Xem mẫu

  1. PGS.TS. NGUYỄN VĂN THỊNH (Chủ biên) ThS. Phạm Ánh Sao – ThS. Phạm Vân Dung VĂN HÓA GIA ĐÌNH VÀ GIA TỘC VIỆT NAM QUA TƯ LIỆU HÁN NÔM NHÀ XUẤT BẢN ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI 1
  2. 2
  3. MỤC LỤC Lời nói đầu .........................................................................................................5 1. Vài nét về nữ huấn trong gia đình truyền thống Việt Nam tài liệu Hán Nôm ..........................................................................................7 2. Trích dẫn các văn bản phiên Nôm  Huấn nữ tử ca ........................................................................................48  Cảnh phụ châm .....................................................................................77  Huấn nữ diễn âm ca..............................................................................88  Nữ huấn ca ...........................................................................................110  Bút hương trai khuê huấn ca .............................................................126  Tân nữ huấn .........................................................................................135 Tài liệu tham khảo .......................................................................................207 3
  4. 4
  5. LỜI MỞ ĐẦU Từ nhiều năm nay, chúng tôi đã để sức sưu tầm tư liệu Hán Nôm về đề tài văn hóa gia đình và gia tộc Việt Nam. Đó là những gia huấn, gia quy, tộc ước, gia lễ v.v…Ngoài tư liệu có trong các thư viện có lưu trữ tư liệu Hán Nôm, chúng tôi còn sưu tầm được các tư liệu trong quá trình điền dã và đã tham gia các đề tài Hội thảo khoa học, công bố các kết quả nghiên cứu của mình với mong muốn đóng góp cho xã hội. Lần này, chúng tôi muốn giới thiệu một số văn bản nữ huấn tới bạn đọc trong phạm vi Đại học Quốc gia Hà Nội. Công việc của chúng tôi đến nay, đã thu được những kết quả bước đầu nhưng vẫn còn một chặng đường dài và đầy hấp dẫn ở phía trước. Do thời gian còn hạn chế nên các tài liệu mà chúng tôi muốn giới thiệu mới được thực thi phần phiên âm, dịch nghĩa và phần chú thích, chưa giới thiệu được phần nguyên văn chữ Hán, chữ Nôm. Chúng tôi tự thấy còn nhiều thiếu sót và sẽ cố gắng để công trình sách đầy đủ sớm ra mắt bạn đọc. Rất mong nhận được những ý kiến đóng góp của các bạn độc giả để cuốn sách được hoàn thiện hơn. Xin chân thành cảm ơn! Thay mặt nhóm tác giả PGS.TS. Nguyễn Văn Thịnh 5
  6. 6
  7. VÀI NÉT VỀ NỮ HUẤN TRONG GIA ĐÌNH TRUYỀN THỐNG VIỆT NAM QUA TƯ LIỆU HÁN NÔM ThS. Phạm Vân Dung* Trong suốt mười thế kỷ trung đại sử dụng chữ Hán và chữ Nôm, ông cha ta đã để lại một kho tàng thư tịch Hán Nôm đồ sộ, nguồn di sản quý giá giúp chúng ta ngày nay trong việc tìm hiểu về truyền thống dân tộc trên nhiều lĩnh vực. Từ góc độ những người làm công tác nghiên cứu Hán Nôm, trong quá trình sưu tầm và khai thác thư tịch, chúng tôi nhận thấy di sản Hán Nôm hiện cũng lưu giữ một khối lượng văn bản rất đáng chú ý: những văn bản gia huấn - loại sách làm ra để giáo dục con em trong gia đình xưa. Trong đó, phần dành riêng giáo dục nữ giới mà chúng tôi gọi chung là nữ huấn chiếm một vị trí quan trọng. Như chúng ta đã biết, xã hội phong kiến với tư tưởng “trọng nam khinh nữ” đã qui định người phụ nữ không được đến trường, không được học hành, không được tham gia các hoạt động xã hội. Và như vậy, phải chăng yêu cầu “giáo hóa” không đặt ra với đối tượng này? Khi đi vào các văn bản gia huấn, chúng tôi bắt gặp một thực tế hoàn toàn khác: Gia huấn được làm ra để dạy bảo con em nói chung trong gia đình, nhưng ở lĩnh vực này, các bậc cha anh dường như đã dành cho nữ giới sự “ưu ái” đặc biệt, đã dày công phu, giàu nhiệt huyết khi biên soạn một hệ thống điều qui giáo dục, những lời chỉ dẫn, khuyên bảo rất tỉ mỉ, tận tình. Với một số lượng văn bản đáng kể hiện khảo được, chúng tôi xem đây là một hiện tượng văn hóa đặc sắc, một thể loại trước tác khá đặc thù cần phải được khảo sát một cách hệ thống cả trên phương diện hình thức và nội dung, từ đó nhằm tìm ra những cái chung, cái phổ biến, cái xuyên suốt ở những văn bản đó, đồng thời thấy được cái riêng, cái độc đáo của những văn bản khác nhau, của những thời kỳ khác nhau và ở những loại văn bản khác nhau. * Khoa Văn học, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn – Đại học Quốc gia Hà Nội. 7
