Xem mẫu

  1. TAÏP CHÍ KHOA HOÏC ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 32 (57) - Thaùng 9/2017 Vấn đề nhân công đồn điền ở miền Tây Nam Kỳ cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX The problem of plantation workers in the West of Cochinchine in late 19th century and early 20th century ThS. Trần Minh Thuận, Trường Đại học Cần Thơ Tran Minh Thuan, M.A., Can Tho University Tóm tắt Khi Pháp tiến hành công cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất (1897), miền Tây Nam Kỳ đã là một vùng đất rất có triển vọng về mặt kinh tế. Do đó, việc khẩn hoang và tiến hành thiết lập hệ thống đồn điền ở đây được xem là một trong những ưu tiên hàng đầu. Cả hai vấn đề nêu trên đều cần một nguồn nhân công lớn. Thách thức đặt ra đối với tầng lớp điền chủ lúc bấy giờ là làm thế nào để có lực lượng nhân công khẩn hoang và trực tiếp sản xuất kinh tế nông nghiệp. Trong bài viết này, chúng tôi tập trung phân tích vấn đề nhân công ở miền Tây Nam Kỳ đầu thế kỉ XX dưới các góc độ xuất thân, số lượng, quá trình tham gia khẩn hoang và sản xuất kinh tế, quan hệ kinh tế với tầng lớp điền chủ. Từ khóa: nhân công, đồn điền, tiền lương, địa tô, miền Tây Nam Kỳ. Abstract When the French colonialists conducted their first colonial exploitation (1897), the west of Cochinchine of the country was a promising land of economics. Therefore, reclaimation and establishment of the plantation system here was considered as one of the top priorities. These two plans would require a large workforce. The challenge for the landowner class at the time was how to have recruited workers and directly produced agricultural economics. In this article, we concentrated on analysingthe problem of labour in the west of Cochinchine the 20th century, and based on the origin, quantity, participation in reclaimation, and the relationship between economics and landowners. Keywords: workers, plantation, wage, land rent, the west of Cochinchine. 1. Vài nét về kinh tế miền Tây Nam Kỳ chính do việc tách nhập của tỉnh Hà Tiên cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX và tỉnh Châu Đốc. Nhưng nhìn chung từ Trong bài viết này, chúng tôi sử dụng năm 1900 đến năm 1939, miền Tây bao khái niệm “miền Tây Nam Kỳ” là khu vực gồm bảy tỉnh sau đây: Châu Đốc, Hà Tiên, hành chính theo sắc lệnh của Toàn quyền Long Xuyên, Rạch Giá, Cần Thơ, Sóc Đông Dương Paul Doumer ký ngày Trăng và Bạc Liêu. Khu vực này hiện nay 20/12/1899. Theo đó, Nam Kỳ được chia là khu vực nằm ở phía Tây Nam sông Hậu thành ba khu vực Đông Nam Kỳ, Trung gồm các tỉnh và thành phố An Giang, Cần Nam Kỳ và Tây Nam Kỳ. Miền Tây Nam Thơ, Kiên Giang, Hậu Giang, Sóc Trăng, Kỳ dù có thay đổi chút ít về địa giới hành Bạc Liêu và Cà Mau. 146
