Xem mẫu

  1. Hội thảo Văn hóa kinh doanh trong điều kiện kinh tế thị trường 88 định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam VĂN HÓA DOANH NGHIỆP - VỚI TRÁCH NHIỆM CỦA NGƯỜI ĐỨNG ĐẦU ThS. Nguyễn Kim Chi Đại học KHXH&NV Hà Nội TÓM TẮT Văn hóa doanh nghiệp bao giờ cũng là sản phẩm của cộng đồng doanh nghiệp, nó chịu qui định ở mức độ khá lớn bởi văn hóa của người đứng đầu. Sự tác động qua lại giữa yếu tố văn hóa của người đứng đầu và cộng đồng doanh nghiệp là một quá trình vận động không ngừng. Những biến đổi của văn hóa doanh nghiệp cơ bản phụ thuộc vào thiết chế văn hóa mà doanh nhân tạo ra. Dựa theo mối qua rất hệ biện chứng ấy sẽ thấy rõ vai trò văn hóa của người đứng đầu có ý nghĩa dẫn dắt như thế nào. Vì thế, trách nhiệm xã hội của người đứng đầu là phải xây dựng văn hóa cho mình để làm nhân tố dẫn dắt, lan tỏa. Những yếu tố đó không chỉ biểu hiện trong trình độ, kỹ năng thể hiện trong bản thân người đứng đầu khi tư duy và hành động, mà còn phải được thẩm thấu vào những chính sách của họ trong mọi hoạt động của doanh nghiệp 1. Đặc điểm của doanh nghiệp ở các nhà quản lý, lãnh đạo doanh nghiệp vừa Việt Nam và nhỏ ở Việt Nam. Họ chưa quan tâm tới Thứ nhất, ở Việt Nam doanh nghiệp chủ vấn đề này, mà chỉ coi đây là một công cụ để yếu có quy mô vừa và nhỏ. làm gia tăng lợi nhuận. Nếu không thấy lợi ích của việc xây dựng văn hóa doanh nghiệp, Ở Việt Nam, số lượng doanh nghiệp vừa họ sẽ không tiếp tục triển khai. Hậu quả là, và nhỏ chiếm tỷ lệ tuyệt đối, với hơn 95%. con đường kinh doanh của họ đi theo lối mòn Đó là nơi thu hút nhiều lao động, tạo công ăn kinh nghiệm. việc làm, hạn chế thất nghiệp, đóng góp vào GDP, duy trì tính năng động của thị trường Thứ hai, doanh nghiệp Việt Nam có lịch lao động, thu hẹp khoảng cách phát triển giữa sử hình thành và phát triển chưa lâu. các địa phương và quốc gia. Doanh nghiệp Thời phong kiến, chưa xuất hiện thuật vừa và nhỏ có lợi thế năng động và linh hoạt, ngữ “doanh nghiệp”; thương nghiệp hầu như nhưng dễ bị tác động trước những biến đổi bất không phát triển, các thương gia không được lợi của môi trường sản xuất, kinh doanh. Khả coi trọng. Họ được cho là tầng lớp cuối cùng năng đầu tư nguồn lực để nâng cao năng lực trong thang bậc xã hội: “sĩ - nông - công - quản trị sản xuất, kinh doanh, trong ứng dụng thương”. Tuy vậy, vẫn có một số học giả mẫn công nghệ bị hạn chế. Ngoài ra, với quy mô tuệ đề cao vai trò của thương nghiệp, như Lê nhỏ, sự kết nối mạng lưới sản xuất và tham Quý Đôn từng khái quát: "phi nông bất ổn", gia chuỗi cung ứng toàn cầu cũng gặp nhiều "phi công bất phú", "phi thương bất hoạt", khó khăn. Đây là thách thức không nhỏ đối "phi trí bất hưng". Khi thực dân Pháp đô hộ với việc xây dựng và truyền bá văn hóa doanh nước ta, chỉ có một số doanh nhân tiêu biểu nghiệp do hạn chế về trình độ nhận thức của góp phần vào sự hình thành, phát triển của
  2. ths. nguyễn kim chi 89 doanh nghiệp Việt Nam như Lương Văn Can, Thứ ba, qui mô nhỏ, năng lực cạnh tranh Bạch Thái Bưởi, Nguyễn Sơn Hà, Nguyễn chưa cao nên tính ổn định thấp Quyền,... Đa phần các doanh nghiệp Việt Nam có Giai đoạn sau 1954, miền Bắc nước ta qui mô vừa và nhỏ, năng lực cạnh tranh yếu. thực hiện chế độ hạch toán kinh tế trong các Vì thế, trước những biến động của kinh tế thế xí nghiệp quốc doanh, quốc hữu hóa tất cả nhà giới và thị trường, doanh nghiệp Việt Nam khó máy, xí nghiệp. Năm 1975 đất nước hòa bình, thích ứng và vượt qua các rủi ro của sự biến thống nhất, Việt Nam xây dựng nền kinh tế đổi. Thực tế cho thấy, cuộc khủng khoảng tiền vận hành theo cơ chế kế hoạch hóa tập trung tệ mấy năm qua đã tác động sâu sắc đến các bao cấp kéo dài đến năm 1986, trong đó chỉ doanh nghiệp nước ta, làm cho hàng chục ngàn thừa nhận chế độ sở hữu nhà nước và sở hữu doanh nghiệp lao đao, rơi vào tình trạng phá tập thể. Bước sang thời kỳ đổi mới, với mong sản hoặc ngừng hoạt động, không ít lao động muốn xóa bỏ dần cơ chế tập trung, quan liêu mất việc làm. Điều đó chứng tỏ rằng, qui mô bao cấp của nền kinh tế kế hoạch hóa, phát và tiềm năng hạn hẹp của