấy ám ảnh về một thời kì
nhập nhoạng tín ngưỡng.
Người viết bài này là nhằm đến giải thích cái tên riêng Tăng
Lục Trương Ma Ni. Đọc đến đâu nói đến đó. May ra mà đúng thì
giúp gỡ được một tí nghi vấn của GS Hà Văn Tấn, một người thầy
mà bản thân suốt đời kính nhi viễn chi. Nay càng già càng thấy
tiếc vì không còn được thỉnh giáo thầy nhiều hơn.
Để viết bài này, chúng tôi cám ơn nhà nghiên cứu Hán Nôm
Phạm Tuấn đã kịp thời cung cấp những tư liệu nước ngoài để
tham chiếu.
Hà Nội, ngày 22 ‐ 4 ‐ 2012.
Tài liệu tham khảo
‐ Đại Việt sử ký toàn thư. Bản khắc in năm Chính Hòa thứ 18
(1697). T 1. Nxb Khoa học Xã hôi, Hà Nội, 1983.
‐ Lịch sử Phật giáo Việt Nam, Nguyễn Tài Thư chủ biên, Hà Nội,
1988.
‐ Phật quang đại từ điển, Hội Văn hóa Giáo dục Linh Sơn Đài
Bắc xuất bản, 2000.
‐ Tạ Chí Đại Trường ‐ Bài sử khác cho Việt Nam, Văn mới, 2009.
‐ Lê Mạnh Thát ‐ Lịch sử Phật giáo Việt Nam, T2. Nxb Tổng
hợp Thành phố Hồ Chí Minh, 2006.
210
- ‐ Lao Tử ‐ Thịnh Lê ‐ Từ điển Nho Phật Đạo. Nxb Văn học, Hà
Nội 2001.
‐ Thiên Nam ngữ lục ‐ Nxb Văn học ‐ Trung tâm Văn hóa
Ngôn ngữ Đông Tây, Hà Nội, 2001.
‐ Từ điển văn học (Bộ mới). Nxb Thế giới, 2004.
‐ Phùng Thừa Quân: Ma ni giáo lưu hành Trung Quốc khảo. Bắc
Kinh, 1927 (Trung văn).
‐ Lâm Ngộ Thù: Ma ni giáo cập kì đông tiệm, Thế giới văn hóa
tùng thư. Thục Hinh xuất bản xã, Đài Bắc, 1997 (Trung văn).
211
-
HAI CHỮ QUAN HỌ
TRONG THƯ TỊCH CŨ
Nghĩa của hai chữ QUAN HỌ rất liên quan đến việc tìm
hiểu nguồn gốc, tính chất, quá trình phát triển và qua đó liên
quan đến việc bảo lưu và phát huy di sản dân ca quý báu này.
Những sưu tầm và nghiên cứu từ năm 1959 đến nay đã có những
cố gắng giải thích hai chữ này nhưng vẫn chưa có những kết quả
thống nhất, thậm chí có những cách giải hiểu sai lạc. Chúng tôi
thử tìm về những ghi chép từ thế kỉ XIX trở về trước để mong
hiểu hơn nghĩa của nó. Công việc sẽ còn tiếp tục nhưng những
kết quả ban đầu đã cho phép trình bày để mở một lối nhỏ tìm
hiểu vấn đề thú vị này.
1. Từ những văn bản cổ
Quá trình tìm hiểu cho chúng tôi thấy tất cả các từ điển liên
quan đến tiếng Việt từ thế kỉ XIX trở về trước không có từ
ghép quan họ và bởi thế không có cụm từ hát quan họ (trong lúc đó
các từ hát xoan, hát đúm, hát ghẹo, hát bội, hát nhà trò… đã có).
Cũng dễ hiểu là, không phải cái gì có trong tiếng Việt thì các từ
điển phải có, và cũng ham nghĩa là, tính phổ biến toàn dân của nó
chưa cao.
