Xem mẫu

  1. việc giảng dậy, học tập th ì không có vì vậy không phát huy đ ược khả năng sáng tạo của sinh viên. Tại một số n ước nền giáo dục hiện đại thì sinh viên sau khi học h ết năm thứ 3 th ì có thể làm việc đ ược tại một cơ quan theo một ngành ngh ề đ • được đào tạo. Phần đông ngoài các ch ương trình đào tạo ở trường đại học họ còn phải học th êm các khoá học ở ngo ài như ngo ại ngữ tin học để có thể đ áp ứng được yêu cầu của công việc. a. Cơ cấu đào tạo Có thể nói cơ cấu đào tạo của nước ta còn quá lạc hậu và chưa bám sát th ực tế. Trong khi một đất nư ớc đ ang phát triển như Việt Nam rất cần đến đội ngũ kỹ sư về kỹ thuật, công nghệ, xây dựng cơ b ản thì nguồn cung cấp nhân lực từ phía đào tạo lại chưa đáp ứng được hết nhu cầu .Trong khi đó sinh viên trong khối kinh tế thì đang quá dư thừa “ 90 % sinh viên khối kinh tế ra trường không có việc làm ” là một phần do bên đ ào tạo nắm được nhu cầu thực tế về nguồn nhân lực, ch ưa thông tin đầy đ ủ cho sinh viên về việc chọn nhóm ngành học, nhiều sinh viên chọn trường chỉ theo cảm tính chứ không tính đến mục đích phục vụ tương lai và khả n ăng xin việc làm sau này. b . Chất lượng đào tạo Hiện nay chất lượng đ ào tạo và thực tế còn có khoảng cách quá xa. Những gì sinh viên được học phần lớn chưa đáp ứng được yêu cầu của công việc. Nguyên nhân một ph ần là do học không đi đôi với h ành, thiếu cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ cho việc giảng dậy và học tập hoặc nếu có thì quá xa so với thực tế công việc. Phần khác là do x• hội ngày càng phát triển với tốc độ cao và vì vậy sản xuất cũng thay đ ổi theo.Phương thức sản xuất thay đổi trong khi đó đ ào tạo không bắt
  2. kịp được những thay đổi này vì vậy nó thường bị tụt hậu. Khi không có sự cân b ằng, đồng bộ giữa đ ào tạo và thực tế công việc đ • làm cho sinh viên sau khi ra trường không đủ khả năng phục vụ cho công việc. Họ cảm thấy rất lúng túng trước những yêu cầu của đ ơn vị sử dụng lao động . Chính vì sự phát triển của khoa học – kỹ thuật ngày càng cao nên công việc cũng đò i hỏi đội ngũ người lao động phải có trình độ, năng lực. Điều n ày đòi hỏi n gành GD - ĐT phải phương pháp đào tạo mới, cải thiện chất lượng đào tạo để có th ể bắt kịp được sự phát triển của thời đại. 3 . Về phía chính sách của nh à nước Bên cạnh những nguyên nhân về kinh tế, x• hội, đào tạo th ì nguyên nhân về chính sách của nhà nước cũng là yếu tố đ áng kể tác động đ ến vấn đ ề n ày. Trong nh ững năm gần đây, nhà nước cũng có rất nhiều quan tâm đến sự n ghiệp đào tạo nói chung và đào tạo đại học nói riêng cùng với những khuyến khích để sử dụng sinh viên sau khi tốt nghiệp; ví dụ như sinh viên thuộc khối sư phạm được miễn học phí. Nhưng về cơ bản th ì nhà nước vẫn ch ưa có chính sách h ợp lí để khuyến khích cũng như tạo đ iều kiện cho sinh viên sau khi ra trường yên tâm công tác và phát huy hết khả năng; ch ẳng hạn như chính sách đối với những n gười về công tác tại những vùng sâu, vùng xa, hải đảo ch ưa hợp lí cho lắm n ên không thu hút được sinh viên sau khi ra trường tự nguyện về đây công tác. Vậy nên chăng nhà n ước cần có chính sách hợp cũng như thoả đáng hơn nữa cả về m ặt vật chất cũng như tinh th ần để sinh viên sau khi ra trường sẵn sàng có công tác ở bất cứ n ơi đâu đ ể góp phần vào sự nghiệp công nghiệp hoá và đổi mới đ ất nước.