các doanh nghiệp triển nền kinh tế năng động, hiện đại, Đảng là nguyên nhân dẫn tới năng lực cạnh tranh Cộng sản Việt Nam đã đưa ra chủ trương lớn thấp, dễ bị tác động bởi những biến đổi của thị là tự do hóa thương mại và thúc đẩy kinh tế tư trường, nên hầu như không có tính ổn định. nhân. Điều này đã tạo điều kiện cho các doanh Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp nghiệp Việt Nam không ngừng mở rộng về thể hiện ở khả năng duy trì và mở rộng thị quy mô. Từ đây, doanh nghiệp được coi là lực phần, khả năng hoạt động có hiệu quả ở môi lượng chủ lực trong phát triển kinh tế và mở trường cạnh tranh trong và ngoài nước. Có rộng hội nhập quốc tế. Cùng với đường lối đổi nhiều nguyên nhân dẫn đến năng lực cạnh mới, các chính sách phát triển kinh tế, các luật tranh của doanh nghiệp Việt Nam chưa cao về doanh nghiệp ra đời tạo hành lang pháp lý như: quy mô nhỏ, vốn ít, trình độ học vấn, thừa nhận tư cách pháp nhân và tạo điều kiện kiến thức kinh doanh, hiểu biết luật pháp (đặc để doanh nghiệp phát triển. Các Luật Công ty, biệt là pháp luật quốc tế) không nhiều, trình Luật Doanh nghiệp Nhà nước, Luật Doanh độ tay nghề của người lao động thấp, áp dụng nghiệp tư nhân ra đời vào năm 1990 và đến khoa học công nghệ lạc hậu, phụ thuộc nhiều năm 1999 hai luật đầu được thống nhất thành vào nguồn nguyên liệu nhập khẩu (kể cả các Luật Doanh nghiệp (sửa đổi năm 2005 và ngành có thế mạnh như da giầy, dệt may, 2014), cùng với các Luật Đầu tư nước ngoài, hàng điện tử, sản phẩm thép,... vẫn phải lệ Luật Thuế giá trị gia tăng,... đã tạo ra bước đột thuộc vào nguyên liệu bán thành phẩm nhập phá về tư duy, nền tảng pháp lý cơ bản thúc khẩu; khi giá cả của chúng có xu hướng tăng, đẩy các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần thì lập tức nhiều nhóm sản phẩm có tỷ trọng kinh tế gia tăng về số lượng, mở rộng về quy nguyên vật liệu nhập khẩu, có khi chiếm hơn mô, phong phú về loại hình và hoạt động ngày 60% giá thành sản phẩm, cũng tăng mạnh); càng có hiệu quả. Mặc dù mới ra đời và phát mặt khác, nhiều doanh nghiệp không chú triển, nhưng doanh nghiệp Việt Nam đã thể trọng đến việc xây dựng thương hiệu, chiến hiện tính năng động, linh hoạt, không ngừng lược truyền thông, chiến lược phân phối và hoàn thiện vươn lên để nhanh chóng tiếp cận xúc tiến thương mại,… cũng gặp khó khăn thị trường trong và ngoài nước, chủ động bắt khi thị trường chuyển hướng. Tất cả những kịp sự phát triển với các doanh nghiệp trên thế nguyên nhân trên dẫn đến khả năng giải thể, giới, từng bước thích nghi với xu thế hội nhập ngưng hoạt động của doanh nghiệp tương đối kinh tế quốc tế và khu vực. cao. Vài năm trở lại đây, số doanh nghiệp mới
  3. Hội thảo Văn hóa kinh doanh trong điều kiện kinh tế thị trường 90 định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam thành lập tăng không nhiều so với số doanh trường, phát triển kinh tếcần đi đôi với tiến nghiệp ngừng hoạt động và giải thể. Tuy bộ và công bằng xã hội, tránh tăng trưởng nhiên, vấn đề đặt ra là số doanh nghiệp giải thể kinh tế bằng mọi giá để rồi để lại hậu quả là doanh nghiệp lớn, còn doanh nghiệp thành nặng nề cho thế hệ sau. lập mới thường có quy mô nhỏ [9, tr. 10]. Bên cạnh những thành tựu về kinh tế - Đây thực sự là một xu hướng không lành xã hội mà kinh tế thị trường mang lại, những mạnh (không tích cực) trong sự phát triển mặt trái của nền kinh tế này cũng đang tác của một nền kinh tế, chứng tỏ “sức khỏe” động đến con người và xã hội như: lối sống của doanh nghiệp nội địa suy giảm. Tính vị kỷ, vun vén cho quyền lợi của cá nhân, tư riêng năm 2013, số doanh nghiệp mới thành tưởng cục bộ, thờ ơ vớicộng đồng, đạt được lập là 76.955 doanh nghiệp, tăng 10,1% so lợi nhuận bằng mọi giá; tình trạng ô nhiễm với năm trước; số doanh nghiệp dừng hoạt môi trường, cạn kiệt nguồn tài nguyên thiên động và giải thể là 60.737 doanh nghiệp nhiên ngày một gia tăng, gây ảnh hưởng tăng 11,9% so với năm trước. Tốc độ doanh nghiêm trọng đến đời sống của cộng đồng nghiệp đóng cửa tăng mạnh, nhanh hơn cả dân cư,…. Có thể thấy, những hành vi trái