  2. TRẦN MINH THUẬN Ngày 15/03/1874, triều đình nhà Theo biểu bảng trên, với 442 km kinh Nguyễn và thực dân Pháp ký kết bản hiệp đào đã hoàn thành thì triển vọng về đất ước mang tên “Hiệp ước hoà bình và liên trồng lúa là rất lớn, nhưng để biến đất minh” (Hiệp ước Giáp Tuất) tại Sài Gòn hoang thành đất nông nghiệp trồng lúa thì gồm 22 điều khoản. Trong đó, điều 5 có việc khẩn hoang cần phải tiến hành nhanh nội dung quan trọng liên quan đến Nam Kỳ chóng. Chính vì thế, nhiều phương tiện kỹ là “triều đình Huế thừa nhận chủ quyền của thuật được thực dân Pháp đưa vào miền Pháp trên phần đất Việt Nam kể từ địa giới Tây Nam Kỳ. Ngoài những chiếc xáng sử phía nam tỉnh Bình Thuận trở vào Nam” dụng máy hơi nước để đào kênh, tư sản [11; 98]. Thực dân Pháp bắt đầu thực hiện Pháp còn đầu tư đưa máy móc vào trong việc phát triển cơ sở hạ tầng, kỹ thuật để các đồn điền trồng lúa. Chẳng hạn đầu tư và khai thác lâu dài. Trên cơ sở hệ vào“năm 1918, công ty Sambuc cũng đã thống kênh đào mà nhà Nguyễn tiến hành thử dùng máy cày và bừa trong một đồn trong nửa đầu thế kỉ XIX, chính quyền điền rộng 8.000 héc ta ruộng tại tỉnh Cần thuộc địa tiếp tục nạo vét và cho đào hàng Thơ. Và liên tiếp các năm sau đó, các máy loạt các kênh đào mới. Trước cuộc khai cày, máy bừa của Pháp, của Hoa Kỳ được thác thuộc địa lần thứ nhất (1897), miền đưa vào thử trên các đồng ruộng của Nam Tây Nam Kỳ chưa được đầu tư khai thác Kỳ” [9; 222]. nhiều như miền Đông và miền Trung Nam Kinh tế miền Tây Nam Kỳ ngày càng Kỳ vì điều kiện tự nhiên, khí hậu ở đây rất có những bước phát triển, nhất là trên lĩnh khắc nghiệt, việc khẩn hoang tiến hành vực xuất khẩu lúa gạo. Aumiphin trích dẫn chậm chạp. Đầu thế kỉ XX, chính quyền từ Niên giám thống kê và Tạp chí kinh tế thuộc địa đã tạo điều kiện cho tầng lớp tư Đông Dương cho biết số liệu về sản lượng sản Pháp để họ tiến hành đầu tư và khai lúa của Nam Kỳ. Cụ thể, năm 1900 là thác miền Tây Nam Kỳ. Người Pháp đã có 1.500.000 tấn, năm 1913 là 1.993.000 tấn, những chiến lược lâu dài và bỏ nhiều công năm 1931 là 2.700.000 tấn và năm 1937 là sức, tiền bạc vào vùng đất mới đầy tiềm 3.050.000 tấn [1; 146]. Có thể thấy rõ tình năng này. Số lượng kênh đào tăng nhanh tỉ hình sản xuất lúa gạo ở Nam Kỳ hơn hẳn lệ thuận với sự tăng lên của diện tích đất các xứ khác ở Đông Dương. “Những tỉnh đai canh tác hai bên bờ kênh. Chúng ta có mới như Rạch Giá, Cần Thơ, Sóc Trăng, thể đánh giá tầm quan trọng của kênh đào ở các tỉnh miền Tây Nam Kỳ vào năm Bạc Liêu, Trà Vinh làm thành vựa lúa thật 1913 qua biểu bảng sau: sự của xứ thuộc địa. Các tỉnh này có Tỉnh Số km kênh đào 966.000 ha ruộng lúa và trong năm bình thường xuất khẩu 986.000 tấn thóc, tức Rạch Giá 8 hơn nửa số thóc Đông Dương bán ra nước Cần Thơ 88 ngoài” [1; 147]. Trong các tỉnh này, chỉ có Bạc Liêu 79 Trà Vinh không thuộc thuộc miền Tây Sóc Trăng 95 Nam Kỳ. Tỉnh Cần Thơ trở thành trung Long Xuyên 31 tâm đầu mối trung chuyển lúa gạo từ các Châu Đốc 125 tỉnh miền Tây, đưa lên Sài Gòn xuất khẩu. Hà Tiên 16 “Nhờ vị trí đầu cầu, việc thương mãi, cung TỔNG CỘNG 442 ứng hàng tiêu dùng phát triển không [9; 173]. ngừng. Chung quanh chợ Cần Thơ non trẻ, 147