1.1. Qua tìm hiểu của chúng tôi cho đến hiện nay, hai
chữ quan họ xuất hiện trên văn bản sớm nhất là vào năm 1759
212
- của thế kỉ XVIII, cách nay đã 251 năm và dưới dạng chữ quốc
ngữ lúc đó. Trong một bức thư của thầy giảng Juan Hiến còn
được giữ trong Kho lưu trữ Hội Truyền giáo nước ngoài
tại Paris mang kí hiệu thư viện V426 có đoạn viết: “… ấy là bấy
nhiêu lời xin Đ. C. B. phù hộ cho hầu cùng cả và quan họ nhà hầu
được mọi sự lành hai đời chẳng cùng”. Thời gian ghi là “Cảnh hưng
nhị thập niên, ngũ ngoạt thập ngũ nhật” tức ngày 15 tháng 5 năm
(âm lịch) năm 1759.
Tài liệu này đã được cụ Đoàn Thiện Thuật, nguyên Giáo sư
Khoa Ngôn ngữ Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Đại
học Quốc gia Hà Nội sưu tầm và chủ biên trong cuốn sách Chữ quốc
ngữ thế kỉ XVIII (Nxb Giáo dục, Hà Nội, 2008, tr.80, tr. 293).
Đọc tài liệu này và một số thư từ chữ quốc ngữ liên quan thì
ta thấy rằng, vào năm 1759, thầy giảng Juan Hiến từ Đàng Ngoài
được cử vào Bố Chính (Quảng Bình) để giải quyết một số bất
đồng về quan niệm giữa các thầy giảng với nhau. Thầy Hiến đã
mang thư vào nhà Hầu tả Kiên, một vị quan theo công giáo đã ba
đời, có nhiều công đức đóng góp cho việc truyền giáo, công
đường đóng tại xứ Phù Kênh (nay là làng Phú Kinh ven sông Son,
thuộc xã Liên Trạch, huyện Bố Trạch) để nhờ giải quyết hộ. Trong
đoạn trên, Đ. C. B. là viết tắt ba chữ Đức Chúa Blời (Đức Chứa
Trời). Trong ngữ đoạn “cả và quan họ nhà hầu” thì hai chữ quan
họ dùng để chỉ toàn thể gia quyến, kẻ cả người ăn con ở, nhà hầu
tả Kiên, tức người nhà của ông quan này.
1. 2. Sau tài liệu trên 5 năm, vào ngày 18 tháng 10 năm Giáp
Ngọ (1764) ta gặp chữ quan họ trong bài hịch bằng chữ Nôm của
Hoàng Ngũ Phúc khi vâng mệnh Chúa Trịnh đem quân vào Nam
Hà đánh nhà Nguyễn. Trong bản hịch Nôm này có những câu
như sau:
213
- ‐ Khá thương những quân dân vài mươi vạn sinh linh, chi để mắc
tiểu nhân bại hoại; Khá tiếc cho quan họ hai trăm năm cơ nghiệp, nỡ
ngồi xem gian đảng khuynh nguy…
‐ Ai là kẻ lòng vì quan họ, thấy quan quân mà mở thành đón rước,
ấy là đoàn hướng nghĩa, thì thu hào vô phạm, ắt thấy yên vui; Ai là kẻ
theo với họ Trương, thấy quan quân mà cậy hiểm chống ngăn, ấy là lũ
bất trung, thì xích kiếm tất tru, quyết không dung thứ.
Tài tiệu này đã được GS. Hoàng Xuân Hãn phiên âm trong
luận văn mang tên Thống nhất thời xưa cụ viết vào tháng 10 năm
1976 tai Paris mà nay đã in trong bộ La Sơn Yên Hồ Hoàng Xuân
Hãn, tập II, các trang 1372, 1373.
