Xem mẫu

  1. Vấn đề tổ quê ca trù
  2. I. Nhận quê tổ đã thành một vấn đề Cũng như bao nhiêu sản phẩm tinh thần khác, ca trù có nguồn gốc với các điều kiện văn hóa, điều kiện địa lý và thời điểm lịch sử sản sinh ra nó. Ca trù cũng có thể còn có dấu tích, dấu ấn của thời điểm lịch sử và vùng văn hóa mà nó sinh ra và có khả năng, với những đặc điểm, dấu tích đó cho phép chúng ta hy vọng tìm ra nguồn cội của ca trù ngoài hướng tìm qua thư tịch. Hướng tìm qua thư tịch khá mong manh vì công việc lưu trữ của chúng ta không tốt lại thiên tai địch họa liên miên và việc ghi chép cẩn thận cũng chưa phải là thói quen xưa nay. Trong điều kiện như vậy, khi nghiên cứu nguồn gốc ca trù nhiều người đã lấy truyền thuyết làm tư liệu tham khảo mặc dù truyền thuyết tổ quê ca trù vốn mù mờ lại có ở nhiều nơi trên đất nước. Không ph ải bây giờ khi ý thứ c về cộ i nguồn thứ c dậ y trong kh ắp toàn quố c mới có hiện tượng nhiều nơi trên miền bắc Việt Nam nhìn nhận ca trù có nguồn gố c xa xưa ở đ ịa phương m ình mà từ trong truyền thuyết đ ã có hiện tư ợng như vậ y. Có truyền thuyết nói rằng đ ời Lê có Đinh Lễ n gười làng Cổ Đạm, huyện Nghi Xuân, Hà Tĩnh làm ra đàn đáy và cùng B ạch Hoa người Thanh Hóa d ạ y các đ ệ tử múa hát tạo thành tổ cô đ ầu (1). Làng Lỗ Khê, huyện Đông Anh, Hà Nộ i cũng có truyền thuyết nói con Đinh Lễ là Đinh Dự cùng Đường Hoa ngư ời Thanh Hóa lập nên tổ cô đ ầu ở đ ây(1). Lại có truyền thuyết nói đời nhà Hồ ở làng Đào Xá, Phù Tiên, Hưng Yên có cô ca nhi h ọ Đào lập kế giết giặc Minh n ên nhân dân lập đ ền th ờ và gọi thôn quê của nàng là thôn Ả Đào (2). Trước đó, theo Việt sử tiêu án củ a Ngô Thời Sĩ, Đại Việt sử ký toàn thư củ a Ngô Sĩ Liên thì Lý Thái Tổ đ ã ban thư ởng cho Đào Th ị và vì th ế người ta gọ i người hát là Đào nương. Như vậ y vấn đề tìm thời gian ra đời cũng như tìm quê tổ củ a ca trù rất mong manh nhưng việc nhiều đ ịa phương từ Thanh Nghệ trở ra có truyền thuyết và đ ền thờ tổ cô đ ầu là một hiện tượng khác lạ, đáng chú ý. Khác lạ với các điệu thứ c dân ca như quan họ (ch ỉ vùng các đ ịa phương thuộ c tỉnh Bắc
  3. Ninh nh ận quê tổ quan họ ), chèo (ch ỉ các vùng đ ịa phương Thái Bình nh ận là quê tổ chèo), ví d ặm (ch ỉ ở ph ạm vi xứ Ngh ệ)... Các điệu th ức dân gian này ảnh hư ởng, tỏ a lan không xa trung tâm bao nhiêu, h ầu như nó không vư ợt dãy Tam Điệp đ ể vào Thanh Ngh ệ trong khi đó ca trù l ại phổ b iến h ầu kh ắp xứ Ngh ệ trở ra. Nhưng phổ biến mà không phổ cập b ởi nó không ch ỉ là lo ại khó hát vì sử dụng hơi trong, vì k ỹ thu ật hát mà nội dung củ a các điệu thứ c củ a nó mang tính b ác họ c ch ỉ thích hợp nh ất cho các nho sĩ. Tác giả cuốn Đặc khảo về dân nhạc ở Việt Nam nói rằng hát ả đ ào được các nho sĩ trọng dụng trong khi chèo ph ụng sự đắc lự c cho nông dân, thu hút đám đông, mang tính ch ất biểu diễn trước đám đông(1). Có th ể nói thêm rằng không ch ỉ riêng chèo mà các lo ại dân ca khác nhau như quan họ, ví, hò... cũng thích hợp nh ất với tầng lớp thanh niên nam nữ nông dân vì nó gồm các lo ại hát giao duyên, hát h ội, hát lao động, hát