  8. Qua những văn bản này, chúng tôi thấy tồn tại thực sự một quan niệm về người phụ nữ truyền thống, vẻ đẹp chuẩn mực, vị trí cũng như yêu cầu đặt ra với họ, đồng thời cũng cho thấy một phương thức giáo dục hết sức độc đáo dành cho nữ giới trong gia đình truyền thống Việt Nam. Sau một thời gian vai trò của gia đình bị coi nhẹ, xã hội hóa được đề cao quá mức, cá nhân đòi được khẳng định, đòi thoát khỏi mọi ràng buộc của gia đình, ngay lập tức gia đình rơi vào khủng hoảng, đạo đức xã hội suy thoái nghiêm trọng, cả nhân loại phải giật mình thức tỉnh, nhìn nhận lại vấn đề này. Liên Hợp Quốc đã chọn năm 1994 làm năm Quốc tế gia đình. Tại Việt Nam, ngày 28- 6- 2000, Bộ Chính trị đã có Chỉ thị 55. CT/TW nêu rõ yêu cầu “Tổ chức ngày gia đình trong tháng hành động về trẻ em hàng năm”. Rõ ràng, gia đình không chỉ là mối quan tâm của một vài người, một vài ngành hay một vài nước mà đã trở thành vấn đề mang tầm quốc gia, quốc tế. Giáo dục gia đình, đặc biệt đối với lứa tuổi vị thành niên, lứa tuổi đang hình thành nhân cách, hình thành nếp ban đầu là vấn đề của mọi xã hội, mọi thời đại, vấn đề muôn thuở của Đông – Tây kim cổ mà loài người luôn phải trở lại. Và như vậy, có thể nói, gia huấn nói chung, nữ huấn nói riêng là một đề tài vẫn giàu ý nghĩa thời sự trong xã hội ngày nay, cần thiết được triển khai nghiên cứu một cách thích đáng. Nếu ai đó từng nói “đằng sau mỗi gia đình hạnh phúc đều có bóng dáng người phụ nữ tốt ở đó”, hay khái quát như câu nói của Ta-go, nhà thơ, bậc triết gia lớn của Ấn Độ: “Giáo dục một người đàn ông được một người đàn ông. Giáo dục một người phụ nữ được một gia đình” thì trong những văn bản nữ huấn, chúng tôi đã bắt gặp sự hoà chung một nhịp cùng dòng tư tưởng đó. Với tất cả những ý nghĩa như trên, chúng tôi chọn nữ huấn trong di sản Hán Nôm Việt Nam làm đề tài khảo sát, nghiên cứu trước hết, nhằm góp phần phát huy những giá trị truyền thống, nhằm làm rõ một vấn đề, một hiện tượng, một vốn quý trong di sản Hán Nôm và hơn nữa, theo chúng tôi, để hiểu truyền thống thì giáo dục chính là sự thể hiện đầy đủ định hướng giá trị, sự lựa chọn của một thời mà nữ huấn cũng là một nhánh quan trọng. Bên cạnh đó, với những đóng góp về dịch thuật, chúng tôi cũng muốn cung cấp cho người hiện đại một sự hiểu biết về quá khứ, một tài liệu tham khảo để cùng suy ngẫm, chiêm nghiệm. 8
  9. Vậy cần phải quan niệm cụ thể về nữ huấn như thế nào? Theo chúng tôi, việc đưa ra một quan niệm thống nhất về nữ huấn như một tiêu chí cho việc định hướng khảo sát văn bản, từ đó tìm ra những đặc điểm về tình hình các văn bản nữ huấn là cần thiết. 1. Thuật ngữ Nữ huấn Trong các tác phẩm gia huấn, bên những nội dung về đạo lý làm con nói chung trong gia đình, các soạn giả đã rất chú ý tới lối thức giáo dục theo giới tính khi biên soạn riêng biệt thành hai phần: huấn nam tử (dạy con trai) và huấn nữ tử (dạy con gái). Qua khảo sát chúng tôi nhận thấy, nhiều tác phẩm gia huấn đã dành một dung lượng khá lớn cho phần huấn nữ tử, thậm chí đã có một số lượng đáng kể các tác phẩm được biên soạn dành riêng cho đối tượng này. Những tác phẩm soạn riêng dành giáo dục nữ giới trong gia đình có nhiều tên gọi khác nhau như: nữ huấn, nữ giới, nữ tắc, phụ châm, khuê huấn…Trong đó, chúng tôi khảo sát thấy nữ huấn là tên gọi có tần số xuất hiện cao nhất ngay từ nhan đề tác phẩm cho tới trong nội dung tác phẩm, mặt khác đây cũng là cách gọi vừa thể hiện rõ đối tượng giáo dục (nữ giới), tính chất khuyên dạy (huấn), vừa dễ hình dung tính chất bộ phận của gia huấn. Chính vì vậy, nếu như gia huấn đã được sử dụng với tính chất như một thuật ngữ khá phổ biến ở cả Trung Quốc và Việt Nam thì ở đây, chúng tôi mạnh dạn đưa ra cách gọi nữ huấn như một thuật ngữ chỉ riêng cho các văn bản Hán Nôm có nội dung giáo dục nữ giới trong gia đình truyền thống, trước hết có tư cách là một bộ phận thuộc lĩnh vực gia huấn. 2. Tình hình văn bản nữ huấn Việt Nam Phạm vi khảo sát các văn bản nữ huấn được chúng tôi chọn Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm, trung tâm lưu trữ sách Hán Nôm lớn nhất hiện nay của Việt Nam làm trọng điểm khảo sát. Tất nhiên, ngoài ra, chúng tôi cũng mở rộng phạm vi khảo sát tới một số thư viện trung ương như Thư viện Quốc gia, thư viện Viện Sử học, thư viện Viện Văn học, và những văn bản chúng tôi sưu tầm được qua công tác điền dã địa phương. Thông qua đây, chúng tôi hy vọng sẽ bước đầu tổng kết sơ bộ và phần nào mô phỏng được diện mạo về tình hình hệ thống văn bản nữ huấn Việt Nam. 9