số lượng doanh nghiệp mới thành lập so với đạo đứccủa một số doanh nghiệp Việt Nam năm 2012 [8, tr. 73]. (kinh doanh hàng giả, hàng kém chất lượng, Trước những biến động rủi ro của thị trốn thuế, lách luật, kinh doanh chộp giật vì trường, để có đủ sức cạnh tranh lâu dài và có thể lợi nhuận trước mắt gây hại cho người tiêu tự tin bước vào nền kinh tế tri thức, các doanh dùng, những hành vi ứng xử thiếu trách nghiệp Việt Nam cần phải xây dựng chiến lược nhiệm với người lao động và những vi phạm phát triển bền vững. Một trong những giải pháp luật bảo vệ môi trường,...) đang cản trở việc góp phần hạn chế sự phá sản và tạo đà phát xây dựng “thương hiệu sạch” cho hàng hóa triển cho các doanh nghiệp là xây dựng một của chính họ.Nếu pháp luật không nghiêm nền văn hóa doanh nghiệp mang đậm bản sắc túc xử lý những hành vi gây tổn thương con dân tộc Việt Nam. Điều này không mâu thuẫn người thì chẳng những trật tự, an toàn xã hội với hiệu quả sản xuất kinh doanh mà trái lại, là không được đảm bảo, mà doanh nghiệp luôn nền tảng cho sự tăng trưởng lâu dài và ổn định bị đe doạ bởi nguy cơ đổ vỡ. của doanh nghiệp. Tuy nhiên, với lịch sử phát Từ đây suy ra rằng, sự tồn vong của triển doanh nghiệp và doanh nhân ở nước ta doanh nghiệp không chỉ liên quan đến các còn khá mới mẻ, việc xây dựng nền văn hóa yếu tố về vật chất như lợi nhuận, khách hàng, doanh nghiệp như thế nào cho phù hợp là một thị phần, doanh số, chất lượng hàng hóa, dịch bài toán không đơn giản đối với những nhà vụ cung ứng mà còn liên quan đến yếu tố phi quản lý, hoạch định chính sách và bản thân vật chất như đạo đức kinh doanh, văn hóa doanh nghiệp. doanh nghiệp, trách nhiệm xã hội của doanh Ngày nay, phát triểnkinh tế thị trường nghiệp. Doanh nghiệp chỉ có thể tồn tại và không thể không phát triển doanh nghiệp. phát triển bền vững khi khẳng định được Doanh nghiệp có vai trò to lớn đến việc xây uy tín, thương hiệu dựa trên chất lượng dựng đồng bộ các loại thị trường.Với tư sản phẩm vì con người. Người tiêu dùng cách là trụ cột trong sự phát triển kinh tế của đang ngày càng trở thành “người tiêu dùng một quốc gia, quá trình đi lên của các doanh thông thái”. Nếu doanh nghiệp làm người nghiệp gắn chặt với sự tăng trưởng của đất tiêu dùng tổn thương, mất niềm tin, sớm nước nhằm tạo ra của cải vật chất cho xã hội. muộn sản phẩm của doanh nghiệp sẽ bị tẩy Tuy nhiên, trong xây dựng nền kinh tế thị chay. Tố chất đạo đức kinh doanh đòi hỏi
  4. ths. nguyễn kim chi 91 doanh nghiệp tự bồi đắp bằng sự tận tâm xuất, kinh doanh, dịch vụ trong nền kinh tế phục vụ khách hàng, tôn trọng quyền, lợi hàng hóa. Họ chịu trách nhiệm về những hoạt ích của khách hàng, giữ uy tín với khách động của mình trước pháp luật, trước cộng hàng. Nói tới kinh doanh có văn hoá, tức là đồng xã hội. Doanh nhân là người sở hữu đề cập đến vấn đề đạo đức của người kinh và điều hành tổ chức kinh tế, hoặc sở hữu doanh. Nói cách khác, kinh doanh có văn một phần và được đại hội cổ đông tín nhiệm hoá là kinh doanh phải có đạo đức. Nhiều giao nhiệm vụ điều hành doanh nghiệp. Đến doanh nghiệp nêu triết lý kinh doanh của nay, tầng lớp doanh nhân nước ta từng bước mình mang tinh thần "giá trị tốt đẹp nhất trưởng thành trong thương trường về số hướng tới là phục vụ con người” hay “tất cả lượng và chất lượng. Đã đến lúc cần phải xác vì con người, hướng tới con người và giữa định những bản sắc riêng cho đội ngũ này để những con người". Vì vậy, theo chúng tôi, họ có thể làm tốt công tác lãnh đạo, quản lý, xây dựng nền văn hóa doanh nghiệp có thể đưa doanh nghiệp Việt Nam ngày càng tiến theo cách này, cách khác tùy vào quy mô, xa hơn, hội nhập với thế giới. Văn hóa doanh tính chất, loại hình, giai đoạn phát triển của nhân Việt dựa trên những yếu tố sau: doanh nghiệp, nhưng tóm lại, một giá trị - Doanh nhân phải là người có tinh thần định hướng chung phải là “từ con người, vì yêu nước, dám dấn thân, hy sinh, không con người, phục vụ con người”. ngừng tạo ra giá trị xã hội: 2. Văn hóa của người đứng đầu doanh Khi đứng ở vị trí lãnh đạo, điều hành nghiệp – cơ sở để xây