Trong mục chú thích, GS. Hoàng Xuân Hãn viết: “Quan họ
hoặc Họ trỏ nhà chúa”. Đọc bài hịch ta thấy Hoàng Ngũ Phúc
dùng chữ quan họ để chỉ tập đoàn nhà Nguyễn. Ông không công
nhận nhà Nguyễn là “chúa”. Vì là tướng của chúa Trịnh nên ông
gọi chúa Trịnh là vương thượng còn chúa Nguyễn chỉ là Nguyễn
gia mà thôi. So sánh với bản hịch chữ Hán còn được Lê Quí Đôn
chép trong Phủ biên tạp lục thì ta sẽ rõ. Khi xưa khi viết hịch, bên
cạnh bản hịch viết bằng Hán văn, người ta còn có thể viết cùng
một bản Nôm để tuyên truyền cho binh lính và nhân dân. Tinh
thần hai bản là thống nhất với nhau. Hoàng Ngũ Phúc lấy lí do
diệt tả tướng Trương Phúc Loan, cứu cơ đồ nhà Nguyễn mà khởi
binh. Tuy nhiên, ông quan niệm nhà Nguyễn không phải là chúa,
mà chỉ là một tập đoàn quan lại trấn thủ phương nam mà thôi.
Vậy, hai chữ quan họ vừa để chỉ nhà Nguyễn và bao hàm những
ai theo sự nghiệp của tập đoàn này.
1. 3. Nếu như tác phẩm Văn tế sống Trường lưu nhị nữ là đúng
của thi hào Nguyễn Du sáng tác thì ta gặp trong tác phẩm này ba
214
- lần xuất hiện chữ quan họ. Tư liệu này có sau bản hịch Nôm của
Hoàng Ngũ Phúc khoảng hơn 20 năm và cũng thuộc thế kỉ XVIII.
Hai chữ này nằm trong những ngữ cảnh như sau:
‐ Nhất lịch sự là quân phường ngoài Chế, những vất ra điếu thuốc
bông đào; Đội thế thần thì quan họ trong làng, cũng mang tới cân ngà,
quả đá…
‐ Ngồi trong nhà thì chị em chín mười ả, ả ví, ả hát, ả kéo sợi, ả đưa
thoi, cũng có ả trao trầu tận miệng: mĩ nữ như hoa; Léo lên giường
thì quan họ năm bảy ông, ông nói, ông cười, ông ngâm thơ, ông đọc
chuyện, lại có ông lấp áo trùm đầu: cao bằng mãn tọa…
‐ Vì quan họ nên ta mộ đức, bạn hữu quen còn đến rủ nhau; Vào
trong làng hỏi ả Sạ Uy, lứa tác cũ hãy còn bao ná.
Khi phiên âm bài này in trên báo Thanh Nghị số 32 tháng 3
năm 1942, GS. Hoàng Xuân Hãn chú thích: “Quan họ trong làng:
con cháu các quan trong làng, nhất là họ Nguyễn Huy”. Lại chú
thích: “Quan họ: những người thuộc họ sang”. Trong khi bình
luận tác phẩm, GS còn viết thêm: “Ta lại nhận thấy rằng… tác giả
là bạn của các “quan họ” làng Trường Lưu. Vì chơi xuân, nên các
bạn rủ nhau đi hát. Quan họ ấy là người họ Nguyễn Huy và ta lại
biết rằng họ Nguyễn Huy và họ Nguyễn ở Tiên Điền là hai cự tộc
đời bấy giờ liên lạc nhau bởi dây nhân duyên và bằng hữu”.
Sự giải thích của GS. Hoàng Xuân Hãn là đúng đắn, rõ ràng
và mạch lạc. Rất tiếc là, những người nghiên cứu dân ca quan họ
khi tìm nghĩa của hai chữ này, đã không tiếp thu được. Cũng có
người nhắc đến một trong ba ngữ liệu trên nhưng giải thích việc
Nguyễn Du dùng hai chữ quan họ trong văn tế trên là vì mẹ của
cụ người Bắc Ninh(?!). Ta không biết mẹ của Juan Hiến, mẹ của
Hoàng Ngũ Phúc có phải là người Bắc Ninh không, vậy mà họ cứ
dùng vô tư!.
215
- Với những tài liệu trên, trong các văn cảnh của nó, cho ta rõ
nghĩa hai chữ quan họ: dùng để chỉ họ hàng, quyến thuộc, gia
nhân của những người làm quan trong thời phong kiến. Vậy từ
quan họ này từ đâu mà có?.