  10. Chúng tôi tiến hành khảo sát văn bản theo trình tự như sau: Trước hết, chúng tôi thống kê hệ thống gia huấn Việt Nam trong phạm vi tư liệu đã khảo sát. Từ bảng thống kê đó, chúng tôi bóc tách những tác phẩm gia huấn có dung lượng nữ huấn riêng biệt đáng kể và những tác phẩm gia huấn có nội dung chuyên về nữ huấn, lập bảng thống kê và từ đó rút ra những đặc điểm về các văn bản nữ huấn Việt Nam. Trên cơ sở phân loại này, chúng tôi sơ bộ thống kê được 51 văn bản gia huấn Việt Nam. Từ đó, chúng tôi tách được 26 văn bản có nội dung nữ huấn theo tiêu chí đã qui loại như trên, lập bảng thống kê kèm kí hiệu thư viện hay sưu tầm, niên đại biên soạn hay khắc in, hình thức văn tự, tác giả, thể loại, hình thức chế bản khắc in hay chép tay. Từ thống kê trên, chúng tôi phân tích và rút ra những đặc điểm về tình hình văn bản nữ huấn Việt Nam như sau: Xét về mặt niên đại, có 20/26 văn bản xác định được niên đại biên soạn hay ấn hành, sao chép. Trong đó, văn bản có niên đại biên soạn vào loại sớm nhất là vào thế kỉ thứ XVIII và chiếm tỉ lệ rất ít (2/26 văn bản). Văn bản có niên đại vào thế kỉ XIX chiếm 6/26 văn bản (trong đó, 4 văn bản là niên đại biên soạn, 2 văn bản là niên đại khắc in). Còn lại 12/26 văn bản có niên đại vào đầu thế kỉ XX (5 văn bản là niên đại biên soạn, 8 văn bản là niên đại ấn hành, sao chép). Như vậy, những văn bản nữ huấn trong phạm vi chúng tôi khảo sát tồn tại từ thế kỉ XVIII tới thế kỉ XX. Mặc dù số văn bản lưu hành vào đầu thế kỉ XX cao hơn thế kỉ XVIII, XIX nhưng do điều kiện khảo sát và sự mất mát thư tịch nói chung khiến chúng tôi khó có thể khảo sát được triệt để, đồng thời, một lý do dễ hiểu là những văn bản ra đời càng gần thời kỳ sưu tập thì càng dễ sưu tập hơn, cho nên không vì vậy mà chúng tôi kết luận nữ huấn ở giai đoạn sau phát triển mạnh hơn ở giai đoạn trước. Nhưng điều đó cũng chứng tỏ, hiện tượng nữ huấn được kéo dài cho tới những thập kỉ đầu thế kỉ XX, không những thế hiện tượng này còn phát triển khá mạnh ngay khi xã hội Việt Nam đã bước vào thế giới hiện đại, với hàng loạt những biến đổi lớn về hệ tư tưởng, về phương thức giáo dục. Về hình thức chế bản: Có 11/26 văn bản được khắc in và 15/26 văn bản viết tay. Con số chênh lệch không quá lớn giữa các văn bản khắc in viết tay cho thấy đó là những văn bản được đề cao giá trị và có sức lưu truyền rộng rãi. 10
  11. Số văn bản gia huấn có bố cục phân loại nội dung dành riêng cho giáo dục nữ trong tổng thể giáo dục cả nam chiếm 9/26 văn bản; số văn bản dùng chuyên giáo dục nữ chiếm 17/ 26 văn bản dường như đã thể hiện xu hướng muốn tách nội dung nữ huấn trong tổng thể gia huấn thành một thể loại chuyên biệt dành cho giáo dục nữ giới trong gia đình của lối thức giáo dục truyền thống. Khảo sát vào nội dung các văn bản chúng tôi thấy, ngoài 11 văn bản là đơn bản, số còn lại có thể chia làm 5 nhóm đa dị bản: - Nhóm thứ nhất gồm 2 văn bản: Huấn nữ tử ca mang kí hiệu VNb.1 của Nguyễn Huy Oánh ra đời vào thế kỉ XVIII và Nữ tắc diễn âm mang kí hiệu AN.47, khuyết danh, được khắc in vào năm 1868. So sánh giữa 2 văn bản thấy lời lẽ, nội dung cơ bản giống nhau, nhưng Nữ tắc diễn âm thiếu phần khuyên người phụ nữ khi chồng mất và đoạn kết thúc có lời hơi khác so với Huấn nữ tử ca, chúng tôi phỏng đoán Nữ tắc diễn âm chính là một dị bản đời sau của Huấn nữ tử ca. - Nhóm thứ hai gồm 4 văn bản: Phụ châm tiện lãm; Cảnh phụ châm; Phụ nữ bảo châm và Bài ca dạy vợ dạy con (trong Lê triều Nguyễn tướng công gia huấn ca). Bốn văn bản này tuy mang những tên gọi khác