- Trang Chủ
- Triết học
- Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong quá trình nâng cao chất lượng giảng dạy môn Triết học Mác – Lênin
Xem mẫu
- Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong
quá trình nâng cao chất lượng giảng dạy
môn Triết học Mác – Lênin
Tác giả : T.s. Nguyễn Thái Sơn - Trường
Đại học Vinh
File đính kèm: Không có
Tư tưởng Hồ Chí Minh là một di sản
quý báu của dân tộc ta, việc nghiên cứu,
học tập và giảng dạy tư tưởng của Người
là một nhiệm vụ hết sức quan trọng trong
giai đoạn cách mạng hiện nay. Điều đó đã
được các cấp lãnh đạo Đảng và Nhà nước
khẳng định.
Lịch sử cũng đã chứng tỏ rằng người
Việt Nam đầu tiên nghiên cứu, tiếp thu chủ
nghĩa Mác - Lê nin một cách có hệ thống
sâu sắc và truyền bá những tư tưởng đó vào
Việt Nam chính là chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ
- đại. Chính vì lẽ đó mà giữa tư tưởng Hồ
Chí Minh với chủ nghĩa Mác - Lê nin có
mối liên hệ hữu cơ đặc biệt khăng khít,
gắn bó. Trên một nền tảng văn hoá, tinh
thần phương Đông vững chắc, Bác Hồ kính
yêu đã tiếp nhận một cách thấu đáo những
tinh hoa tư tưởng của thời đại phát sinh từ
phong trào đấu tranh của giai cấp vô sản
thế giới. Ngày nay, việc nghiên cứu, học
tập và giảng dạy tư tưởng Hồ Chí Minh
không thể tách rời chủ nghĩa Mác - Lê nin
và ngược lại. Trong bối cảnh Việt Nam, có
thể khẳng định rằng việc giảng dạy các
môn khoa học Mác - Lê nin phải gắn liền
với tư tưởng Hồ Chí Minh. Đây không
những là một yêu cầu đòi hỏi có tính cấp
bách mà còn mang tính chiến lược lâu dài.
Đại học Vinh là một trường đại học có
quy mô và tầm cỡ lớn trong hệ thống các
trường đại học ở Việt Nam. Gần 50 năm
xây dựng phát triển và trưởng thành, trường
- đã góp phần đào tạo hàng vạn giáo viên và
cán bộ nghiên cứu khoa học cho mọi miền
của tổ quốc. Là trường đại học đầu tiên
trên quê hương của Bác Hồ kính yêu, hơn
bất kỳ một trường đại học nào khác,
trường phải có nhiệm vụ đi đầu trong công
tác nghiên cứu, học tập và giảng dạy tư
tưởng Hồ Chí Minh. Đội ngũ cán bộ khoa
GDCT coi việc thực hiện nhiệm vụ này là
một vinh dự lớn lao và cũng là một trách
nhiệm nặng nề.
Việc nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh
là một đề tài hấp dẫn và đã được nhiều nhà
nghiên cứu khoa học trong và ngoài nước
quan tâm trên nhiều góc độ, nhiều khía
cạnh khác nhau. Tuy nhiên việc nghiên cứu
nhằm quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh
trong quá trình giảng dạy triết học Mác - Lê
nin vẫn chưa được quan tâm một cách đúng
mức.
- Hồ Chí Minh là một nhà tư tưởng lớn.
Những tư tưởng mà người để lại hết sức
có giá trị cả về mặt lý luận và thực tiễn.
Ngày nay, trong sự nghiệp đổi mới chúng ta
không thể không vận dụng một cách sáng
tạo những tư tưởng quý báu của Người.
Trong sự nghiệp giáo dục và đào tạo, theo
chúng tôi, việc vận dụng những tư tưởng
của Hồ Chí Minh lại càng cấp bách và cần
thiết hơn bao giờ hết. Đặc biệt, đối với quá
trình giảng dạy và học tập các môn học
Mác - Lê nin việc vận dụng, quán triệt tư
tưởng Hồ Chí Minh là một yêu cầu không
thể thiếu. Theo chúng tôi đây là điều kiện
cực kỳ quan trọng góp phần nâng cao chất
lượng và hiệu quả của việc giảng dạy và
học tập các môn học này. Trong giai đoạn
hiện nay, việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí
Minh nhằm nâng cao chất lượng giảng dạy
môn triết học Mác – Lênin có thể triển khai
theo những hướng cơ bản như sau:
- a. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh
trong giảng dạy vấn đề thế giới quan duy
vật và phép biện chứng mác xít
Thế giới quan là một khái niệm phức tạp.