2. Quan họ là từ quan hộ mà ra
Trong văn bản Nôm, để viết hai chữ quan họ, người ta dùng
hai chữ Hán là quan hộ. Hán ngữ đại từ điển giải nghĩa quan
hộ như sau:
‐ Nghĩa 1:Người phạm tội hoặc thuộc lại trong gia đình tuy chưa
phục vụ trong quan phủ nhưng đã biên nhập vào hộ tịch đặc biệt, gọi là
quan hộ. Sách Tùy thư – Mạch Thiết Trượng truyện viết: “Niên hiệu
Thái Kiến thời (Nam) Trần (569 – 592), Mạch Thiết Trượng kết tụ
thành bọn trộm cắp, Thứ sử Quảng Châu là Âu Dương Cố bắt được để
dâng lên, không phải là quan hộ, cho làm người cầm lọng cho vua Trần”.
Lại theo Đường luật sớ nghĩa, danh liệt, quan hộ bộ khúc viết: “Quan hộ
lệ thuộc vào ti nông, ở châu huyện vốn không có hộ tịch và quê quán”.
‐ Nghĩa 2: Quan hộ là một loại quan nô tì đời Kim. Thân phận
thấp hơn nhiều so với quan hộ thời Đường. Phạm Văn Lan, Thái Mỹ
Bưu… trong Trung Quốc thông sử cho biết: “Trong quan nô tì thời
Kim, nguyên do nguyên do hộ tịch của người bình dân nhập vào quan
lại, nếu thuộc vào hộ tịch của cung đình thì gọi là giám hộ, mà nô tì nhập
vào quan phủ, lệ thuộc Phủ giám thì gọi là quan hộ”.
‐ Nghĩa 3: Quan hộ là gia thuộc cùng hậu duệ của quan viên. Lục
Du thời Tống trong Lão học am bút kí, quyển 4 viết: “Bình quán khi
bình định giặc, đem lại giàu có cho dân, để lại văn hiến về sau. Quan văn
mới tâu rằng: Dâng sách có thể dùng, quan võ nói rằng: Quân đội phía
trước còn nhiều mệt mỏi. Rồi bổ cho làm quan. Nhưng hứa phải cố gắng,
được phong là quan hộ. Tống sử, Cao tông kí viết: “Mùa Thu năm Tân
Hợi chiếu ban cho các châu khảo các đinh tịch của huyện, y theo luật lệ
216
- hàng năm mà thu hoặc bỏ đi, chợ, dân vật, quan hộ, gia thế cùng biên tên
dân lưu vong đều như nhau cả”. Cũng trong Trung Quốc thông sử,
Pham Văn Lan, Thái Mỹ Bưu… cho biết: Gia thuộc nhà quan viên cũng
như như các đời sau của họ, đều được gọi là quan hộ. Hình thế hộ và
quan hộ đều được miễn phu phen tạp dịch.
Hán ngữ đại từ điển, khi giải nghĩa và khi đưa các ngữ liệu
chứa chữ quan hộ, cho ta thấy dù có sự thay đổi nghĩa trong lịch
sử nhưng cái nghĩa chung nhất là dùng để chỉ những người thuộc
quyền quản lí trực tiếp của nhà quan dù họ có thân phận nô tì hay
gia nhân, hậu duệ…
Cái nghĩa này hoàn toàn thống nhất với những chữ quan
họ trong thư tịch thế kỉ XVIII của chúng ta: Chỉ những người
thuộc về nhà quan. Điều này khẳng định chữ quan họ trong tiếng
Việt là từ quan hộ trong tiếng Hán mà ra xét cả về mặt ngữ âm, cả
mặt ngữ nghĩa.