nhau nhưng có nội dung gần như trùng nhau. Và nó được biết tới rộng rãi qua các lần xuất bản bằng chữ Quốc ngữ trong tập Gia huấn ca gắn liền với tên tuổi Nguyễn Trãi, hay trong Lê triều Nguyễn tướng công gia huấn ca thì xác định tác giả là Nguyễn tướng công triều Lê. Điều đó đã kéo theo sự tranh luận hơn 30 năm về vấn đề tác giả. Tới năm 1984, trong bài Ai viết Gia huấn ca? (Nghiên cứu Hán Nôm), Hoàng Văn Lâu dựa trên cơ sở khảo sát trực tiếp văn bản đã kết luận những văn bản này đều xuất phát từ một tác phẩm của Lý Văn Phức với tên ban đầu là Phụ châm, và “cho rằng Phụ châm được tác giả viết vào cuối đời mình, khoảng những năm 40 của thế kỉ trước” (tức thế kỉ XIX- P.V.D) [62: 118 – 119]. - Nhóm thứ ba gồm 3 văn bản: Cổ huấn nữ ca; Huấn nữ diễn âm ca tân đính; Huấn nữ diễn âm ca. Trong đó, Cổ huấn nữ ca; Huấn nữ diễn âm ca tân đính là hai văn bản hiện tàng trữ tại thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm, Huấn nữ diễn âm ca là văn bản chúng tôi sưu tầm được từ địa phương. Về mặt câu chữ diễn Nôm, cả ba bản không khác nhau nhiều, có điều cả hai bản tàng trữ tại thư viện Hán Nôm đều thiếu 6 câu so với 11
  12. bản sưu tầm. Từ những phân tích trên phương diện văn bản học, chúng tôi kết luận, những văn bản của nhóm này là những dị bản xuất phát từ tác phẩm Huấn nữ diễn âm ca do Nguyễn Đình Tứ và Lê Viết Huyến diễn Nôm, Đặng Trung Trai giám định, viết lời dẫn và được lưu truyền rộng rãi từ cuối thế kỉ XIX. - Nhóm thứ tư gồm 4 văn bản: Giáo huấn ca, Giáo huấn diễn ca, Nam nữ giáo huấn ca, Cổ huấn tử ca đều không cho biết tác giả. Riêng Nam nữ giáo huấn ca không để lại thông tin về niên đại, ba bản còn lại đều là những bản in hay chép tay lưu hành vào thế kỉ XX, điều đó cho thấy sức lưu truyền rộng rãi của văn bản. Trong nhóm này, chúng tôi tạm coi Giáo huấn ca là văn bản có niên đại in sớm nhất làm bản nền. - Nhóm cuối cùng gồm hai văn bản: Nữ huấn ca mang kí hiệu A.1777 và Huấn nữ diễn ca kí hiệu AB.18 đều là những văn bản diễn Nôm theo thể lục bát từ một bản chữ Hán thể tứ ngôn. Cả phần chữ Hán và phần diễn Nôm đều không đề tên tác giả nhưng chúng tôi muốn lưu ý và xếp hai văn bản này vào loại hai bản dịch từ một tác phẩm nữ huấn được đề cao giá trị. Cùng với 12 tác phẩm đã đề tên tác giả rõ ràng, bằng những thao tác văn bản học, chúng tôi đã xác định được tên tác giả thêm cho ba tác phẩm đang ở tình trạng khuyết danh (Nữ tắc diễn âm; Phụ nữ bảo châm; Cổ huấn nữ ca); đính chính lại tên tác giả Bài ca dạy vợ dạy con trong Lê triều Nguyễn tướng công gia huấn ca là Lý Văn Phức chứ không phải Nguyễn tướng công triều Lê như chính văn bản “nguỵ tạo”. Cũng trên cơ sở đó, chúng tôi qui 26 văn bản về 17 đơn vị tác phẩm có nội dung nữ huấn như sau (chúng tôi xếp theo thứ tự chữ cái): Bút Hương Trai khuê huấn ca; Châu Xuyên gia huấn; Bài ca dạy con gái ở cho có đức (trong Lê triều Nguyễn tướng công gia huấn ca); Giáo huấn ca; Hành Tham quan gia huấn; Huấn nữ diễn ca; Huấn nữ diễn âm ca; Huấn nữ tử ca (kí hiệu VNb.1)(3); Huấn nữ tử ca (kí hiệu AB.85)(4); Nữ học diễn ca; Nữ huấn ca (bản sưu tầm); Nữ huấn truyện; Nữ tử tu tri; Nguyễn thị gia huấn; Phụ châm tiện lãm; Tiểu học tân thư; Xuân Đình gia huấn. Những hiện tượng trên giúp chúng ta hình dung phần nào những biến động trong quá trình truyền bản của nữ huấn: Có thể để tăng uy vọng, tăng sức thuyết phục cho những lời giáo huấn, đã xuất hiện tình trạng “nguỵ thư”, gán tác phẩm cho một tác gia có danh vọng (trường 12
  13. hợp Gia huấn ca); hoặc có khi giá trị nội dung được chú trọng hơn cả, trong quá trình truyền bá rộng rãi đã vượt khỏi khuôn khổ một gia đình, một họ tộc truyền từ vùng này sang vùng khác, từ đời này sang đời khác, nhiều tác phẩm vốn có tên tác giả rất rõ ràng, thậm chí là những đại gia (như Nguyễn Huy Oánh) thì hiện tượng “vô danh hoá” hay nói khác đi là “dân gian hoá” tác phẩm (trường hợp các nhóm dị bản trên) là xu thế tất yếu khi con đường truyền tụng nữ huấn chủ yếu là khẩu thuật, qua đối tượng tiếp nhận hầu như không biết chữ, thì điều quan tâm trước hết vẫn là nội dung giáo dục. Như vậy, trong địa bàn chúng tôi đã khảo sát, con