Theo từ điển tiếng Việt do giáo sư Hoàng
Phê chủ biên thì thế giới quan là: “Quan
niệm thành hệ thống về thế giới, về các
hiện tượng tự nhiên và xã hội” (1). Theo
cuốn Đại từ điển tiếng Việt do nhà xuất
bản Văn hoá - Thông tin ấn hành năm 1998
thì thế giới quan được định nghĩa là: “Cách
thức nhìn nhận và giải thích các hiện tượng
tự nhiên, xã hội thành hệ thống quan điểm
thống nhất”. Trong cuốn từ điển triết học
do M.Rodentan chủ biên thì thế giới quan
là: “Hệ thống quan điểm, khái niệm và
quan niệm về toàn bộ thế giới chung quanh
mình. Theo nghĩa tổng quát, đó là toàn bộ
những quan điểm về thế giới, về những
hiện tượng trong tự nhiên và trong xã hội:
- các quan điểm triết học, xã hội và chính trị,
luân lý, mỹ học, khoa học...” (2).
Như vậy thế giới quan là một hệ thống
các quan niệm, quan điểm của con người
về thế giới, về vị trí của con người trong
thế giới nhằm giải đáp những vấn đề về
mục đích, ý nghĩa cuộc sống của con
người.
Trong hệ thống đó, các quan điểm triết
học hợp thành hạt nhân chủ yếu và có tầm
quan trọng đặc biệt. Các quan điểm triết
học có vai trò liên kết các hiểu biết khác
của con người, các quan điểm chính trị, xã
hội, luân lý, đạo đức, văn hoá, khoa học...
thành hệ thống thống nhất. Vấn đề chủ
yếu của một thế giới quan cũng là vấn đề
cơ bản của triết học, đó chính là mối quan
hệ giữa tư duy và tồn tại hay nói cách khác
là vấn đề quan hệ giữa vật chất và ý thức.
Tùy theo cách nhận định, quan niệm ý thức
hay vật chất cái nào có trước, cái nào đóng
- vai trò quyết định mà hình thành hai loại thế
giới quan chủ yếu: thế giới quan duy tâm
và thế giới quan duy vật.
Căn cứ vào những phân tích trên đây,
chúng ta thấy rằng thế giới quan là một
khái niệm rất phức tạp, có tính trừu tượng
cao. Sự hình thành thế giới quan ở mỗi một
cá nhân là một quá trình lâu dài và phụ
thuộc nhiều yếu tố, nhiều điều kiện khác
nhau.
Vấn đề thế giới quan của con người có
ý nghĩa sâu sắc, to lớn không những về mặt
lý luận nhận thức mà còn cả trên phương
diện thực tiễn. Vì bản thân thế giới quan là
sự biểu hiện cách nhìn nhận bao quát của
con người về vũ trụ và xã hội nên nó quyết
định thái độ của con người đối với thế giới
xung quanh và đóng vai trò là kim chỉ nam
cho mọi hành động của con người.
- Để xây dựng và bồi dưỡng thế giới quan
cho sinh viên, chúng ta phải sử dụng nhiều
phương thức và biện pháp khác nhau, với
nhiều nội dung và hình thức khác nhau.
Trong đó việc bồi dưỡng thế giới quan
thông qua quá trình giảng dạy các môn học
trong trường đại học là biện pháp cơ bản
nhất. Đây là biện pháp đóng vai trò then
chốt, quyết định. Tất cả các môn học, các
ngành khoa học đều có ý nghĩa, tầm quan
trọng lớn lao đối với quá trình xây dựng và
bồi dưỡng thế giới quan cho sinh viên. Tuy
nhiên, do mối quan hệ mật thiết giữa triết
học và thế giới quan cho nên Triết học Mác
- Lênin là môn học có vai trò, ảnh hưởng
đặc biệt, quan trọng nhất.
Việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh
vào giảng dạy, xây dựng bồi dưỡng thế
- giới quan duy vật biện chứng cho sinh viên
cần tập trung vào mấy điểm then chốt.