3. Quan họ vš hŸt quan họ
Sau khi đã hiểu từ quan họ trong thư tịch cũ thì việc hiểu
cụm từ hát quan họ là đơn giản. Đó là chỉ những sinh hoạt ca hát
thuộc về nhà quan, trong nhà quan, phục vụ cho nhà quan. Xuất
phát điểm của nó chắc chắn là như vậy. Tuy nhiên cũng có vài ý
trình bày cho rõ hơn.
Kho tàng ca hát truyền thống của chúng ta có những tục hát
gần gũi với hát quan họ. Đó là hát cửa đình còn gọi đình môn ca, hát
cửa quyền còn gọi là quyền môn ca… Các nhà nghiên cứu đều
thống nhất quyền môn ca là hát ở phủ chúa Trịnh. Hai chữ quyền
môn và quan hộ gần nghĩa nhau một cách lạ kì, hay nói cách khác,
cùng nằm trong một trường nghĩa. Quyền có nghĩa để chỉ để chỉ
quyền thế, quyền lực của những người đảm nhận chức vụ nhà
nước. Quan cũng chỉ những người có chức vụ làm việc cho nhà
217
- nước. Môn nghĩa gốc trỏ cửa có hai cánh. Hộ nghĩa gốc chỉ cửa có
một cánh. Quyền môn chỉ nhà quyền thế. Quan hộ chỉ nhà quan
cách. Quyền môn đẳng cấp cao hơn quan hộ. Hoàng Ngũ Phúc
quan niệm Chúa Trịnh là quyền môn và chỉ chấp nhận nhà
Nguyễn là quan họ (hộ). Có quyền môn ca chắc chắn sẽ có quan hộ
ca. Quyền môn ca là hát cửa quyền thì quan hộ ca sẽ là hát cửa quan.
Điều này là có thể khẳng đinh và rất phù hợp với những cách
hiểu của những truyền thuyết dân gian mà những nhà nghiên
cứu sưu tầm được trên đất Bắc Ninh trong công cuộc nghiên cứu
từ năm 1959 đến nay.
Trong lịch sử ca hát truyền thống chúng ta thấy có hát cung
đình, hát vương phủ, hát ti trấn (hát nhà tơ), hát cửa đình thì chắc
chắn hát cửa quan là có thật. Cũng giống như trước đây, chúng ta
có đoàn văn công trung ương, đoàn văn công tỉnh, đội văn công
huyện, tổ văn công xã thôn vậy. Các cấp bậc tổ chức và quản lí là
như nhau tuy cách thức tổ chức khác nhau mà thôi. Thời phong
kiến vua, chúa, quan lại tổ chức và nuôi dưỡng thì sau này các cấp
chính quyền sẽ làm việc đó. Lịch sử là dòng chảy bất tận.
Vậy, hát cửa quan thì có là dân ca không?. Cái này tùy theo
cách nhìn. Giữa nghệ thuật dân gian và nghệ thuật bác học có sự
phân biệt nhưng không bao giờ có ranh giới tuyệt đối trong quá
trình vận động miên trường của mình. Cách lập luận đã là bác học
thì không dân gian, đã là dân gian thì không bác học là cách nhìn
siêu hình, thiếu thực tế. Tượng phật là điêu khắc dân gian hay bác
học? Ngôi đình là kiến trúc dân gian hay bác học? Ca trù là dân
gian hay bác học? Tuồng là dân gian hay bác học? Câu hỏi không
dễ trả lời. Có những hiện tượng vừa là thế này vừa là thế kia trong
đời sống thực tế của nó. Sĩ nông công thương trong chế độ phong
kiến là dân. Những người hát quan họtrong cửa quan chắc chắn
thuộc phạm trù DÂN. Vậy chúng ta quan niệm nó là một loại dân
218
- ca cũng chẳng phải là sai, đặc biệt là khi chúng ta tiến hành
nghiên cứu nó thì hiện trạng đã được dân gian hóa sâu sắc rồi.