thi... Vì các đ ặc điểm và chứ c năng riêng biệt nên ca trù kén thính gi ả, công chúng, nó là thú chơi tao nhã củ a giới nho sĩ và chủ yếu là lo ại nhà nho tài tử thích cầm k ỳ thi họ a... Như vậ y về không gian địa lý ca trù đư ợc mở rộng hơn dân ca và thính giả lại h ẹp hơn. Ca trù là mộ t lo ại ca nh ạc thính phòng giàu ch ất bác họ c. Bởi đặc điểm, tính ch ất chứ c năng như vậ y nên ca trù có lẽ ít nhiều vượt đơn vị làng, tầm làng và có thể mộ t ph ần nào vì thế nó đư ợc nhiều đ ịa phương từ xứ Ngh ệ trở ra nh ận là quê tổ. Quy mô làng, đơn vị làng là đặc điểm d ễ th ấ y đố i với văn hóa Việt Nam ở hộ i chèo làng, quan họ làng, tranh làng Hồ ... như Giáo sư Trần Đình Hư ợu đ ã quan niệm (2). Cũng có th ể từ đó cho phép chúng ta ngh ĩ rằng sự lan tỏ a không xa củ a quan họ, chèo, ví d ặm... một phần vì tầm làng củ a nó. Nhưng d ẫu phổ b iến h ầu kh ắp các tỉnh phía Bắc và thích hợp với một bộ ph ận tiên tiến củ a xã hộ i thì ca trù vẫn không "di cư" vào đư ợc phía Nam Đèo Ngang, vùng Thu ận Qu ảng trở vào theo sự tỏ a lan văn hóa hoặc theo các đợt sóng di dân Nam tiến... và tạo truyền thuyế t về các tổ quê giống như các nơi khác. Như vậ y ca trù vẫn có "thổ nghi" củ a nó và giới h ạn đ ịa lý đó đ ã thành vấn đ ề đáng quan tâm. Chúng ta đ ã từng chứng kiến một số th ể lo ại văn họ c phát triển m ạnh, từ và với mộ t số địa phương như ngâm khúc (v ới Nguyễn Gia
  4. Thiều, Đoàn Th ị Điểm) phía Bắc, truyện nôm (với Nguyễn Huy Tự , Nguyễn Du), hát nói (với Nguyễn Công Trứ ) ở xứ Ngh ệ và tuồng phía Nam (tiêu biểu là Đào Tấn, Nguyễn Hiển Dĩnh). Vậ y có chăng đặc điểm nào đ ấ y củ a vùng văn hóa cũng có tác động đ ến sự h ình thành và phát triển củ a th ể lo ại văn họ c, âm n h ạc. Nh ững đ ặc đ iểm đó là gì và cái gì có ý ngh ĩa quyết đ ịnh đ ến sự h ình thành và phát triển ca trù? Có th ể d o lý do n ộ i tại từ p hía ca trù hay đ ặc điểm tiếp nh ận củ a công chúng phía Nam Đèo Ngang tr ở vào cản ngăn sự lan tỏ a đó và cũng có th ể ca trù có vào các t ỉnh phía Nam nhưng "yểu m ệnh" và không lưu truyền được. II. Từ các hướng tìm về nguồn gốc ca trù và những khó khăn của việc tìm kiếm Như bao nhiêu sản ph ẩm tinh th ần khác, ca trù hình thành ph ải có mộ t quá trình. Tìm ra mộ t điệu thứ c cổ nhất củ a nó từ đó xác nhận nó là sản ph ẩm nội sinh do sự vận động nộ i tại củ a ca vũ củ a ta hay sinh ra do tiếp xúc với ca vũ Trung Hoa, Chiêm Thành ho ặc của các dân tộ c ít ngư ời,... đ ể kh ẳng đ ịnh nguồn gố c củ a nó đ ã là mộ t công việc rất khó. Cái khó không x ả y ra đố i với việc so sánh nhạc ngữ ca trù và nhạc ngữ của Tàu, của Chiêm Thành, ... để xác đ ịnh mà là công việc tìm các đ iệu ca trù cổ. Tác giả của Đặc khảo về dân nhạc ở Việt Nam kh ẳng định: "Nếu ta nghiên cứu số đ iệu hát ả đ ào còn lại (tứ c là số đ iệu chưa m ất và ngoài các điệu như cung hoàng chung, cung nam, cung đ ại thự c - NĐM) th ì ta th ấ y nhạc ngữ vẫn rất Việt Nam"(1). Nhưng ông lại sai lầm khi th ấ y tên củ a các "xoang điệu ca trù" "rất Tàu"(1) nên đ ã ngh ĩ rằng đã có th ể có sự mô phỏng theo âm lu ật Trung Hoa như cung đ ại thự c, cung nam, cung b ắc... Sự "duy danh" như th ế là không th ể tin cậ y. Trong cuốn sách Tiểu phẩm, Giáo sư âm nh ạc Trần Văn Khê đ ã nói đ ến cụ Hoàng Xuân Hãn "giảng cho tôi mộ t chữ m à gợi cho tôi cả một đư ờng hướng nghiên cứu"(2). Đó là chữ "đại thự c" tứ c là Ảrập" mà Giáo sư Hoàng Xuân H ãn đã tra tự điển và ngờ rằng đ ã có sự