số 26 văn bản nữ huấn mà thực chất có nguồn gốc từ 17 tác phẩm hiện chúng tôi tìm được chưa phải là nhiều, lại chỉ có niên đại tập trung vào các thế kỉ XVIII, XIX, XX cũng chưa phản ánh được đầy đủ diện mạo của nữ huấn Việt Nam theo chiều dài lịch đại. Nhưng cũng chỉ với bằng ấy lượng văn bản thì những đặc điểm như tình trạng đa dị bản lấn át số đơn bản, số bản khắc in không quá thấp so với số bản chép tay; xu hướng “vô danh hoá”, “dân gian hoá” tác phẩm; hiện tượng vẫn ra đời và lưu truyền rầm rộ vào đầu thế kỉ XX, khi người phụ nữ Việt Nam đã được biết tới một hệ thống đào tạo khác - đào tạo chính qui trong môi trường học đường - cũng đủ chứng tỏ sức sống khá mãnh liệt, sự bám rễ khá sâu sắc của nữ huấn trong đời sống xã hội Việt Nam từ thời trung đại cho tới giai đoạn giao thời với thế giới hiện đại. 3. Nữ huấn – Tài liệu giáo dục chuyên biệt dành cho nữ giới trong gia đình truyền thống Trong số 26 văn bản nữ huấn Việt Nam chúng tôi đã khảo sát dù ra đời ở những thời điểm khác nhau, nhưng đều khá thống nhất về đặc điểm hình thức cũng như nội dung, tư tưởng giáo dục của thời trung đại. Chính vì vậy ở đây, những đặc trưng về thể loại mà chúng tôi đi sâu phân tích, đánh giá đều tiêu biểu cho nữ huấn thời trung đại.(5) 3.1. Chủ thể giáo dục Trong phạm vi những văn bản gia huấn nói chung, nữ huấn nói riêng của Việt Nam mà chúng tôi đã khảo sát, cho thấy hầu hết các tác giả đều là nam giới. Điều đó chủ yếu được nhận biết qua những dòng lạc khoản hay lời bạt, lời dẫn nêu chính xác tên, lai lịch tác giả. Trong số 13
  14. 26 văn bản mang nội dung nữ huấn Việt Nam mà chúng tôi thống kê ở bảng trên, có 17 văn bản xác định được tác giả đã khẳng định thực tế đó. Điều này hoàn toàn có thể lý giải được khi thực tế “nữ học xưa” luôn ở trong tình trạng “nhà có nhà không như mặc ý”, con gái “ví không đẻ vào nhà giàu sang, còn đời nào biết mùi bút giấy” [71: 4b], và do vậy “khách quần thoa son phấn mà chịu để sức xem xét, ra công trước thuật như nàng Thái, ả Tạ thì thực là hiếm lắm” (Lời tựa Phụ châm). Thực tế, xã hội phong kiến Việt Nam cũng từng có một Lễ nghi học sĩ Nguyễn Thị Lộ, một Cung trung giáo tập Nguyễn Thị Hinh hay những nữ sĩ tài hoa như Đoàn Thị Điểm, Hồ Xuân Hương nhưng hiện không thấy nói tới việc trước tác một tác phẩm nữ huấn nào. Không chỉ vậy, các tác giả nữ huấn ở đây đều là những người được học hành, đỗ đạt, làm quan to (như Lại bộ hữu đường tham tụng Bùi Huy Bích; Thượng thư Bộ hộ Nguyễn Huy Oánh; Tham tri bộ Lễ Lý Văn Phức; Quốc tử giám tế tửu Đặng Văn Thuỵ…), hay làm quan huấn đạo chuyên trông coi việc giáo dục của một vùng (trường hợp Trịnh Giản), hoặc nếu đó chỉ là tác phẩm của những kẻ học trò chưa thành đạt thì phải qua sự giám định, đề từ của một ông giáo thụ một phủ hay tổng đốc một tỉnh (trường hợp Huấn nữ diễn âm ca và Tân nữ huấn). Điều đó cho thấy việc biên soạn, trước tác các tác phẩm nữ huấn không phải việc làm tuỳ tiện ở tất cả các gia đình, hay nói đúng hơn, chỉ có tác phẩm của những vị đại quan, những người có vị trí xã hội, học vấn và đạo đức, có uy vọng trong lĩnh vực giáo dục mới có khả năng trở thành khuôn phép chung, gây ảnh hưởng rộng cho cả vùng hay lưu truyền từ đời này sang đời khác. Có lẽ cũng bởi vậy mà đã xuất hiện tình trạng “nguỵ thư”, mượn danh Nguyễn Trãi nhằm tăng giá trị cho Gia huấn ca từng gây nhiều tranh cãi cho học giới đời sau. Từ đây có thể kết luận, gia huấn là sản phẩm văn hoá đặc trưng của gia đình nhà Nho, hơn nữa phải là những nhà Nho vào loại danh gia vọng tộc, bởi hơn bất cứ một học thuyết nào, Nho giáo đặc biệt coi trọng gia đình, lấy gia đình làm đơn vị gốc của xã hội, thế giới quan trong Nho giáo cũng là thế giới quan xuất phát từ gia đình; và sáng tác gia huấn cũng là biện pháp tích cực đầu tiên nhằm xây dựng “cái gốc của thiên hạ”, “cái gốc của quốc gia” được vững bền. Tuy nhiên, chủ thể giáo dục trong mỗi bài nữ huấn lại không xuất hiện với tư cách một ông quan lớn, một ông huấn đạo đặt ra khuôn 14