dựng và triển khai doanh nghiệp, doanh nhân hay tập thể doanh văn hóa doanh nghiệp nhân phải tư duy và hành động về sự phát Có thể tách biệt ra trong văn hóa doanh triển của doanh nghiệp. Tầm nhìn của doanh nghiệp ba cấp độ: thứ nhất – Những quá trình nhân quyết định rất lớn tới những điểm đến và cấu trúc hữu hình của doanh nghiệp (kiến của doanh nghiệp. Thương trường là chiến trúc, cách bài trí, công nghệ, sản phẩm, nội trường khốc liệt, không phải doanh nhân nào quy, lễ nghi, lễ hội, biểu tượng, logo, khẩu cũng chịu đựng được áp lực từ sự cạnh tranh hiệu, ngôn ngữ, trang phục, câu chuyện, trong chiến trường đó. Doanh nhân thử sức huyền thoại về tổ chức, thái độ, cách ứng xử mình trong những lĩnh vực kinh doanh khác của thành viên doanh nghiệp…); thứ hai – nhau, tìm hiểu luật pháp và thị hiếu tiêu dùng Những giá trị được chấp nhận (chiến lược, quốc tế để tạo ra sản phẩm phục vụ nhu cầu mục tiêu, triết lý của doanh nghiệp); thứ ba ngày càng tăng của thị trường trong nước – Những quan niệm chung (niềm tin, nhận và thị trường quốc tế để có thể phát triển thức, suy nghĩ, tình cảm có tính vô thức, mặc thương hiệu Việt. Theo số liệu của Cục Đầu nhiên được công nhận trong doanh nghiệp) tư nước ngoài (Bộ KH-ĐT), tính lũy kế đến [6, tr. 262]. 31/12/2014, đã có 930 dự án của doanh nghiệp Cần phải xây dựng và thực hiện văn hóa Việt Nam đầu tư ra nước ngoài với tổng vốn gắn với vai trò của của tập thể và của cộng đăng ký 14,85 tỷ USD. Bên cạnh đó, có 92 dự đồng. Tuy nhiên, trong bài viết này tác giả án xin tăng vốn, nâng tổng số vốn đầu tư lên muốn nhấn mạnh đến vai trò của người đứng gần 20 tỷ USD. Không chỉ các doanh nghiệp đầu doanh nghiệp – đội ngũ doanh nhân trong tên tuổi như: Viettel, FPT hay Vinamilk, rất việc thiết kế, định hình và làm lan tỏa văn hóa nhiều doanh nghiệp tư nhân khác cũng đang doanh nghiệp trong xã hội. vươn ra nước ngoài [10]. Doanh nhân chính là những người làm Để lãnh đạo, quản lý điều hành được chủ hay tham gia làm chủ doanh nghiệp sản doanh nghiệp, đội ngũ doanh nhân phải chấp
  5. Hội thảo Văn hóa kinh doanh trong điều kiện kinh tế thị trường 92 định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam nhận sự hy sinh không nhỏ về thời gian, tuổi tư duy “ăn xổi ở thì”, chụp giật, chạy theo đời, đôi khi cả hạnh phúc cá nhân để cống hiến lợi nhuận bất chấp mọi giá đã không còn chỗ cho sự nghiệp phát triển của doanh nghiệp đứng trong môi trường kinh doanh hiện đại. Việt Nam. Đến nay, một số doanh nhân nổi Chỉ có xây dựng chữ Tín mới là con đường tiếng của Việt Nam đã có tên trong danh sách phát triển bền vững nhất cho mọi doanh những người giàu nhất Châu Á, thế giới. Đó nghiệp. Một thương hiệu có uy tín có thể bán là niềm tự hào của Việt Nam, nhưng đằng sau sản phẩm giá cao hơn sản phẩm cùng loại thành công đó là sự hy sinh không nhỏ. Như của một hãng khác chưa có uy tín bằng. Như Đoàn Nguyên Đức, vất vả toàn tâm, toàn ý lo vậy tính cạnh tranh, hay nói cách khác là khả cho tập đoàn Hoàng Anh Gia Lai hơn 20 năm năng sinh lợi trong kinh doanh, không nhất nay, ông chưa từng tổ chức chuyến du lịch thiết phải tùy thuộc vào mặt hàng nào, công nào cho bản thân và gia đình. Vị Chủ tịch Hội nghệ nào hay số vốn, mà thực tế có thể trên đồng quản trị này dù rất chăm lo cho vợ con độ tin cậy của người tiêu thụ mặt hàng hoặc nhưng không có nhiều thời gian để sống cùng dịch vụ đó [13]. gia đình. Một tháng may ra, có ba ngày sống cùng gia đình ở Singapore [11]. Hàng loạt vụ tham nhũng của người đứng đầu doanh nghiệp như Dương Chí Dũng, Bầu Với tư cách là người tiên phong dẫn đầu Kiên, vụ chai nước Number One có ruồi của doanh nghiệp, doanh nhân chú trọng những công ty Tân Hiệp Phát, nước tương nhiễm 3 công việc mang lại nhiều lợi ích cho người Việt như: tạo việc làm, tăng thu nhập nâng - MCDP, trốn thuế, chuyển giá của Cocacola, cao đời sống người lao động, và cho nông dân không đóng bảo hiểm đầy đủ cho người lao nói riêng. Việt Nam là đất nước nông nghiệp động của Công ty Nibelc Việt Nam trong vụ với 70% dân số làm nghề nông, nhưng ngành sập giàn giáo