  3. VẤN ĐỀ NHÂN CÔNG ĐỒN ĐIỀN Ở MIỀN TÂY NAM KỲ CUỐI THẾ KỈ XIX ĐẦU THẾ KỈ XX hãy còn nhiều chợ “vệ tinh” như Rạch Giá, Để tạo điều kiện cho điền chủ người Long Xuyên, Châu Đốc, Sóc Trăng, Bạc Pháp, chính quyền thuộc địa có những Liêu. Lúa gạo Rạch Giá gom về Cần Thơ chính sách nhằm giúp họ chiêu mộ nhân trước khi đưa lên Sài Gòn. Chợ Cái Răng công từ Bắc Kỳ. Trong bài viết Việc khai bấy giờ là kiểu chợ làng có lẽ đứng hàng phá đất hoang và vấn đề nhân công ở Đông đầu Nam Bộ về cơ ngơi. Công sở làng đồ Dương đăng trên Lục tỉnh tân văn số 531 sộ, thêm chùa miếu, nhà hát, những lẫm lúa có đề cập đến chính sách của chính quyền rộng và dài hàng chục căn, với phu khuân thuộc địa kêu gọi “những người Bắc Kỳ vác rộn rịp” [10; 3]. Nhìn chung, kinh tế muốn đi vào Nam Kỳ làm ăn, mà không nông nghiệp của các đồn điền trồng lúa ở muốn ở hẳn đó thì nhà nước có bảo cho biết miền Tây thực sự giữ một vai trò quan những thể cách của các nhà đồn điền trong trọng đối với việc khai thác kinh tế của Nam Kỳ muốn mộ người như thế nào” thực dân Pháp. [13;2]. Cũng trong bài viết Việc khai phá 2. Nguồn gốc xuất thân, số lượng đất hoang và vấn đề nhân công ở Đông nhân công tham gia khẩn hoang và Dương đăng tiếp ở số 532 cho biết vào năm hoạt động sản xuất trong các đồn điền 1896 thì “soái phủ Nam Kỳ có làm ra một miền Tây Nam Kỳ tờ nghị định, định ra một thứ thẻ tùy thân 2.1. Về nguồn gốc xuất thân riêng cho những kẻ đi làm công các đồn Trong giới điền chủ ở miền Tây, đặc điền, trừ thân thuế cho những kẻ ấy, mà biệt người Pháp, họ thường sử dụng hai không nói động gì đến những cách thức làm nguồn nhân công chủ yếu. Thứ nhất, nguồn hiệp đồng thế nào. Vậy thì việc cố công ở nhân công từ Bắc Kỳ và Trung Kỳ vào bổn xứ thiệt là tùy ý chủ với người làm” theo sự chiêu mộ của chính quyền thuộc [14;2]. Nhân công từ Bắc Kỳ vào có thể địa và các chủ đồn điền. Thứ hai, nguồn chọn cách nhận thù lao theo ý của mình. nhân công tại chỗ, tức là những người nhân Một là làm công nhận tiền lương, hai là công vốn xuất thân từ thành phần nông dân nhận một diện tích đất đai khẩn hoang để tá điền trong phương thức sản xuất phong được sở hữu mảnh đất đó. Đôi khi, họ còn kiến của vương triều Nguyễn trước đây. Để được nhiều ưu đãi khác như "mỗi chủ gia thực hiện được mục tiêu khẩn hoang và đình được cấp phát một lô đất rộng 4ha và thành lập hệ thống đồn điền, vấn đề nhân sau năm năm, chủ gia đình có thể làm chủ công thực sự là một vấn đề khó đối với thực thụ mảnh đất này mà chỉ phải trả một chính quyền thuộc địa. Ban đầu, thực dân giá tượng trưng. Trong suốt năm năm đầu Pháp cũng