  15. phép áp đặt cho những hộ dân trong vùng. Dấu ấn chủ thể xuất hiện trong nữ huấn chỉ giản dị với tư cách những người cha, người chồng, “người thày con gái” gần gũi và thân thương. Trong phạm vi chừng ấy văn bản cũng đủ để chúng tôi khẳng định chủ thể giáo dục trong nữ huấn Việt Nam chủ yếu là nam giới, đóng vai trò gia trưởng đồng thời cũng là những người đã “đạt đạo”, đủ tư cách dạy dỗ thiên hạ và mọi thành viên trong gia tộc. Mặc dù như chúng tôi đã nhận định, chủ thể giáo dục trong các tác phẩm nữ huấn (và cũng là gia huấn nói chung) chủ yếu là nam giới, bậc gia trưởng trong gia đình, hay như GS. Đặng Thanh Lê nhấn mạnh: “quyền uy giáo dục trong cuộc sống gia đình thuộc về nam giới” “người phụ nữ không thể là một lực lượng chủ trì giáo dục trong gia đình truyền thống” [26: 179], nhưng chúng tôi vẫn muốn lưu ý rằng, dù không là “lực lượng chủ trì” thì người phụ nữ vẫn đóng vai trò quan trọng trong lĩnh vực giáo dục gia đình, đặc biệt với con gái, nói như cố giáo sư Trần Đình Hượu: “người mẹ có vai trò quyết định trong việc giáo dục con gái; con trai được cho đi học, còn con gái chỉ học ở mẹ” [19: 337]. Những nội dung giáo dục được đề cập trong các văn bản nữ huấn đã khẳng định điều đó: nội dung giáo dục con cái được chú trọng hướng dẫn cho người phụ nữ một cách tỉ mỉ và có mặt hầu khắp trong các bài nữ huấn. Về điểm này chúng tôi sẽ bàn kỹ hơn trong phần nội dung giáo dục. 3.2. Đối tượng giáo dục Nếu chủ thể giáo dục trong nữ huấn chủ yếu là nam giới thì bản thân thuật ngữ này đã chỉ rõ đối tượng giáo dục duy nhất là nữ giới. Khi bắt tay vào công việc biên soạn, trước tác, chủ thể giáo dục trong nữ huấn đều xác định rõ đối tượng giáo dục của mình. Theo quan niệm Nho gia, người phụ nữ bị coi là đối tượng “khó giáo hoá”, cánh cửa học đường luôn khép chặt với họ. Tuy nhiên, trong các văn bản gia huấn, tình hình dường như có chiều hướng đi ngược lại: Giáo dục nam giới vẫn đặt ra, nhưng nữ giới gần như là đối tượng chủ đạo trong giáo dục gia đình. Nho giáo chủ trương “nam chủ ngoại, nữ chủ nội”, và thực tế, các nhà biên soạn nữ huấn cũng ý thức một cách sâu sắc về vai trò của người phụ nữ đối với gia đình: Xưa nay, sự hưng thịnh của gia đạo chưa bao giờ không do người phụ nữ hiền thục tạo nên, mà sự suy vong của gia đạo cũng chưa bao giờ không do người đàn bà ương ngạnh 15
  16. mang lại (Cổ lai gia đạo chi thịnh vị hữu bất hiền phụ nhi thành; nhi gia đạo chi suy diệc vị bất hữu do ngoan phụ nhi trí giả) [76: 1a]. Như vậy, sự thịnh hay suy của một gia đình gắn liền với phẩm cách của người phụ nữ. Người phụ nữ là nhân tố chủ chốt trong xây dựng gia đình. Muốn tạo nên gia đình tốt trước hết phải tạo nên người phụ nữ tốt. Và nữ huấn được làm ra trên cơ sở quan niệm, nhận thức về vai trò của người phụ nữ với gia đình của nhà Nho như vậy. Ý thức được vai trò của người phụ nữ, đồng thời các tác giả cũng ý thức rõ sự thiếu hụt về tri thức của họ trong xã hội đương thời, mà nguyên nhân chính là do không được đến trường, không biết chữ nên không thể tự mở rộng tri thức cho bản thân. Cũng ở lời dẫn Huấn nữ diễn âm ca, Đặng Trung Trai viết: “Phụ nữ nước ta không quen văn tự, tuy sách xưa còn nhưng ít người giải nghĩa” (Bản quốc phụ nữ bất tập văn tự, cổ thư tuy tồn nhi hãn hữu giải kỳ nghĩa giả) [76: 1a]. Cùng suy nghĩ ấy, kết thúc Huấn nữ tử ca, Nguyễn Huy Oánh cũng lưu ý: Cứ trong Nữ tắc, Hiếu kinh, Nữ nhi có dễ học hành được ru. Dầu cho sách có dặn dò, Nào hoà ai giảng để cho được tường. [77: 28a] Xuất phát từ đó, những người làm nữ huấn tự đặt ra trách nhiệm giáo hoá, trang bị tri thức cho người phụ nữ. Ở một phương diện khác cũng cần phải thấy rằng, giáo dục người phụ nữ đồng nghĩa với việc bảo vệ gia thanh, gia đạo trong gia đình Nho giáo. Một người phụ nữ không được giáo dục, nhà Nho lường trước hết đến hậu quả: Vậy nên cư xử lỗi thường, Hổ trong gia đạo cùng đường tề gia. [77: 28a] Quá trình giáo dục người phụ nữ khi còn tại gia cho tới khi xuất giá là quá trình cần được rèn dũa, nhào nặn nên “sản phẩm trao cho xã hội”. Người phụ nữ ấy được ca ngợi hay chê trách đều không khỏi ảnh hưởng tới thanh danh gia đình - điều các nhà Nho đặc biệt coi trọng. Như vậy, đối tượng tiếp nhận giáo dục trong nữ huấn được xác định là những kẻ ít học, ít hiểu biết nhưng lại đóng vai trò quyết định trong việc gây 16