Formosa, xả thải ra làm chết nông nghiệp chỉ đạt tăng trưởng GDP có con sông Thị Vải của công ty Vedan,… đều là 3%. Nông nghiệp vốn được xem là thế mạnh những hành vi kinh doanh chà đạp lên chữ tín của Việt Nam, nhưng người nông dân vẫn của doanh nghiệp. thấp thỏm với nỗi lo chưa bao giờ cũ “được Doanh nhân là người dám chịu trách mùa rớt giá, được giá mất mùa”. Tỷ suất lợi nhiệm: nhuận trong ngành nông nghiệp cũng luôn bị đánh giá thấp so với nhiều ngành nghề khác. Trách nhiệm ở đây là: trách nhiệm với Xuất khẩu nhiều, kim ngạch ấn tượng nhưng bản thân, trách nhiệm với tổ chức và trách thương hiệu luôn là bài toán nhức nhối cho nhiệm xã hội (TNXH). Trách nhiệm với xã các sản phẩm nông nghiệp của Việt Nam [12]. hội của doanh nghiệp là yêu cầu bắt buộc và là xu hướng tất yếu thúc đẩy sự phát triển của Cùng với đầu tư cho công nghiệp, dịch vụ doanh nghiệp trong thời đại ngày nay. Mục thường chiếm tỷ lệ lớn, thì các doanh nghiệp tiêu thực hiện TNXH là nhằm khuyến khích cũng nên dành phần đầu tư thích hợp cho nông các doanh nghiệp thực hiện các tiêu chuẩn xã nghiệp Việt Nam. Sau thời kỳ khủng hoảng kinh tế vừa qua, có dấu hiệu đáng mừng là hội và nâng cao chất lượng sản phẩm, đảm các doanh nghiệp như tập đoàn Hoàng Anh bảo sản xuất, kinh doanh và phát triển doanh Gia Lai, tập đoàn Vingroup,… đã tăng đầu tư nghiệp bền vững; tăng thu nhập và cải thiện vào nông nghiệp để nông sản Việt Nam thực đời sống của người lao động; đóng góp vào sự có chỗ đứng trong thị trường nội địa. sự tăng trưởng của đất nước; bảo vệ môi trường sống. Uy tín cũng như sức cạnh tranh - Doanh nhân chăm lo giữ chữ tín: của một doanh nghiệp phụ thuộc rất lớn vào Từ ngàn đời nay, kinh doanh có chữ tín hiệu quả kinh doanh và những việc làm cụ thể luôn tồn tại như một giá trị trường tồn. Lối mang tính xã hội, mà thực chất, hiệu quả kinh
  6. ths. nguyễn kim chi 93 doanh cao là đáp ứng tính xã hội cao. doanh nhân Việt Nam ngày một sâu sắc hơn. TNXH của DN có thực thi trên thực tế Có nhiều cách để xây dựng tinh thần doanh hay không phụ thuộc rất nhiều vào đội ngũ nhân, văn hóa doanh nhân, theo tác giả, yếu doanh nhân. Đội ngũ doanh nhân luôn đóng tố cốt lõi chính là xây dựng lòng tin. Lòng vai trò trung tâm và quyết định các hoạt động tin không phải là tín ngưỡng hay đức tin tôn của doanh nghiệp nói chung và nhất là trong giáo, không phải tự nhiên xuất hiện, không việc thực hiện TNXH nói riêng. Khi các giá phải mệnh lệnh hành chính hay quyết tâm trị, chuẩn mực xã hội thực sự trở thành nền chính trị nhất thời, mà hình thành từ thực tiễn tảng và mục đích cho hoạt động, các nhà trải nghiệm của doanh nhân. Nó có thể mất quản lý doanh nghiệp sẽ tự giác thực hiện các đi theo thời gian nếu doanh nhân thấy nản, TNXH, coi đó là tôn chỉ, là nhiệm vụ sống nhất là khi thời cuộc có nhiều khó khăn. Theo còn của họ để duy trì sự phát triển của doanh nhà xã hội học James Coleman, lòng tin, sự nghiệp. Nói cách khác, giá trị xã hội chính là kỳ vọng, trách nhiệm thể hiện trong quan hệ nền tảng và cũng là mục đích cho hoạt động xã hội và nhờ chúng mà các hành động được quản lý của họ. Đội ngũ doanh nhân thường thực hiện đều là những hình thái của vốn xã là người đề ra và quyết định các giá trị của tổ hội (Social Capital) [3, tr. 45]. Lòng tin chỉ chức mình. Các giá trị này luôn gắn với giá trị có thể được thể hiện thông qua thực tiễn và xã hội. Do chỗ, họ là những người đứng đầu, những quan hệ với chủ thể bên trong và bên có thẩm quyền ra quyết định nên nếu họ tin ngoài môi trường doanh nghiệp. Xét dưới góc tưởng những chính sách mà họ ban hành thì độ mối quan hệ của doanh nhân, chúng tôi sẽ có tác động tích cực đối với doanh nghiệp. cho rằng có các cấp độ về lòng tin như sau: Khi đã có lòng tin, là khi mọi tính toán trước Thứ nhất, lòng tin được xây dựng dựa sau đã được đặt ra cho tính khả thi và phòng trên cơ sở tin vào chính mình ngừa rủi ro. Ngược lại, nếu họ không vững Doanh nhân tin vào khả năng điều hành, tin vào chính sách của mình thì tính khả thi lãnh đạo doanh nghiệp của mình. Sự tin tưởng và sự rủi ro khó lường. Hậu