tổ chức các đợt chiêu mộ nhân này, chính quyền miễn mọi thứ thuế cho công từ Bắc Kỳ và Trung Kỳ vào để khẩn các nông dân khẩn hoang được chiêu mộ hoang miền Tây nhưng số lượng không này" [3;177]. Tuy nhiên, chúng tôi xem đây đáng kể. Quá trình này dần dần chuyển là một thủ đoạn của tư sản Pháp vì những sang các nhà tư sản Pháp, tức là chính người vào khẩn hoang rất khó giữ được quyền ở Đông Dương chỉ làm một việc là những mảnh đất của mình. Tầng lớp điền cấp phép đối với diện tích khẩn hoang mà chủ tìm mọi cách để tước đoạt đất đai của tư sản Pháp đã làm đơn xin. Sau đó, họ tự họ để sáp nhập vào các đồn điền. Họ có thể chiêu mộ nhân công để khẩn hoang và sản phải bán với giá rẻ, bị lấy để trừ nợ nếu như xuất kinh tế trong các đồn điền đã khẩn họ vay tiền với lãi suất cao không có khả hoang xong. năng để trả... Nguyễn Khắc Đạm nhận xét, 148
  4. TRẦN MINH THUẬN sau khi “đất hoang đã thành ruộng, lúa đã đến điểm cao nhất là ở vùng Bạc Liêu, toàn kín đồng, thế là bọn thực dân và tay sai bộ vùng phía tây Giá Rai, ở đó, địa chủ (bọn quan lại, ký lục có thân thế) đem không được lựa chọn gì hết, có ai thì tuyển người ở Sở địa chính đến đo đạc chiếm lấy, mộ người đó, nghĩa là tuyển mộ những nói rằng đó là đất công chúng đã mua được người di cư không ổn định hoặc lí lịch của nhà nước. Kết cục, người nông dân không rõ ràng. Nhiều khi chủ thuê phải trả thấp cổ bé họng chỉ còn có cách một là đi cho họ thuế thân, hoặc ứng trước cho họ chỗ khác khẩn hoang để rồi lại bị cướp một số tiền cần thiết" [5;40]. đoạt, hai là ở lại làm tá điền nộp tô cho Tóm lại, nguồn nhân công phục vụ chúng. Nhiều tên thực dân Pháp đã nhờ lối trong các đồn điền ở miền Tây Nam Kỳ đa đó mà cướp đoạt được tới hàng vạn mẫu số là người nông dân tại địa phương và các tây" [3;70]. Như vậy, việc sở hữu ruộng đất tỉnh xung quanh. Việc chiêu mộ nhân công và tình hình nhân công luôn thay đổi liên từ Bắc Kỳ và Trung Kỳ do chính quyền thực tục. Nông dân tham gia khẩn hoang với hi dân và tầng lớp điền chủ thực hiện đã không vọng có được mảnh đất thuộc sở hữu riêng đạt được hiệu quả như họ mong muốn. để tự mình canh tác rất khó trở thành hiện 2.2. Về số lượng nhân công thực. Đất đai do tầng lớp điền chủ sở hữu Chúng tôi không tiếp cận được nhiều ngày càng lớn và trình trạng này rất phổ số liệu liên quan đến vấn đề số lượng nhân biến ở miền Tây. Mỗi địa chủ ở đây có thể công. Số lượng nhân công được chiêu mộ sở hữu diện tích đất canh tác lên đến hàng tham gia khẩn hoang và sản xuất trong các chục ngàn ha. đồn điền trồng lúa luôn thay đổi thất Phương thức trả công cho nhân công thường. Lúc đầu, chính quyền thuộc địa đồn điền trong giai nửa đầu thế kỉ XX khá đứng ra chiêu mộ thì họ có thống kê vài số phức tạp. Thông thường có hai loại, một là liệu. Ví dụ vào năm 1908, "trong đợt đầu công nhân thường trực làm công