  5. ảnh hư ởng củ a âm nh ạc Ảrập đ ến nh ạc Việt Nam. Sau một thời gian nghiên cứu Giáo sư Trần Văn Khê nói ông đ ã có th ể giải thích, chứng minh rằng có điểm tương đồng. Nếu do sự ảnh hưởng đó mà có điệu đại thự c thì công cuộ c tìm kiếm nguồn gố c ca trù và th ời điểm sinh thành nó sẽ bị trải dài ra trên b ề m ặt đ ịa lý và b ề m ặt thời gian và thêm một lý do đ ể n ghĩ việc nhiều nơi nh ận là tổ quê ca trù đ ã thành một vấn đ ề d ễ h iểu. Nếu như có một vài điệu củ a ca trù đư ợc hình thành do sự tiếp biến văn hóa như vậy thì ý tưởng về mộ t đ ặc điểm là ca trù vượt tầm làng, đơn vị làng đ ã ít nhiều có cơ sở tin cậ y. Thế nhưng trong tác ph ẩm củ a Trần Văn Khê đ ã nêu th ì chúng ta ch ỉ m ới được tiếp xúc với sự kh ẳng đ ịnh mà chưa tiếp xúc với lời ch ứng minh giải thích, vì vậ y chưa có th ể d ẫn giải như một kết lu ận khoa học m ặc dù Giáo sư Trần Văn Khê là người rất có uy tín về nhạc Việt. Qua thư tịch và điêu khắc cổ chúng ta biết được thời kỳ Lý - Trần, nghệ thuật ca vũ Trung Quốc, Chămpa... Đó là thời kỳ nước ta hội nhập được văn hóa của cả Đông Á, Đông Nam Á... Lý Thái Tông (năm 1044) xem cung n ữ "hát, múa khúc Tây thiên"(1), Lý Thánh Tông cho phiên dịch nhạc khúc và điệu đánh trống của Chiêm Thành, sai nhạc công ca hát"(2), Lý Cao Tông chế khúc nhạc gọi là "nhạc Chiêm Thành"...(3) Dấu vết ảnh hưởng ca múa nhạc Chămpa còn thấy được qua điêu khắc Phật giáo thời Lý(4). Có thể trên nhiều lĩnh vực nghệ thuật thì sự ảnh hưởng nghệ thuật Trung Quốc, Chămpa... càng về sau càng sâu đậm hơn nhưng ở ca trù dấu vết của sự ảnh hưởng chưa được chỉ ra rõ ràng vì vậy cần tìm cội nguồn của nó như là một sản phẩm nội sinh. Ca trù là tổng hợp hay nói đúng hơn là tên gọi chung của rất nhiều điệu hát như: bắc phản, mưỡu, hát nói, gửi thư, đọc thơ, thổng, dồn, đọc phú, chừ khi, hát ru... Số lượng điệu hát đến nay vẫn chưa được xác định. Theo Đỗ Bằng Đoàn và Đỗ Trọng Huề trong Việt Nam ca trù biên khảo thì ca trù có 46 điệu hát(5). Ngô Linh Ngọc cho rằng: còn 50 điệu hát, và theo ông thì các nghệ nhân Thanh, Nghệ, Ninh
  6. Bình còn nhớ trên 80 điệu nhưng cũng "tam sao thất bản", các điệu như: dóng chinh phu, mã thượng kiều, trở tay ba, xướng tầng, nói hu ỳnh, dựng hu ỳnh v.v... không còn ai nhớ nữa(6). Với số lượng không xác định, tam sao thất bản và sự hình thành chúng lại trải dài qua một tiến trình lịch sử khiến cho công việc tìm một vài điệu hát cổ nhất nào đó, thời gian cũng như nơi sản sinh ra nó, sự liên quan mật thiết và cái xuyên suốt giữa các điệu càng trở nên khó khăn. Tìm ra một vài điệu cổ nhất mang tính cổ điển của ca trù từ đó ngược quá trình từ dạng thái hoàn chỉnh lần về dạng thái nguyên sơ cũng là con đường tìm