quả có thể dẫn vào năng lực sẽ giúp đội ngũ doanh nhân phát đến nguy cơ gây tổn thất cho doanh nghiệp và huy tiềm năng tiềm ẩn trong con người họ. cho xã hội. Nếu doanh nhân không tin tưởng gắn kết giá trị doanh nghiệp với giá trị xã hội, Nếu không có lòng tin vào bản thân thì cá thì doanh nghiệp sẽ vận động theo thể tự do, nhân doanh nhân đó sẽ khó có thể dẫn dắt cả không trong quĩ đạo chuẩn mực xã hội, nơi tổ tập thể doanh nghiệp trên những con đường chức tồn tại và vận động. Hệ quả, sẽ không đầy khó khăn khi tham gia thương trường. có TNXH với bất cứ ai, bất cứ việc gì. Đó là Khả năng quản lý, lãnh đạo chỉ có thể được con đường từng bước đưa doanh nghiệp đến trải nghiệm thông qua thực tiễn. Qua những chỗ tự phá sản. tình huống và công việc thực tế, cụ thể, doanh nhân tự xây dựng cho mình sự tự tin vào chính 3. Giải pháp xây dựng văn hóa người mình để xử lý những công việc ấy. Để rèn đứng đầu doanh nghiệp – xây dựng lòng luyện lòng tin vào bản thân, trước hết, doanh tin nhân phải trung thực với chính mình để đánh Hình ảnh của doanh nhân luôn gắn liền giá chính mình một cách khách quan. Chỉ khi với sự phát triển thương hiệu của doanh đó, doanh nhân mới biết được chính xác bản nghiệp. Ý thức được điều này, doanh nhân thân đang tiềm ẩn những năng lực gì, những bên cạnh những hoạt động không ngừng tạo năng lực gì chưa có và bổ sung cái chưa có ra doanh thu, lợi nhuận cho doanh nghiệp cần bằng cách nào, trong hành động thì cần sự hỗ phải ý thức về việc tạo dựng hình ảnh của trợ của lực lượng nào. Nhãn quan rộng mở,
  7. Hội thảo Văn hóa kinh doanh trong điều kiện kinh tế thị trường 94 định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam im lặng lắng nghe tích cực, tinh thần trách nhân không chỉ biết chăm lo đến sự nghiệp nhiệm, gương mẫu, kiểm soát hành vi, dám của riêng mình mà còn có trách nhiệm đào tạo đương đầu với thử thách, áp lực và không sợ ra những lớp thế hệ quản lý mới có thể đảm thất bại sẽ là những tố chất bảo đảm cho lòng đương và chèo lái con thuyền doanh nghiệp tin trụ vững vào bản thân. Đặc điểm gia đình, của mình đang đi. Trao quyền và chỉ dẫn công đặc điểm vùng dân cư, hoàn cảnh sống, sự việc là cách người điều hành doanh nghiệp trải nghiệm của doanh nhân là những yếu tố đang tạo ra đội ngũ kế cận vững chắc. Chỉ góp phần tạo nên sự tự tin vào chính mình. có lòng tin mới tạo ra sự trung thành của đội Niềm tin này sẽ dần tăng lên theo thời gian ngũ kế cận để phát triển doanh nghiệp tiếp tục trải nghiệm thành công. tiến xa hơn nữa. Mặt khác, những người kế Thứ hai, lòng tin được xây dựng trong cận cũng cần thể hiện thái độ hỗ trợ lòng tin mối quan hệ với cá nhân với tư cách là thành của chủ doanh nghiệp bằng cách có ý chí và viên của doanh nghiệp bản lĩnh cầu thị, tiếp thu những tri thức được chuyển giao. Khi đó niềm tin đến từ hai phía Uy tín của doanh nhân làm nên lòng tin sẽ là sức mạnh được nhân lên để hoàn thành của họ đối với những người đồng nghiệp công việc. Không có niềm tin tương hỗ lẫn cùng làm việc. Giả sử, người lãnh đạo tổ chức nhau, thì công việc đào tạo cộng sự cấp dưới đánh mất niềm tin với các cộng sự, thì trong thành người lãnh đạo, quản lý trong doanh tổ chức không thể huy động được nội lực của nghiệp khó thành. doanh nghiệp. Niềm tin vào lãnh đạo bắt đầu bị giảm sút khi nào, thì khi ấy cũng bắt đầu Thứ ba, lòng tin được xây dựng trong sự giảm thiểu và thui chột tính chủ động, sáng mối quan hệ với tổ chức tạo của các cộng sự, nhân viên. Những yếu tố Doanh nghiệp là nơi doanh nhân ghi dấu làm cho một doanh nhân là chủ doanh nghiệp ấn của mình trong quá trình làm lãnh đạo, bị mất niềm tin với cộng sự là: Thiếu bản quản lý doanh nghiệp. Một doanh nhân có lĩnh, hoảng hốt trước những biến đổi; không xây dựng được lòng tin với tổ chức là do cách có kỹ năng khai thác nội lực, huy động ngoại người đó điều hành đã đưa doanh nghiệp vươn lực; thiếu gắn bó với cộng sự; không có kỳ xa cũng như cách anh ta đã quan tâm tới đội vọng cho bản thân và tổ chức; nói không đi ngũ người lao động của doanh nghiệp. Doanh đôi với làm và… nhân không