theo năm, tiên, chính quyền thực dân đã mộ được 84 hai là những người công nhân tạm thời trả gia đình gồm 328 người. Những người này lương công nhật. Tùy theo từng thời điểm đã được tới định cư tại Phụng Hiệp, trong mùa vụ mà số lượng biến động khác nhau. tỉnh Cần Thơ trên một diện tích khoảng Nếu khan hiếm nguồn nhân công thì giá 200 ha. Các nhân công bắt đầu khẩn hoang tiền công có thể tăng lên khá nhiều và đa diện tích đất được giao, dưới sự điều khiển số là làm theo kiểu công nhật. Họ có thể trực tiếp của viên đặc trách văn phòng khẩn được nhận tiền công theo ngày hoặc theo hoang” [9;178]. Mặc dù nhà nước đứng ra các cách tính khác như bằng diện tích hoặc chiêu mộ nhưng quy mô nhỏ lẻ với số bằng phần trăm sản phẩm thu được. Nhưng lượng rất ít ỏi và cũng không tiến hành lâu những người làm thuê vẫn thích và phương dài. Về sau, tầng lớp điền chủ tự mình thức trả công phổ biến nhất là trả bằng tiền. đứng ra chiêu mộ nguồn nhân công với Nếu lực lượng nhân công ở miền Tây thiếu những ưu đãi riêng về tiền lương và các hụt, họ sẽ tìm nhân công từ các tỉnh miền chế độ khác. Nhìn chung, vùng cực Tây Trung và thậm chí là miền Đông. Nhân còn quá nhiều khó khăn, nguy hiểm nên đã công ở những tỉnh lân cận tranh thủ thời không thu hút được nguồn nhân công. gian nghỉ ngơi kéo về các tỉnh miền Tây để Những người nông dân ở Bắc Kỳ và Trung làm thêm. "Trước khi có nạn kinh tế khủng Kỳ cũng không quen với cách sống, canh hoảng thì nạn khủng hoảng nhân công đạt tác và cả khí hậu ở miền Tây. Do đó, “số 149
  5. VẤN ĐỀ NHÂN CÔNG ĐỒN ĐIỀN Ở MIỀN TÂY NAM KỲ CUỐI THẾ KỈ XIX ĐẦU THẾ KỈ XX những người này có mặt tại Nam Kỳ vào đối. Chúng tôi thấy rằng với dân số những năm cao nhất không quá 40.000 1.290.933 người ở miền Tây Nam Kỳ và người. Và hầu như trọng số người này nguồn nhân công từ Bắc Kỳ và Trung Kỳ được sử dụng tại các đồn điền trồng cao su là 5.530 người, nghĩa là nguồn nhân công tại các tỉnh miền Đông. Chỉ một số rất ít này chiếm một tỉ lệ rất thấp. Điều này được chính quyền thực dân đưa vào khai chứng minh, để khẩn hoang và hoạt động thác vùng Cần Thơ vào những năm 1903 nông nghiệp trồng lúa ở miền Tây thì và 1940, khoảng 350 người.”[9; 175]. nguồn nhân công chính là tại địa phương Chúng tôi lấy vài số liệu thống kê để và các tỉnh lân cận. Dân số miền Tây cũng tạm so sánh trên lĩnh vực dân số ở miền gần như tương đương miền Trung Nam Kỳ Tây để phần nào hình dung ra được nguồn và miền Đông Nam Kỳ. Điều khác biệt là nhân công ở đây trong những thập kỉ đầu đến giai đoạn này các tỉnh ở miền Đông và của thế kỉ XX. Theo một tài liệu được in miền Trung việc khẩn hoang đã cơ bản năm 1926, dân số trên toàn Nam Kỳ có hoàn thành. Hệ thống đồn điền đã hoạt 3.970.594 người. Dân số cụ thể tại các tỉnh động ổn định và lúa gạo xuất khẩu đã miền Tây Nam Kỳ như sau: Châu Đốc có chiếm một