ra nguồn gốc ca trù. Theo hướng như thế đòi hỏi phải loại những điệu hát dễ dàng xác nhận là không phải hình thành từ thời cổ sơ như hát nói. Trong truyền thuyết một số điệu hát đã có "niên đại" như nói Lê Thánh Tông làm ra điệu đại thực, Chúa Trịnh làm ra điệu thổng cửa quyền, Nguyễn Công Trứ làm ra khúc hát ru... Với các điệu hát này, ngoài truyền thuyết ra không có sự xác nhận tương tự qua thư tịch cổ vì vậy truyền thuyết là tư liệu duy nhất được sử dụng tham khảo, ít ra là góp phần vào việc khoanh vùng "di chỉ" để tìm kiếm. Hát ca trù được chia làm ba lối chính, theo cách chia của các nhà nghiên cứu ca trù, nhạc học, là: Hát chơi, hát cửa đình, hát thi. Hát chơi gồm: bắc phản, mưỡu, hát nói, gửi thư, đọc thơ, dồn, đọc phú, hát ru... hát cửa đình gồm: giáo trống, giáo hương, dâng hương, thét nhạc, hát giai, đọc phú, đọc thơ, gửi thơ, đại thạch... Hát thi gồm: giáo đầu, ca đàn, thơ cách... Theo Đỗ Bằng Đoàn, Đỗ Trọng Huề, thì sách Ca trù bị khảo cho rằng thét nhạc là khúc hát cổ nhất còn lưu truyền được(1); nhưng ngược lại, Phạm Đình Hổ trong Vũ trung tùy bút thì nói thét nhạc là loại mới thêm ra sau này chứ không phải có từ thời Hồng Đức như cung nam, cung bắc, cung đại thực (tức đại thạch), cung hoàng chung(1)... Điều đó cho thấy chính từ trong các thư tịch đáng tin cậy, với một điệu thức, đã có sự xác định khác nhau với một độ chênh khá dài về thời gian, song cũng từ đây đã có thể xem thét nhạc thuộc về thời cổ. Theo cấu trúc một đêm hát thì thét nhạc được hát đầu tiên tạo nhạc cảm
  7. cho đêm hát nhưng thứ tự này không phản ánh mặt thời gian sinh thành của các điệu hát. Những nỗ lực đi tìm nguồn gốc ca trù qua thư tịch đã ít hứa hẹn nên Đỗ Bằng Đoàn, Đỗ Trọng Huề và Ngô Linh Ngọc chừng như đã thúc thủ khi đã phải dùng truyền thuyết để dẫn chứng thay sử liệu. Sự tìm kiếm này sẽ không vô vọng bởi đây là công việc của các nhà lịch sử âm nhạc, lịch sử văn học và văn hóa. Bên cạnh hướng tìm qua thư tịch và các hướng khác bổ sung cho nhau, chúng ta thử đặt một hướng mà ít ra kết quả của nó cũng có thể giúp kiểm tra, xác định lại các kết luận. Chúng ta đã chứng kiến có vùng văn hóa đã sản sinh ra sản phẩm tinh thần này lại không thể sản sinh sản phẩm tinh thần kia và ngược lại, bởi lối cảm, lối nghĩ và các thói quen... Thử tìm nét tương đồng giữa ca trù với các điệu thức âm nhạc truyền thống của các vùng Bắc Bộ, Bắc khu bốn (Thanh Nghệ)... từ đó xác định gốc mẹ văn hóa đẻ ra chúng, ví dụ nét chung giữa ca trù với chèo, quan họ... của Bắc Bộ hay ví dặm xứ Nghệ... cái gì gần nhau hơn, có nét tương đồng nhiều hơn hay cái gì có cái chung nhất với ca trù ở đặc điểm thiết yếu nhất. Trong nhiều điệu thức của ca trù khả dĩ những điệu nào cổ hoặc khá cổ có thể xác định có cái chung đó. Tìm ra được kết quả qua sự khảo sát như thế, kết hợp với các kết quả tìm được từ các hướng khác có nghĩa là chúng ta đã được phép hy vọng. Trong âm nhạc cổ truyền Việt Nam có khái niệm "hơi trong" và "hơi ngoài", ca trù chủ yếu dùng hơi trong như các nhà chuyên gia về ca trù là Nguyễn Xuân Khoát và Ngô Linh