  3. 4 / Về phía bản thân và gia đ ình đối tượng đ ược đào tạo Bên cạnh những nguyên nhân được nêu ở trên thì nguyên nhân từ phía bản thân sinh viên cũng là một yếu tố gây ra tình trạng sinh viên th ất nghiệp sau khi ra trường . Chúng ta có thể nhận thấy một thực tế rằng hiện nay sinh viên ra trường đều muốn bám trụ lại thành phố để làm việc dù công việc đó không đúng ngành được đ ào tạo hoặc thậm chí là công việc phổ thông miễn sao có thu nhập .Nhóm sinh viên xuất thân từ các tỉnh lẻ ra thành phố học cũng không muốn trở về quê hương đ ể phục vụ, điều n ày đang làm cho các thành phố lớn như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh đang quá tải về dân số cũng như sức ép về nhu cầu việc làm. Tình hình n ày đ• và đang gây ra những ảnh hưởng xấu đến chủ trương phát triển kinh tế- x• hội ở miền núi ,nông thôn của Đảng và nhà nước. Chương II/ Kết luận chung và một số kiến nghị giải pháp I/ Kết luận chung Qua việc phân tích những nguyên nhân gây ra hiện tượng sinh viên thất nghiệp sau khi ra trường bằng việc vận dụng “quan đ iểm toàn diện của triết học Mác- Lênin” ph ần nào cũng cho ta thấy đ ược góc cạnh của vấn đ ề mặc dù phần phân tích ở trên ch ỉ là rất khái quát. Chúng ta đều nhận thấy rằng tình trạng thất nghiệp ở sinh viên sau khi ra trường không phải do lỗi toàn bộ của bất cứ ban ngành nào m à nó do nhiều yếu tố tác động đ ến, nguyên nhân khách quan nh ư tình hình kinh tế x• hội, nguyên nhân chủ quan là về hệ thống giáo dục đào tạo,chính sách sử dụng và đ•i ngộ lao động chưa hợp lý cũng như tâm lý chủ quan về phía bản thân
  4. sinh viên. Nhưng dù nói gì đ i nữa thì th ất nghiệp ngày càng tăng sẽ ảnh hưởng không tốt đ ến tình hình phát triển kinh tế x• hội của đất nư ớc nhất là Việt Nam, một nư ớc đ ang phát triển với dân số trẻ rất cần mọi tài năng, nỗ lực và sự đóng gópcủa lớp trẻ, những chủ nhân tương lai của đất nước. Vì vậy đ ể giải quyết vấn đ ề n ày thì không ph ải một sớm một chiều m à cần phải có thời gian và sự kết hợp từ nhiều phía. Với tư cách là một sinh viên cũng đ ang băn kho ăn và lo lắng về vấn đ ề x• hội này nên trong phần giải pháp của bài tiểu luận này em xin phép được đưa ra một số giải pháp sau. II. Giải pháp 1 . Phát triển cả về chiều sâu lẫn chiều rộng các ngành ngh ề sản xuất – kinh doanh Với số dân gần 80 triệu người và chắc chắn sẽ còn tăng trong những n ăm tới, lượng sinh viên ra trường ngay càng nhiều vì vậy việc làm là một vấn đề cấp bách của x• hội. Để tạo thêm được công ăn việc làm thì không còn cách nào khác là phải mở rộng các ngành ngh ề sản xuất – kinh doanh. Muốn làm đ ược điều này thì nhà nước cần có những chính sách nhằm đ ẩy mạnh, khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia vào đ ầu tư, phát triển mở rộng sản xuất cũng như tạo ra các điều kiện thuận lợi về môi trường để họ có thể hoạt động thuận tiện hơn. Bên cạnh đó nhà nước cũng phải là người đi đ ầu, chủ trương trong việc thực hiện các chương trình quốc gia về khoa học – k ỹ thuật cũng như đ ưa nó vào thực tiễn sản xuất nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm, tăng năng su ất lao động, nâng cao điều kiện sống cho ngư ời lao động. Nếu các chính sách n ày đ ược đưa vào thực tiễn thì n gười lao động sẽ phải cố gắng hơn để nâng cao trình độ chuyên môn cho công