chỉ đại diện cho chính mình mà Sự phát triển của doanh nghiệp là sự đại diện cho tổ chức. Vì thế, lòng tin của tổ đồng hành gắn kết giữa chủ doanh nghiệp và chức dành cho doanh nhân là ghi nhận, sự ủng tất cả cộng sự. Mất đi sự gắn kết ấy, doanh hộ cho những cống hiến của doanh nhân với nghiệp không thể vận động được. Vả lại, sự sự phát triển của doanh nghiệp. Thương hiệu gắn kết ấy lại giúp hình thành từ lòng tin và của doanh nghiệp luôn gắn liền với sự đóng hành động của doanh nhân trong mối quan hệ góp của thương hiệu cá nhân doanh nhân, hay tương hỗ với đồng nghiệp. Trên con đường tập thể doanh nhân. Xây dựng và phát triển thành công, những người lãnh đạo, quản lý thương hiệu cá nhân là việc cần làm để tạo doanh nghiệp không thể đi độc đạo một mình ra lòng tin của tổ chức. Để có được lòng tin mà luôn phải có những người cùng đồng ấy đòi hỏi doanh nhân phải tạo ra một dấu ấn hành. Vì vậy, để những người đồng hành tin về năng lực tư duy và hành động mang tính mình thì doanh nhân phải có những tố chất, chiến lược, về phong cách lãnh đạo, quản lý hành vi quản lý mang tính dẫn dắt, nhất là và năng lực tạo dựng văn hóa quản lý. Vị thế năng lực nhạy bến với tình hình thời cuộc. của nhà lãnh đạo, quản lý doanh nghiệp được Trong tư duy và hành động, tầng lớp doanh củng cố thông qua nét văn hóa tổ chức và
  8. ths. nguyễn kim chi 95 phong cách quản lý, lãnh đạo mà anh ta thiết của họ đối với doanh nhân và doanh nghiệp lập. Tổ chức sẽ tin tưởng và giao trọng trách sản xuất ra hàng hóa đó. dẫn dắt cho một đầu tầu, biết cách chèo lái Thứ năm, lòng tin được xây dựng trong con thuyền doanh nghiệp. Cả tổ chức đi theo mối quan hệ với xã hội sự chỉ đạo đường hướng của người đứng đầu doanh nghiệp mà họ tin tưởng, tín nhiệm một Nói tới chủ thể xã hội trong mối quan hệ cách tự nguyện. Sự đồng thuận trong hành với doanh nghiệp ở đây là chỉ một các mối động và ý chí của cả doanh nghiệp là thước quan hên ngoài mối liên hệ với doanh nghiệp đo lòng tin của cả tổ chức dành cho cá nhân không phải là người lao động của doanh doanh nhân. nghiệp, bạn hàng, người tiêu dùng, mà là những chủ thể như hạ tầng giao thông cộng Thứ tư, lòng tin được xây dựng trong mối đồng, khuyến học, cơ sở giáo dục, y tế vùng quan hệ với thị trường cao, hộ nghèo, những mảnh đời kém may mắn Sự thay đổi, biến thiên của thị trường (ốm đau...) được doanh nghiệp quan tâm hỗ xảy ra hàng ngày, hàng giờ. Nếu không có trợ, cải thiện cuộc sống. Ở đây người hưởng sự vững tin và kiên định vào thị trường, nhất lợi từ mối quan hệ này là toàn dân hoặc một là thiếu nhạy bén với những biến đổi của thị nhóm cư dân nào đó hoàn toàn không có mối trường thì doanh nhân sẽ không thể có đóng quan hệ gì với hoạt động kinh tế của doanh góp vào sự mở rộng hay phát triển của thị nghiệp. Niềm tin của doanh nhân nếu không trường một lĩnh vực nào đó. Doanh nghiệp có đặt vào sự tạo dựng được mối quan hệ này thì chiếm lĩnh được đa số thị phần hay không, có vai trò một chủ thể xã hội là một thiết chế kinh trở thành thương hiệu mạnh trên thị trường tế không đóng góp được nhiều cho xã hội. hay không phụ thuộc vào lòng tin và sự hài Khi doanh nhân có niềm tin thiết lập mối lòng của người tiêu dùng đối với sản phẩm quan hệ xã hội này, xét đến cùng cũng là góp hàng hóa, giá trị dịch vụ do doanh nghiệp tạo phần xây dựng một xã hội phát triển bền vững. ra. Nếu sản phẩm, hàng hóa của doanh nghiệp Xã hội phát triển là môi trường cho các doanh không tạo được lòng tin của người tiêu dùng nghiệp phát triển hơn. Để có được mối quan thì tất yếu người tiêu dùng sẽ quay lưng hệ này, trước hết là do ý thức của doanh nhân lại với sản phẩm trên thị trường của doanh thấy được nhu cầu xã hội cần đến sự tham nghiệp. Những chiến dịch quảng cáo mới chỉ gia của doanh nghiệp và đặt niềm tin vào giá là hình thức giới thiệu sản phẩm đến đông trị tích cực qua hành động của doanh nghiệp đảo người tiêu dùng, còn niềm tin vào sản với xã hội. Những hành động của doanh nhân phẩm do doanh nghiệp sản xuất ra phải do mang lại lợi ích cho xã hội sẽ được xã hội ghi chất lượng và giá