số lượng lớn trên toàn Đông 203.134 người; Long Xuyên có 200.081 Dương. Ngược lại, ở miền Tây vẫn chưa người; Cần Thơ có 314.372 người; Sóc hoàn thành công việc khẩn hoang, nhiều Trăng có 187.611 người; Bạc Liêu có vùng đất còn nhiễm phèn và ngập mặn, hệ 181.761 người; Rạch Giá có 199.373 thống kênh đào vẫn chưa hoàn chỉnh. người; Hà Tiên có 17.601 người. Như vậy, Số lượng nhân công làm việc trong các tổng cộng dân số ở miền Tây Nam Kỳ năm đồn điền cũng luôn có sự biến động liên 1926 theo thống kê của tài liệu này là 1.290.933 người [4; 19]. tục vì nhiều lí do khác nhau. Chẳng hạn, Tác giả Huỳnh Lứa dẫn theo Niên người nông dân tá điền không chịu nổi sự giám thống kê Đông Dương, cho biết cụ bóc lột bỏ trốn khỏi các đồn điền, tập trung thể sự hiện diện của người Bắc Kỳ và lên các đô thị để trở thành công nhân. Hoặc Trung Kỳ tại các tỉnh miền Tây Nam Kỳ nếu như đã mắc nợ điền chủ nhiều quá, họ vào năm 1921 là: trốn sang những đồn điền khác để xin làm công. Vùng cực Tây xa xôi nên việc kiểm Tỉnh Số người tra nhân thân của người đi làm công còn rất Rạch Giá 610 sơ sài, thậm chí họ biết rõ nhưng vẫn nhận Cần Thơ 1.700 vào làm khi nguồn nhân công khan hiếm. Bạc Liêu 1.330 Trong các đại điền điền của người Pháp và Sóc Trăng 540 Long Xuyên 400 một số điền chủ người Việt ở miền Tây, Châu Đốc 500 diện tích đất canh tác đôi khi lớn hơn hàng Hà Tiên 450 trăm lần so với một đại địa chủ ở Bắc Kỳ TỔNG CỘNG 5.530 nên nguồn nhân công rất lớn mới đáp ứng đủ nhu cầu hoạt động sản xuất. [9; 176] Việc khẩn hoang và hoạt động sản Mặc dù các số liệu thống kê không xuất có lẽ không phù hợp với nguồn nhân cùng thời điểm và từ hai nguồn khác nhau, công từ Bắc Kỳ và Trung Kỳ vào. Điều chúng tôi tạm lấy để có sự so sánh tương kiện tự nhiên, khí hậu, tình trạng đất đai, 150
  6. TRẦN MINH THUẬN tập quán sản xuất ở các vùng miền khác sản Pháp phải giữ lại cả phương thức bóc nhau...là những nguyên nhân dẫn đến trình lột này. trạng nguồn nhân công từ các vùng ngoài 3. Quan hệ kinh tế giữa nhân công vào không nhiều và cũng không ở lại lâu. đồn điền và tầng lớp điền chủ ở miền Nguồn nhân công tại chỗ ít nhiều gắn với Tây Nam Kỳ quá trình khẩn hoang miền Nam từ nhiều Để phân tích mối quan hệ kinh tế thế hệ trước. Họ quá quen với những điều giữa nhân công đồn điền và tầng lớp điền kiện khắc nghiệt ở miền Tây, hiểu biết cặn chủ, chúng tôi xin phép so sánh các số kẽ về cách thức khẩn hoang cũng như hoạt liệu có được trong hai mốc thời gian khác động sản xuất nông nghiệp. Thậm chí, họ nhau. Dưới đây là bảng thống kê về diện quen cả phương thức bóc lột theo kiểu tích đất của các tỉnh miền Tây Nam Kỳ phong kiến là phát canh thu tô đến nỗi tư vào năm 1907: Tỉnh Tổng diện tích (ha) Diện tích trồng lúa (ha) Tỉ lệ % Rạch Giá 593.648 138.214 11,6 Cần Thơ 260.210 166.200 63,8 Bạc Liêu 710.656 74.379 10,4 