Việc hiểu đúng gốc tích hai chữ quan họ và hát quan
họ cũng chỉ là một lối nhỏ trong việc nghiên cứu toàn bộ dân ca
này. Tuy nhỏ nhưng lại quan trọng vì nó sẽ định hướng cho các
cách tiếp cận và lí giải nhiều vấn đề về nguồn gốc, tính chất, các
hiện tượng đặc biệt, quá trình phát triển và đặc biệt nhiệm vụ bảo
lưu nó. Đồng thời, việc nghiên cứu đúng đắn sẽ giúp cho sự đánh
giá công lao to lớn, quyết định của ĐoànDân ca Quan họ Bắc
Ninh đối với việc phát huy nó trong hơn 40 năm qua. Chúng tôi sẽ
dành các bài viết khác cho việc tìm hiểu này.
Hà Nội, 27 / 4 / 2010
219
-
HÁT QUAN HỌ - GIẢI THÍCH NGUỒN GỐC
TỪ KÍ ỨC BẢN QUÁN
Chúng tôi đã khảo hai chữ quan họ trong thư tịch cổ và so
sánh với hai chữ quan hộ cũng trong thư tịch cổ Trung Hoa ‐ mà
từ điển đã giải nghĩa dựa trên ngữ liệu từ đời Kim đến đời Tống ‐
và thể hiện nó trong bài viết Hai chữ quan họ trong thư tịch cổ. Bài
viết lần đầu tiên trong lịch sử nghiên cứu dân ca này đưa ra
những chứng cứ văn bản rõ ràng và không thể phản bác. Ta thấy ở
đây, hai chữ quan họ (Việt) cũng như hai chữ quan hộ (Hán) đều có
nghĩa chỉ nhà quan cùng di duệ, quyến thuộc, kẻ ăn người ở phục
dịch cho nhà quan. Và bởi vậy, hát Quan họ là tiếng hát của họ,
hát ở cửa quan, phục vụ cho giao tiếp và thưởng thức của quan
viên (nghĩa gốc là những người làm việc quan, việc công). Bài viết
này của chúng tôi đi một bước tiếp theo là trong kí ức bản quán,
người dân giải thích cội nguồn tục hát Quan họ, qua đó, giải thích
hai chữ quan họ như thế nào, có phù hợp với nghĩa mà chúng tôi
đưa ra hay không? Nếu phù hợp thì có nghĩa những cách giải
thích của những người nghiên cứu xưa nay phải được xem xét lại.
Tôi sử dụng bốn chữ kí ức bản quán như một khái niệm
nghiên cứu văn hóa truyền thống. Có thể thay bản quán bằng địa
phương cũng được nhưng hai chữ địa phương nghĩa rộng hơn, mà
điều tôi muốn là kí ức của chính vùng dân đang hát Quan họ.
Khái niệm kí ức bản quán bởi vậy sẽ có những nội dung cơ
bản như sau:
220
- ‐ Nó là một loại quan niệm được cộng đồng ghi nhớ về cội
nguồn, tính chất của một tập tục, một thói quen, một thành quả
vật chất hoặc tinh thần từ xưa truyền lại.
‐ Kí ức này có thể nằm dưới dạng nên lời hoặc dạng không lời.
‐ Dưới dạng nên lời nó sẽ là các lời cắt nghĩa, các giai thoại,
các truyền thuyết, các tự sự dân gian.
‐ Dưới dạng này nó sẽ là các diễn ngôn dân gian, mà khi
chúng ta tiếp xúc, chúng ta sẽ lí giải nó không chỉ về mặt nghĩa mà
còn cần chú ý đến chủ thể phát ngôn, cấu trúc của diễn ngôn, sắc
thái thể hiện, tình cảm thái độ, hoàn cảnh phát ngôn, thời điểm
phát ngôn, mục đích phát ngôn cũng như khuynh hướng tư tưởng
của người sưu tầm diễn ngôn đó…
‐ Với một hiện tượng, có nhiều kí ức bản quán khác nhau và
điều này càng giúp cho việc so sánh để tiếp cận chân lí.