trị của sản phẩm quyết định. nhận và tin tưởng. Doanh nghiệp cũng chỉ là Ở đây, lòng tin của thị trường gắn với chất một thực thể vận động trong xã hội nên doanh lượng thương hiệu sản phẩm và chất lượng nghiệp chỉ có thể phát triển trong sự phát triển dịch vụ mà doanh nghiệp đó tạo ra. Để xây của xã hội. Doanh nhân phải tin tưởng rằng, dựng lòng tin đó thì sản phẩm, dịch vụ của việc tham gia giải quyết những vấn đề của doanh nghiệp đòi hỏi có tính xã hội cao, phù xã hội cùng với những chủ thể khác trong hợp với nhu cầu của thị trường, làm hài lòng xã hội là cách thể hiện TNXH của đội ngũ người tiêu dùng. Người tiêu dùng không dùng doanh nhân đạt trình độ tự giác cao. Tuy công sản phẩm nếu người đứng đầu doanh nghiệp việc này không thuộc chức năng, nhiệm vụ bóc lột người lao động, trốn thuế, xả thải ra của doanh nghiệp và có thể làm cho doanh môi trường,… Sự tẩy chay của người tiêu nghiệp tốn thêm chi phí nhưng doanh nghiệp dùng chính là phản ứng về sự đổ vỡ niềm tin cần phải có sự nhìn xa trông rộng, không
  9. Hội thảo Văn hóa kinh doanh trong điều kiện kinh tế thị trường 96 định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam chạy theo những lợi nhuận trước mắt, đứng doanh nhân của một doanh nghiệp phải có sự trước những hoàn cảnh khó khăn của cộng tự tin trước khi đặt niềm tin vào những TNXH đồng xã hội, doanh nghiệp cùng chung sức mà doanh nghiệp phải thực hiện. Lòng tin của nhằm xây dựng xã hội ngày một tốt đẹp hơn. doanh nhân đặt vào các khía cạnh thực thi Phải có thái độ trách nhiệm cao với xã hội, TNXH ở mức độ cao bao nhiêu, thì TNXH doanh nghiệp mới dành một phần lợi nhuận của họ đạt hiệu quả cao bấy nhiêu. Khi đó, của mình đóng góp vào các hoạt động trợ sự tin tưởng của người lao động, người tiêu giúp cộng đồng cải thiện điều kiện sống. dùng hay của xã hội vào đội ngũ doanh nhân là tiêu chí đo tính TNXH của doanh nhân. Vì Vì cộng đồng và san sẻ gánh nặng với vậy, việc tạo dựng lòng tin của doanh nhân cộng đồng đang là mục tiêu hướng tới của theo từng khía cạnh quan hệ là yêu cầu cần doanh nghiệp có trách nhiệm. Nếu như doanh thiết để xây dựng chất lượng và giá trị TNXH nghiệp thờ ơ với những hoạt động mang tính của doanh nghiệp. Tùy vào từng điều kiện, TNXH cốt yếu này thì có nghĩa là doanh lĩnh vực kinh doanh, quy mô khác nhau của nghiệp đã tự loại bỏ sự tồn tại mình ra khỏi doanh nghiệp, mức độ lòng tin sẽ được xây xã hội. dựng khác nhau để nâng cao uy tín và sức Tóm lại, việc doanh nhân hay tập thể cạnh tranh của doanh nghiệp. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Đỗ Minh Cương (2001), Văn hóa kinh doanh và triết lý kinh doanh, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 2. Trần Quốc Dân (2008), Doanh nghiệp, doanh nhân và văn hóa, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 3. Lê Ngọc Hùng (2008), “Vốn xã hội, vốn con người và mạng lưới xã hội qua một số nghiên cứu ở Việt Nam”, Tạp chí Nghiên cứu con người số 4 (số 37), trang 45 – 54. 4. Vũ Đăng Minh (2009), Xây dựng và phát triển đội ngũ giám đốc doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 5. Phùng Xuân Nhạ (2011), Nhân cách doanh nhân và văn hóa kinh doanh ở Việt Nam trong thời kỳ đổi mới, hội nhập quốc tế, Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội. 6. Dương Thị Liễu (chủ biên) (2006), Bài giảng Văn hoá kinh doanh, Nhà xuất bản Đại học Kinh tế Quốc dân, Hà Nội. 7. Nguyễn Mạnh Quân (2007), Đạo đức kinh doanh và văn hóa công ty, Nhà xuất bản Đại học Kinh tế quốc dân. 8. Trần Đình Thiên (2014), Kinh tế Việt Nam những vấn đề của Khu vực doanh nghiệp, Nxb Khoa học Xã hội. 9. Diễn đàn kinh tế mùa xuân 2014, Nhà xuất bản Tri thức, 10. Đầu tư ra nước ngoài: Những mùa “quả ngọt”, đầu tiên, http://chungta.vn/tin-tuc/ho-viet/dau-tu-ra-nuoc- ngoai-nhung-mua-qua-ngot-dau-tien-38068.html 11. Điều chưa kể về người vợ được bầu Đức giấu kín, http://dantri.com.vn/kinh-doanh/dieu-chua-ke-ve-nguoi-vo-duoc-bau-duc-giau-kin-1003508.htm 12. Đại gia đầu tư vào nông nghiệp http://www.baomoi.com/Dai-gia-dau-tu-nong-nghiep/45/16270038.epi
nguon tai.lieu . vn