Sóc Trăng 231.404 173.672 75,9 Long Xuyên 276.949 68.100 24,6 Châu Đốc 280.009 32.612 11,6 Hà Tiên 172.042 1.424 8,2 [12; 226] Đây là số liệu thống kê của Y.Henry thống kê năm 1930: Tỉnh Tổng diện tích (km2) Diện tích trồng lúa (ha) Sản lượng (tấn) Rạch Giá 6.779 319.900 344.900 Cần Thơ 2.322 181.100 322.200 Bạc Liêu 7.272 270.420 296.800 Sóc Trăng 2.397 195.000 288.000 Long Xuyên 2.691 147.500 199.700 Châu Đốc 2.887 131.300 148.080 Hà Tiên 1.102 6.140 5.400 [5;5] Từ hai bảng thống kê này, chúng tôi Ngô Văn Hòa dựa vào một số tài liệu nhận thấy rằng diện tích trồng lúa ở các của Pháp để làm rõ việc sở hữu ruộng đất tỉnh miền Tây Nam Kỳ sau khoảng 23 năm lớn ở miền Tây. Theo đó, "vào năm 1930, khẩn hoang đã tăng lên rất nhiều, có tỉnh miền Trung và miền Tây Nam Kỳ có tăng gấp đôi, có tỉnh tăng gấp bốn lần. 255.000 điền chủ so với một dân số nông 151
  7. VẤN ĐỀ NHÂN CÔNG ĐỒN ĐIỀN Ở MIỀN TÂY NAM KỲ CUỐI THẾ KỈ XIX ĐẦU THẾ KỈ XX thôn vào khoảng 4 triệu người, diệc tích nguồn nhân công làm thuê được trả công canh tác vài khoảng 2.400.000 ha, nghĩa là chủ yếu bằng tiền tùy theo mức độ công cứ 15 người có một điền chủ, trung bình việc và sự thỏa thuận giữa điền chủ và mỗi điền chủ có 9 ha" [6;50]. Diện tích đất người làm thuê. “Tiền công trả theo năm: nông nghiệp tăng lên nhanh chóng như vậy những người làm thuê theo năm được trả đã tác động rất lớn đến việc tập trung nhân công hàng năm xê dịch từ 50 đến 80 đồng công trong các đồn điền. Tầng lớp điền chủ trên một nhân công, tức là từ 4 đến 6,5 phải sử dụng rất nhiều thủ đoạn mới hi đồng một tháng”. [5;41]. Mỗi khu vực tùy vọng đủ nguồn nhân lực cho đồn điền của theo hiện trạng xa gần, đất trũng hay đất mình. Vì vậy, mối quan hệ về kinh tế, mà gò, dễ làm hay khó làm... mà tiền công có cụ thể là trả công được thực hiện hết sức thể dao động ít nhiều. Hoặc khi nguồn linh hoạt với nhiều cách thức khác nhau. nhân công khan hiếm thì giá thuê nhân Theo Y.Henry thì lực lượng nhân công công cũng phải cao hơn so với những lúc làm thuê trong các đồn điền bao gồm hai thông thường. Ở miền Tây, do đất trũng và thành phần sau đây: Thứ nhất là những điều kiện còn nhiều khó khăn nên tiền công người công nhân thường trực làm công theo thường cao hơn so với miền Trung và miền năm; thứ hai là những người công nhân tạm Đông Nam Kỳ. Y.Henry đã ghi nhận “tiền thời làm công theo một số công việc được công trả cao hơn cả là ở vùng cực tây (Sóc trả công nhật hoặc trả khoán. “Việc tuyển Trăng, Bạc Liêu, Rạch Giá), ở đó năm nhân công dễ dàng tại các tỉnh miền Trung 1928, 1929 và 1930, người chủ phải trả ít (Trung Nam Kỳ-tác giả chú thích), nhưng nhất 80 đồng một năm, nhiều khi phải trả khó khăn ở vùng cực Tây, ở đó địa chủ phải 100 đồng, trong đó phải ứng trước 20 dỗ dành công nhân bằng đủ lời hứa hẹn, đồng. Một người đàn bà được trả từ 30 đến