  17. dựng nên mái ấm gia đình, bảo vệ gia thanh, gia đạo, từ đó cho thấy rằng, nữ huấn chính là nguồn tài liệu đặc biệt, cung cấp cho người phụ nữ truyền thống những tri thức ứng xử, những tri thức tề gia trong suốt cuộc đời họ. 3.3. Nội dung giáo dục Kết thúc Huấn nữ tử ca, Nguyễn Huy Oánh đã tổng kết bài huấn của mình thành 6 nội dung chủ yếu: Một là ba vuông bảy tròn, Hai là thuở trẻ ép ôn hiếu nghì. Ba là phép dạy gia tề, Bốn là dạy dỗ sửa bề tòng phu. Năm là phụng dưỡng công cô, Sáu là chỉ bảo dặn dò dưỡng sinh. [77: 28a, 28b] Hay mở đầu mỗi bài huấn trong Bút Hương Trai khuê huấn ca, tác giả đều nêu rõ nội dung giáo dục: Khuyên thờ phụng cha mẹ mình và cha mẹ chồng (khuyến sự phụ mẫu cập công cô); Khuyên thờ phụng chồng (khuyến sự phu); Răn về chuyện chia rẽ anh em (giới huynh đệ); Răn nết tham lam, dối trá (giới tham trá); Răn nết kiêu căng, đố kị (giới kiêu đố). Tuy nhiên, một đặc trưng dễ nhận thấy trong hầu khắp các bản nữ huấn là sự hiện diện của tứ đức, tam tòng thường được nêu lên ngay từ những lời mở đầu.Và nhiều khi, tứ đức, tam tòng không còn dừng lại ở mặt tên gọi mà đã hoà tan trong tất cả mọi lời giáo huấn. Điều đó không thể khác khi tác giả của nữ huấn hầu hết đều là những sĩ tử đã qua cái học “cửa Khổng sân Trình”, và đó cũng là quan niệm mang tính qui định của thời đại về người phụ nữ trong xã hội phong kiến. Nhưng tóm lại, dù nội dung giáo dục trong nữ huấn rất phong phú, rất chi tiết và tỉ mỉ, thậm chí “lôi thôi” như cách nói của Phạm Quỳnh, hay dù nó có tồn tại dưới nhiều tên gọi khác nhau như “tứ đức” hay “ba vuông bảy tròn”; hoặc không dừng lại ở ba mối quan hệ với “phụ” (cha), với “phu” (chồng), với “tử” (con) như “tam tòng”đề ra mà là hàng loạt quan hệ phức tạp trong suốt cuộc đời người phụ nữ cùng với những phép ứng xử khác nhau…, theo chúng tôi, có thể khái quát thành bốn nội dung cơ bản sau: Tứ đức; hệ thống quan hệ và cách ứng xử; phép tề gia; 17
  18. phép dưỡng sinh. Chính vì vậy, về đại cục, chúng tôi phân tích nội dung giáo dục trong nữ huấn theo những mối cơ bản này. 3.3.1. Giáo dục về tứ đức, yêu cầu đầu tiên và suốt đời đối với người phụ nữ Có mặt trong hầu khắp các tác phẩm nữ huấn, tứ đức có vai trò như một nội dung không thể thiếu trong cách thức đào tạo người phụ nữ truyền thống. Chúng tôi cũng muốn bàn thêm về tứ đức từ quan niệm khởi thuỷ trong kinh điển Nho gia tới khi đi vào cách dạy của nữ huấn. Khái niệm tứ đức được biết đến từ thời Tiên Tần, trong sách Chu Lễ, thiên Thiên quan, chương Chủng tể hạ đã nêu: Quan Cửu tần nắm phép học của phụ nữ, dạy Cửu ngự phụ đức, phụ ngôn, phụ dung, phụ công. (Cửu tần chưởng phụ học chi pháp, dĩ giáo Cửu ngự phụ đức, phụ ngôn, phụ dung, phụ công) [101: 69]. Nhưng phải tới thời Đông Hán, khi Ban Chiêu(6) soạn Nữ giới để răn dạy con gái trước khi về nhà chồng thì tứ đức mới được lồng vào những nội hàm thật cụ thể: Đức của người phụ nữ không ắt phải tài đức khác thường. Ngôn của người phụ nữ không ắt phải tranh luận sắc sảo. Dung của người phụ nữ không ắt phải nhan sắc mĩ lệ. Công của người phụ nữ không ắt phải khéo léo hơn người. U nhàn, trinh thục, giữ tiết chỉnh tề, làm việc có xấu hổ, động tĩnh có phép tắc, đó là đức của người phụ nữ. Chọn lời mà nói, không nói lời xấu, lựa đúng lúc rồi mới nói thì không bị người chán, đó là ngôn của người phụ nữ. Tẩy giặt ô uế, trang phục sạch sẽ, chỉnh tề, tắm gội phải thời, thân không cáu nhơ, đó là dung của người phụ nữ. Chuyên tâm canh cửi, không ham cợt đùa, cơm rượu tươm tất để đãi tân khách, đó là công của người phụ nữ. [79: 5b, 6a] Theo nhà nghiên cứu Trung Quốc Trương Minh Kỳ, đây cũng chính là nội hàm cơ sở mà sau này Trịnh Huyền dùng để chú về tứ đức trong Chu Lễ cũng như trong việc giảng thuật về tứ đức trong cái học của phụ nữ đời sau. [101: 69]. Như vậy, rõ ràng nữ huấn đã có vai trò như một nẻo đường cụ thể hoá nguyên lý của Nho gia, và đồng thời chính nó cũng có khả năng quay lại bổ sung cho nguyên lý ấy. Từ đời Tống về sau, do ảnh hưởng của Lý học, tứ đức bị tuyệt đối hoá, cực đoan hóa, coi đó là những phẩm chất áp đặt cho người phụ nữ, phủ định tất cả những gì ngoài tứ đức, dù là những tài năng đặc biệt. Cái đẹp ở người phụ nữ được đo bằng đạo lý, và cái đẹp đạo lý lấn át tất cả: Tứ đức đầy đủ tuy tài vụng, 18