Thứ nhất, thông qua quá trình giảng dạy,
cần làm nổi bật cho sinh viên thấy được
rằng chính bản thân Hồ Chí Minh là người
có một thế giới quan cực kỳ duy vật, biện
chứng và khoa học. Trong quá trình hoạt
động cách mạng phong phú và bằng những
kinh nghiệm thực tiễn hết sức quý giá, Hồ
Chí Minh đã tự xây dựng cho mình thế giới
quan khoa học cách mạng với tính chất duy
vật triệt để nhất. Thiên tài Hồ Chí Minh
được thể hiện qua nhãn quan cách mạng
sâu sắc của Người. Nhờ có thế giới quan
đúng đắn, Người đã nắm bắt chính xác xu
hướng phát triển của thời đại để tìm ra con
đường cách mạng đúng đắn cho dân tộc
mình. Sinh ra trong một gia đình nhà Nho
yêu nước, gần gũi với nhân dân trên mảnh
đất Nghệ Tĩnh giàu truyền thống anh dũng
- bất khuất, Hồ Chí Minh đã sớm mang trong
mình tinh thần yêu nước nồng nàn. Ngay từ
những ngày đầu hoạt động cách mạng,
người thanh niên Nguyễn Tất Thành tuy
chưa nhận thức được đặc điểm của thời
đại, nhưng từ thực tế lịch sử Bác đã thấy
được con đường cứu nước của cha anh là
cũ kỹ, lạc hậu và không thể đem đến thành
công. Người phải đi tìm một con đường
mới, đó là con đường cách mạng vô sản,
con đường đến với Lê nin và chủ nghĩa
Mác - Lê nin. Hồ Chí Minh đã vượt qua
khoảng 30 nước ở bốn châu lục khác nhau.
Nhờ đi nhiều nơi, hoạt động thực tiễn
phong phú mà Hồ Chí Minh có vốn hiểu
biết rất rộng rãi. Có thể nói Người là một
trong những nhà hoạt động chính trị đã đi
nhiều nhất, có không gian và phạm vi hoạt
động rộng lớn nhất, có vốn hiểu biết thực
tế phong phú nhất về các thuộc địa cũng
như các quốc gia đế quốc tư bản hồi đầu
- thế kỷ XX. Chính nhờ quá trình bôn ba ấy
mà thế giới quan khoa học, cách mạng của
Người được hình thành một cách triệt để.
Như vậy rõ ràng là để có một thế giới quan
duy vật, biện chứng khoa học cần phải có
vốn hoạt động thực tiễn phong phú, sâu
sắc, rộng lớn. Con người không thể cứ
ngồi một nơi rồi đọc sách mà thế giới quan
tự nó hình thành, tự nó đến.
Năm 1917, Hồ Chí Minh từ Anh trở về
Pháp, đến sống và hoạt động tại Pa-ri, một
trung tâm văn hóa, khoa học, chính trị của
cả châu Âu lúc bấy giờ. Nhờ lăn lộn trong
phong trào hoạt động của giai cấp vô sản
Pháp lúc bấy giờ mà người đã nhanh chóng
đến với những tư tưởng mới. Trước khi
tiếp cận với luận cương của Lê nin, Hồ
Chí Minh đã sơ bộ kết luận chủ nghĩa tư
bản, đế quốc đâu cũng tàn bạo, độc ác, bất
công như nhau. Người lao động ở đâu cũng
- bị bóc lột, áp bức, đày đọa. Có thể nói,
trước đại hội Tua, Hồ Chí Minh đẫ tiếp
cận gần kề với chân lý của Lê nin, Người
đã suy nghĩa về những vấn đề mà Lê nin đã
viết, tuy chưa rõ ràng và sáng tỏ. Đến khi
đọc luận cương của Lê nin, Người đã vui
mừng đến trào nước mắt. Những chân lý
mà bấy lâu Người nung nấu đã được bày tỏ
một cách rõ ràng. Người đã tìm ra con
đường chân chính cho sự nghiệp cứu nước,
giải tộc.
phóng dân
Như vậy, tư tưởng Hồ Chí Minh là sự
gặp gỡ giữa trí tuệ lớn của Người với trí
tuệ dân tộc và trí tuệ thời đại. Sự gặp gỡ
này diễn ra trên cơ sở thế giới quan duy
vật, khoa học và biện chứng. Rõ ràng, ở Hồ
Chí Minh, thế giới quan duy vật, khoa học,
biện chứng đã được phát triển lên đến đỉnh
cao của dân tộc và thời đại.