  5. việc và đơn vị sử dụng cũng sẽ có điều kiện đ ể thu hút nhiều hơn lực lượng lao động được đ ào tạo với chất lượng cao. 2 .Về phía ngành đào GD - ĐT Đào tạo chính là n ền tảng, là cơ sở để cho “ra lò” những lao động có kĩ năng, có tay nghề, vì vậy đào tạo cần phải đổi mới nâng cao ch ất lượng để làm sao khi tốt nghiệp sinh viên có kh ả năng đáp ưng nh ững nhu cầu ngày một cao của công việc. Bên cạnh đó nhà n ước và bộ giáo dục cũng cần có sự phối hợp để tính toán đ ể cân đối tỷ lệ hợp lý giữa các ngành nghề đào tạo, đáp ứng được nhu cầu của thực tế, tránh hiện tượng thừa thì vẫn cứ thừa còn thiếu th ì vẫn cứ thiếu. Nghành đ ào tạo cũng có mối liên hệ với thị trường lao động để luôn cập nhập được xu hướng của nhu cầu để đào tạo cho phù hợp cả về chất lượng cũng như số lượng. 3 .Về phía chính sách của nhà n ước. Nhà nư ớc là người quản lý ở tầm vĩ mô do vậy nhà nước cần đưa ra các chính sác hợp lý để thu hút và tạo điều kiện cho sinh viên vào học các ngh ành nghề kỹ thuật ngh ành mà hiện nay một đ ất nư ớc đ ang trên con đ ường công nghiệp hoá h iện đại hoá ráat cần đ ến. Cùng với việc vào học nh à n ước cũng nên có chính sách quan tâm đến những người làm việc, công tác tại những vùng xa, vùng khó khăn đ ể động viên họ cả về mặt vật chất cũng như tinh th ần để họ có thể yên tâm đem h ết tâm huyết và năng lực ra đ ể phục vụ đ ất nước. Nhà nư ớc cũng cần tạo cơ hội để các trường đào tạo có điều kiện tiếp cận được với thị trường lao động để biết đươc tình hình thực tế cũng những thay đổi về khoa học – công nghệ ,các loại máy móc hiện đại để từ đó có th ể cập nhập cho sinh viên một cách liên tục và kịp thời những sự thay đổi đó.
  6. 4 .Về phía sinh viên Hiện nay rất nhiều đói tượng chọn trường đại học nhưng không có sự đ ịnh hướng cho khả năng của đ ầu ra sau n ày mà chỉ chọn như một cái “mốt” với những n ghành đang “nổi” như tài chính, ngân hàng, ưu chính viễn thông …Đây là m ột tư tưởng tiêu cực có ảnh hưởng không tốt tới quá trình phát triển kinh tế –x• hội gây ra tình trạng thừa thiếu bất hợp lý. Và lại tâm lý hiện nay của nhiều bậc phụ huynh là bắt buộc phải vào đ ược đại học. Phải nói rằng có được tấm bằng đại học để ra n ghề là một điều rất cần và quan trọng. Nhưng chúng ta cũng cần biết rằng đại học chưa ph ải là con đường duy nhất để lập nghiệp. Vì vậy bản thân đối tượng được đ ào tạo cũng như các b ậc phụ huynh cần phải đ ánh giá lại cách nhìn nhận làm sao đ ể chọn cho con em mình và hoàn cảnh gia đ ình mà vẫn có ích cho x• hội. Những sinh viên ra trường cũng cần có cách nh ìn nhận đúng đắn hơn trong việc chọn cho m ình một n ơi làm việc. Một môi trường đúng với chuyên ngành đ ược đào tạo sẽ có lợi cho cả hai bên; người lao động sẽ làm tốt hơn công việc của mình, bên sử dụng lao động sẽ được những người có trình độ chuyên môn phù hợp, có năng lực làm việc.Sự kết hợp hài hoà và hợp lý này sẽ giúp cho công việc đạt hiệu quả cao h ơn. Tài liệu tham khảo Báo tiền phong số135 ra ngày 24-3 - 2002 1 Sách Lê Nin toàn tập – nhà xuất bản Tiến Bộ 2
  7. Tạp chí lao động và xã hội tháng 3 -2002 3 Nguồn tin từ Internet : www.tinvan.com 4
nguon tai.lieu . vn