Ngọc nhiều lần xác định. Ca trù có nguyên âm "ư" làm nên tính đ ặc định của lối hát này. Theo nhạc sĩ Nguyễn Xuân Khoát thì quan họ, chèo chủ yếu dùng hơi ngoài" i ơi, a, hi", miệng mở tương đối to và các lối hát ở Bắc Bộ hay dùng hư tự như "tình bằng, dẫu mà, ấy mấy, qua lối nọ..." khác với ca trù nghệ nhân chủ yếu dùng hơi trong và dùng nguyên âm "ư" làm n ền, miệng không mở to(1). Ca trù là lối hát để thưởng thức thơ, lời thơ giữ vai trò chủ yếu, khác với quan họ, chèo "nét nhạc (ca trù - NĐM) phụ thuộc căn bản vào thanh điệu và nhịp
  8. điệu của lời"(2). Với những đặc điểm như vậy, gần gũi với ca trù hơn cả có lẽ là hát dặm xứ Nghệ. Người hát dặm cũng hát theo vận tiết của thơ, "tiết tiệu của ả đào là vận tiết của thơ"(3) và các tiếng đưa hơi hát dặm như "ơ, hư, ni, nị"(4) tạo giọng thấp trầm, không ngân vang như dân ca Bắc Bộ nên gần với hơi trong của ca trù. Hát dặm và ca trù còn có đặc điểm chung nữa là lời thơ giữ vai trò quan trọng. Ngoài ra cũng khác với hát dặm và ca trù là hầu hết các điệu hát dân ca đều lấy ca dao làm lời. Tác giả Đặc khảo về dân nhạc ở Việt Nam xác định rằng hát dặm bao gồm tất cả các loại hát: giao duyên, hát kể chuyện, hát hội, hát làm việc, hát rong(5). Với những đặc điểm chung dễ nhận diện như vậy phải chăng hát dặm xứ Nghệ và ca trù có cùng quê mẹ văn hóa. Và có ngẫu nhiên chăng một mật độ đậm đặc nhất về truyền thuyết tổ quê ca trù lại ở xứ Nghệ mà không phải ở nơi khác: Truyền thuyết về Đinh Lễ và Bạch Hoa lập tổ cô đầu, về sự ra đời đàn đáy (không nơi nào có truyền thuyết này), về điệu hát ru. Chính trên vùng đất sinh ra các truyền thuyết ấy lại có hai tên tuổi rất nổi tiếng về đàn hát là Nguyễn Khản và Nguyễn Công Trứ. Với Nguyễn Công Trứ hát nói đã thành đỉnh cao và hiện nay vẫn chưa tìm ra người hoàn chỉnh hát nói ngoài ông. Và có ngẫu nhiên chăng trên những vùng đất khác cũng có truyền thuyết về tổ quê ca trù lại không sản sinh ra một tên tuổi nổi tiếng về sáng tác ca trù trước hoặc cùng thời với Nguyễn Công Trứ. Phải có một môi trường ca trù đủ tác động mạnh mới tạo sinh được các tác giả ca trù có tên tuổi như vậy. Nhưng lịch sử lại cũng từng cho thấy có những sản phẩm văn hóa sinh thành tại nơi này lại thành tựu ở nơi khác vì vậy về phương diện này hệ quả không phải là một tất yếu lịch sử. Tìm nguồn gố c ca trù phải đi từ nhiều hư ớng và đòi hỏ i được xét từ các góc độ văn hóa, âm nh ạc, văn học, lịch sử ... Đây không phải ch ỉ là đi tìm địa ch ỉ ra đời củ a mộ t điệu thứ c âm nh ạc là ca trù, nguồn gố c xa củ a mộ t thể lo ại văn họ c là hát nói mà còn đ ể góp ph ần tìm hiểu xác đ ịnh đ ặc điểm, điều kiện ra đ ời củ a mộ t th ể lo ại âm nhạc, văn họ c dân tộc và ý ngh ĩa củ a nó không ch ỉ đóng khung trong việc hình thành th ể lo ại. Với cách đ ặt giả thiết đ ể h ình dung và lý giải
  9. như trên hy vọng cùng với các hư ớng tìm khác rút ngắn quá trình tìm nguồn gố c ca trù nói chung và hát nói nói riêng, m ộ t công việc mà từ trước đ ến nay ch ỉ dừng lại ở việc mư ợn truyền thuyết đ ể lấp chỗ trống ho ặc võ đoán.
nguon tai.lieu . vn