Thứ hai, quán triệt tư tưởng Hồ Chí
- Minh trong quá trình bồi dưỡng, xây dựng
thế giới quan cho sinh viên cần thấy rằng
Hồ Chí Minh là người đã vận dụng một
cách hết sức thành công và sáng tạo thế
giới quan duy vật biện chứng vào thực tiễn
cuộc sống, vào thực tiễn cách mạng Việt
Nam và đã đưa cuộc cách mạng đi đến
thắng lợi vinh quang. Chủ tịch Hồ Chí Minh
là nhà tư tưởng vĩ đại, nhà lý luận thiên tài
của cách mạng Việt Nam. Người đã nêu
một tấm gương sáng trong việc tiếp thu và
vận dụng chủ nghĩa Mác – Lênin trên tinh
thần độc lập, tự chủ và sáng tạo. Người đã
nắm bắt sâu sắc bản chất cách mạng và
khoa học, tinh thần biện chứng và nhân đạo
của học thuyết Mác – Lênin, vận dụng một
cách sáng tạo học thuyết ấy phù hợp với
hoàn cảnh thực tế nước ta, đồng thời
Người đã kế thừa, phát huy chủ nghĩa yêu
nước, truyền thống tốt đẹp của dân tộc và
tinh hoa của nhân loại. Tư tưởng Hồ Chí
- Minh được hình thành từ những nguồn gốc
đó. Việc Đại hội VII khẳng định chủ nghĩa
Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền
tảng tư tưởng của Đảng và kim chỉ nam
cho hành động là một bước phát triển hết
sức quan trọng trong nhận thức và tư duy lý
luận của Đảng ta.
Trong khi giải quyết những vấn đề của
cách mạng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã góp phần phát triển chủ nghĩa Mác
– Lênin trên nhiều vấn đề quan trọng, đặc
biệt là lý luận về cách mạng giải phóng dân
tộc và tiến lên chủ nghĩa xã hội ở các nước
thuộc địa và phụ thuộc. Tư tưởng của
Người đã và đang soi đường cho cuộc đấu
tranh của nhân dân ta giành thắng lợi, trở
thành những giá trị bền vững của dân tộc
Việt Nam và lan tỏa ra thế giới.
Ngày nay, khi sự nghiệp đổi mới ở nước
ta ngày càng đi vào chiều sâu, những biến
- chuyển trên thế giới ngày càng lớn, những
vấn đề mới đặt ra trong đời sống xã hội
ngày càng nhiều. Điều đó đòi hỏi phải làm
sáng tỏ để tìm ra sự giải đáp. Rõ ràng việc
nghiên cứu, bảo vệ, vận dụng và phát triển
tư tưởng Hồ Chí Minh vào thực tế cuộc
sống càng trở thành nhiệm vụ cấp bách,
quan trọng trong công tác lý luận và chính
trị của Đảng,
toàn toàn dân.
Tư tưởng “Không có gì quý hơn độc lập
tự do” xuất phát điểm của tư tưởng Hồ Chí
Minh. Từ một thanh niên thuộc địa, mất
nước, ra đi tìm đường cứu nước, mục tiêu
trước mắt của Người là giải phóng dân tộc.
Vấn đề đặt ra là trong điều kiện chủ nghĩa
đế quốc đã trở thành một hệ thống thế
giới, các dân tộc thuộc địa có thể b?ng con
đường nào để giành được thắng lợi? Dưới
ánh sáng Luận cương về vấn đề dân tộc và
thuộc địa của Lênin, Người đã tìm ra con
đường giải phóng cho dân tộc mình và cho
- cả các dân tộc thuộc địa khác. Người khẳng
định chỉ có chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa
cộng sản mới giải phóng được các dân tộc
bị áp bức và giai cấp công nhân toàn thế
giới.
b. Quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh
trong giảng dạy vấn đề dân tộc, giai cấp và
mạng hội.
cách xã
Khái niệm dân tộc hiểu theo nghĩa khoa
học là một hình thức cộng đồng người cao
hơn tất cả các hình thức cộng đồng người
trước đó. Dân tộc là hình thức cộng đồng
người gắn liền với xã hội có giai cấp, có
nhà nước và các thể chế chính trị. Những
cộng đồng người được coi là dân tộc có các
đặc trưng chủ yếu như sau. Thứ nhất là có
sự cộng đồng về ngôn ngữ, thứ hai là có
cộng đồng về lãnh thổ, thứ ba là cộng đồng
về kinh tế, thứ tư là cộng đồng về văn hóa,
tâm lý, tính cách. Hình thức cộng đồng dân
tộc có vai trò to lớn đối với sự phát triển
- con người và xã hội. Dân tộc không chỉ là
sản phẩm của sự phát triển về kinh tế, văn
hóa xã hội mà còn là động lực, là cái nôi
của mọi sự phát triển trong thời cận, hiện
đại, từ sự tiến hóa bình thường cho đến
cách mạng xã hội.