Không một nhà nghiên cứu văn hóa truyền thống nào lại
không chú trọng đến công tác điền dã dân tộc học để truy tìm kí
ức bản quán. Về thực chất, đối với hát Quan họ, công việc này đã
được làm từ đầu thế kỉ XX qua những miêu tả lẻ tẻ và được làm
với ý thức nghiên cứu khoa học từ năm 1956 bởi nhóm sưu tầm
của Vụ Nghệ thuật Bộ Văn hóa lúc đó. Việc này sẽ được tiếp tục
4 năm sau đó khi nhóm Lưu Hữu Phước, Nguyễn Viêm, Tú Ngọc
sưu tầm và làm công trình Dân ca Quan họ Bắc Ninh in năm 1962.
Thời điểm này là rất đáng lưu ý vì tuy rằng, qua 9 năm kháng
chiến chống Pháp, sinh hoạt hát Quan họ truyền thống lúc này
hầu như chỉ còn le lói nhưng lớp nghệ nhân đã chơi Quan họ
trước Cách mạng tháng Tám, thậm chí cuối thế kỉ XIX vẫn còn. Họ
vẫn có thể đại diện cho lớp người của truyền thống. Những người
cung cấp bài bản cũng như kí ức cho các nhóm nghiên cứu, một số
18 năm sau, sẽ trực truyền (đúng kiểu truyền miệng dân gian) vốn
221
- hát cho lớp nghệ sĩ đầu tiên của Đoàn Dân ca Quan họ Bắc Ninh.
Từ đó đến nay đã hơn nửa thế kỉ trôi qua với sự phát triển phong
phú của các phương tiện truyền thông đại chúng. Lớp “nghệ
nhân” trên dưới 70 tuổi hôm nay đọc qua sách, nghe qua đài, học
hát qua Đoàn, qua băng đĩa, tập huấn qua các đợt thi hát… nên kí
ức bản quán về tục hát của họ biến động mạnh mẽ. Số người cung
cấp bài bản năm 1962 nay còn lại hai người là “cô” Tình và “cô”
Bướm người Ngang Nội, vẫn diễn Chèo khỏe re khi làng mở hội.
Trở lại điền dã trước sau năm 2000, khi hỏi về tục hát ta sẽ gặp các
“cụ” nói như sách, có nghĩa là, một kiểu kí ức dân gian rất mới,
sinh động đã hình thành trong xã hội thông tin phát triển. Hiện
nay vẫn có những người dân đang chắp nối những tên làn điệu
thành bài thơ lục bát, một kiểu kí ức bản quán mới vẫn tiếp tục
sinh thành. Bởi vậy, với mục đích bài viết này, chúng tôi không
làm lại cái chuyện đi thực địa nữa mà sẽ dựa vào những ghi chép
trước đây và sẽ “đọc” lại nó. Công việc của chúng tôi gặp thuận
lợi là vào năm 1978, nhóm các nhà nghiên cứu Đặng Văn Lung ‐
Hồng Thao ‐ Trần Linh Quý khi làm sách Quan họ ‐ Nguồn gốc và
quá trình phát triển đã công phu tập hợp và có bổ sung trong phần
tiểu luận do tác giả Đặng Văn Lung viết. Chúng ta hãy tiếp xúc
với các kí ức này qua sưu tầm của họ. Chỗ nào cần chú ngay để
mọi người hiểu, tôi sẽ ghi chữ Cước chú.
1. Tác giả Nguyễn Duy Kiện, năm 1940, trên Việt báo cho biết:
“… từ thời thượng cổ nhân dân hai làng Lũng Giang và Tam Sơn
giao hảo với nhau… Làng Tam Sơn hằng năm cứ tháng giêng có lễ
vào đám thờ cúng thành hoàng, trong làng mở hội. Các cụ bên
Lũng Giang sang chơi. Sáng ngày 13 tháng giêng, họ họp nhau độ
5‐7 cụ ông, 5‐7 cụ bà và một số đông nam nữ biết hát Quan họ kéo
nhau sang Tam Sơn dự hội. Tam Sơn cũng cử một số người ra thù
tiếp bạn. Sau khi ngồi trên dưới thứ tự tại đình thì bắt đầu hát…
222
nguon tai.lieu . vn