  19. tính ngu, nhà nghèo, mặt mũi xấu xí cũng không thể luỵ đến đức hạnh. Tứ đức mất, tuy tài năng đặc biệt, nhan sắc diễm lệ cũng không thể che nổi cái xấu. (Tứ đức bị, tuy tài chuyết, tính ngu, gia bần, mạo lậu, bất năng luỵ kì hiền. Tứ đức vong, tuy kì năng dị tuệ, quý nữ phương tư bất năng yểm kỳ ác- Lã Tân Ngô khuê phạm) [79: 22b]. Đó cũng là quan niệm “không có tài là đức”, “không có tài là phúc” của Lý học đời Tống. Tứ đức trong nữ huấn Việt Nam tất nhiên cũng lấy thiên Phụ hạnh của Ban Chiêu làm tinh thần căn bản. Có khi nó được giải thích tỉ mỉ như những định nghĩa, cũng có khi nó hiện diện dưới hình thức những lời khuyên răn cụ thể về lời ăn tiếng nói, nết ở, việc làm hàng ngày. Trong số những văn bản chúng tôi đã khảo được, thì định nghĩa về “tứ đức” trong Huấn nữ tử ca của Nguyễn Huy Oánh được coi là định nghĩa công phu nhất. Với 632 câu lục bát của toàn tác phẩm, riêng phần giáo dục về tứ đức chiếm tới 124 câu, trong đó “dung” gồm 20 câu, “ngôn” gồm 16 câu, “công” gồm 18 câu và riêng “hạnh”chiếm tới 72 câu. Đây cũng là định nghĩa mang bóng dáng của Phụ hạnh nhiều nhất. Nếu lập một bảng so sánh về những nội dung “dung”, “công”, “ngôn”, thì chúng ta dễ thấy Nguyễn Huy Oánh gần như đã diễn Nôm lại quan điểm trong Phụ hạnh. Riêng nết “hạnh”, để đạt được yêu cầu “u nhàn, trinh thục, giữ tiết chỉnh tề, làm việc có xấu hổ, động tĩnh có phép tắc”, Huấn nữ tử ca đã đặt ra một loạt những điều ngăn cấm, phòng phạm đầy áp đặt: Từ cách ngồi thì không “động chân”, đi không “động quần”, không “đoái lại thẫn thờ”, bước không “đổ giẹo đổ xiêu nghiêng mình”, không mím miệng, không nghiêng vai, nghiêng tóc, nghiêng tai, không miệng bĩu môi dề, không khi ngửa mặt, khi cúi đầu, không liếc trước trông sau, cau đầu mày, vin lưng, hay thở dài, nói hở hàm răng, chưa nói đã cười, nói năng xô bồ, không tham ăn, tham uống… [77: 11a – 12b]. Người phụ nữ phải chuyên tâm trong mọi lúc, mọi nơi, phải luôn giữ mình ở trạng thái đoan chính, không khác thường. Người phụ nữ phải hạn chế bước chân ra tới ngoài, không coi cửa, không ngồi chơi sân, “ở thì náu tiếng náu hình, Chớ cho kẻ lạ dòm hình biết ta”. Đến khi có bước chân ra đến ngoài, phải giữ vẻ nghiêm nghị, uy nghi, tránh lẳng lơ, cợt ghẹo dễ sinh thói loàn đơn. Dầu có ai trêu đùa, cũng phải giữ thái độ “làm thinh cài tóc, đắp tai sá nào” [77: 12b]. Trong cách đối xử với bạn bè, chủ trương: 19
  20. Trai nào chẳng phải họ hàng, Chớ hề chào hỏi, lánh đường hiềm nghi. Gái nào nết chẳng nhu mì, Chớ hề làm bạn sớm khuya ở gần. [77: 11a] Đặc biệt, trong quan hệ gái trai phải hết sức cẩn trọng: Gái trai nghiêm cẩn trong ngoài, Cửa phòng chẳng khả để ai đến gần. Chữ rằng nam nữ dị quần, Phòng xa cho khỏi lửa gần bén rơm. [77: 12a] Tất cả những điều ngăn cấm, răn đe trên cuối cùng cũng chỉ nhằm bảo vệ người con gái tránh khỏi “mắc tiếng bờm xơm”, để “vững một bề tiết trinh”. Đó cũng là giá trị cao nhất để đảm bảo hạnh phúc sau này cũng như trong việc báo đáp công ơn sinh thành của cha mẹ. Và để giữ gìn điều đó, không có cách nào hơn là buộc họ luôn phải giam kín mình sau những tấm bình phong nhằm che chắn mọi “gió bụi”, mọi “cám dỗ” bên ngoài. Tuy nhiên, trong hầu khắp các văn bản nữ huấn Việt Nam, ngoài Huấn nữ tử ca của Nguyễn Huy Oánh, những lời khuyên về tứ đức không phải lúc nào cũng nặng nề như vậy. Có khi nó được định nghĩa rất giản đơn và đầy tinh thần khích lệ: Công là đủ mùi xôi, thức bánh, Nhiệm nhặt thay đường chỉ mũi kim. Dung là nét mặt ngọc trang nghiêm, Không tha thướt, không chiều lả tả. Ngôn là dạy trình thưa vâng dạ, Hạnh là đường ngay thảo kính tin. Xưa nay mấy kẻ dâu hiền, Dung, công, ngôn, hạnh là tiên phàm trần. [48: 28] Và phần lớn nó hoá thân vào những lời khuyên nhủ, chỉ bảo rất ân cần, gần gũi từ cách gọi dạ thưa vâng, ăn nói nhu hoà, biết chào mời bậc tôn trưởng, không nên nhiều lời khôn ngoan; hay trong việc lấy nước 20
nguon tai.lieu . vn