Về vấn đề giai cấp, theo quan điểm của
Lênin thì giai cấp là: “những tập đoàn to lớn
gồm những người khác nhau về địa vị của
họ trong một hệ thống sản xuất xã hội nhất
định trong lịch sử, khác nhau về quan hệ
của họ (thường thường thì những quan hệ
này được pháp luật quy định và thừa nhận),
đối với những tư liệu sản xuất, về vai trò
của họ trong tổ chức lao động xã hội, và
như vậy là khác nhau về cách thức hưởng
thụ và về phần của cải xã hội ít hoặc
nhiều mà họ được hưởng. Giai cấp là
những tập đoàn người mà tập đoàn này thì
có thể chiếm đoạt lao động của tập đoàn
- khác do chỗ các tập đoàn đó có địa vị khác
nhau trong một chế độ kinh tế xã hội nhất
định”.
Về mối quan hệ dân tộc, giai cấp, nhân
loại trên quan điểm triết học Mác - Lê nin,
chúng ta thấy rằng sự nghiệp cách mạng
của giai cấp công nhân, nhân dân lao động
và các dân tộc bị áp bức đòi hỏi phải nhận
thức đúng đắn mối quan hệ giai cấp-dân
tộc-nhân loại.
Giai cấp và dân tộc quan hệ mật thiết
với nhau, song đó là những phạm trù chỉ các
quan hệ xã hội khác nhau, mỗi nhân tố có
vai trò lịch sử của nó. Giai cấp, dân tộc
không thay thế lẫn nhau. Sẽ là sai lầm nếu
tách rời giai cấp và dân tộc hoặc đem quy
mối quan hệ này vào mối quan hệ kia. Giai
cấp và dân tộc sinh ra và mất đi không đồng
thời. Nguyên nhân sâu xa của áp bức dân
tộc chính là sự áp bức giai cấp, do đó các
- nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác đã kết
luận rằng muốn xóa bỏ áp bức dân tộc
trước hết phải xóa bỏ áp bức giai cấp, xóa
bỏ triệt để vấn đề người bóc lột người.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân tộc và
cách mạng giải phóng dân tộc vừa là sự kết
hợp tinh hoa dân tộc và trí tuệ thời đại, vừa
thể hiện tinh thần độc lập dân tộc, tự chủ,
sáng tạo của Người trong việc vận dụng
những nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lê
nin vào hoàn cảnh Việt Nam và các nước
phương Đông. Khi quán triệt tư tưởng Hồ
Chí Minh vào giảng dạy vấn đề dân tộc,
giai cấp, nhân loại trong chương trình triết
học ở bậc đại học cần chú ý mấy điểm
chốt.
then
Thứ nhất: Vấn đề dân tộc trong tư
tưởng Hồ Chí Minh không phải là vấn đề
dân tộc nói chung. Khi chủ nghĩa đế quốc đi
xâm chiếm thuộc địa để mở rộng thị
trường, thực hiện sự áp bức chính trị, bóc
- lột về kinh tế, nô dịch về văn hóa đối các
nước bị xâm chiếm thì vấn đề dân tộc trở
thành vấn đề dân tộc thuộc địa. Đây thực
chất là vấn đề đấu tranh giải phóng của các
dân tộc thuộc địa nhằm thủ tiêu sự thống trị
của nước ngoài, giành độc lập dân tộc, xóa
bỏ ách áp bức bóc lột thực dân, thực hiện
quyền dân tộc tự quyết, thành lập nhà nước
tộc độc lập.
dân
Thứ hai: Trong tư tưởng Hồ Chí Minh,
vấn đề độc lập, tự do là quyền thiêng liêng,
bất khả xâm phạm của tất cả các dân tộc.
Lịch sử Việt Nam là lịch sử không ngừng
đấu tranh dựng nước và giữ nước. Đối với
một người dân mất nước cái quý nhất trên
đời là độc lập của Tổ quốc, tự do của nhân
dân. Hồ Chí Minh đã từng nói rằng cái mà
Người cần nhất trên đời là đồng bào tôi
được tự do, Tổ quốc tôi được độc lập, trên
đường tiếp cận chân lý cứu nước, Hồ Chí
Minh đã tìm hiểu tuyên ngôn độc lập 1776
nguon tai.lieu . vn