thậm chí còn hứa trả thêm tiền thưởng” 40 đồng, một trẻ em trông coi trâu được trả [5;40]. Dựa vào tính chất công việc, cách từ 30 đến 40 đồng” [5;41]. Ngoài tiền công thức trả công, những biện pháp để lôi kéo được trả theo thỏa thuận ban đầu, người nguồn nhân công... của các chủ đồn điền, nhân công làm thuê còn được các chủ đồn chúng tôi chia làm ba loại nhân công là điền giúp cho họ có “được nhà ở và được nhân công thường trực, nhân công làm theo ăn cơm, họ được nhận ba bộ quần áo mới mùa và nông dân tá điền. Đây là ba nguồn nhân dịp tết, trên nguyên tắc là hai bộ mặc nhân công chính ở miền Tây Nam Kỳ, lực lao động và một bộ đẹp hơn để mặc vào lượng đông đảo nhất để biến vùng đất cực dịp tết và những ngày nghỉ ngơi. Họ cũng Tây vốn nhiều khó khăn, khắc nghiệt trở được cấp phát thuốc lào để hút. Khoản cơm thành một vựa lúa quan trọng bậc nhất ở ăn, thuốc lào, trầu ăn trị giá 5 đến 6 đồng Đông Dương. Chúng tôi chỉ đề cập chủ yếu một tháng” [5;41]. Sở dĩ các điền chủ ở đến mối quan hệ kinh tế và đời sống của miền Tây ngoài trả tiền công, còn có những những người lao động làm thuê trong các ưu đãi khác nhân công đồn điền vì họ biết đồn điền. Về cơ cấu xã hội, giai cấp hoặc công việc ở miền Tây cực nhọc hơn các những mâu thuẫn giữa lực lượng nhân công tỉnh miền Trung và miền Đông vốn đã và tầng lớp điền chủ, chúng tôi không đề hoàn thành việc khẩn hoang từ lâu. Công cập đến trong bài viết này. việc trong các đồn điền cũng nhẹ nhàng - Nhân công thường trực: Đây là hơn, từ việc sử dụng các phương tiện kỹ 152
  8. TRẦN MINH THUẬN thuật đến việc vận chuyển lúa gạo đều ít về làm” [5;42]. tốn công hơn so với miền Tây. Điền chủ ở miền Tây Nam Kỳ có thể - Người làm công theo mùa: Lực tận dụng tối đa nguồn nhân công bằng cách lượng này có thể thỏa thuận nhận đất của tuyển mộ và di dân theo mùa. Tức là tùy điền chủ để làm việc theo từng mùa và tầng theo tình hình mùa vụ, cụ thể của từng lớp điền chủ có nhiều cách trả thù lao cho vùng mà họ điều chỉnh, kêu gọi nhân công họ, chứ không phải chỉ có trả bằng tiền. tranh thủ làm cho các đồn điền của mình. Nhất là nguồn nhân công ở tại địa phương Nếu ở miền Tây Nam Kỳ thu hoạch trước thì phương thức trả công cũng đa dạng và miền Trung Nam Kỳ thì nhân công từ miền linh hoạt hơn. Có thể điền chủ khoán dựa Trung kéo xuống miền Tây để gặt lúa. Sau trên diện tích, thường là công của người khi xong việc và nhận tiền công họ lại quay thợ gặt bằng 1/10 diện tích đó; hoặc họ về các tỉnh miền Trung để tiếp tục công được thanh toán bằng hiện vật, tức là họ việc thu hoạch lúa. Đặc điểm ở miền Tây được 1 bó lúa trên 10 bó hoặc trên 11 bó Nam Kỳ đầu thế kỉ XX là sở hữu ruộng đất tùy theo tập quán địa phương. Nhưng rất lớn, do đó cũng cần một lượng nhân thông thường, những người làm công theo công tương ứng. Vào thời điểm thu hoạch mùa hay yêu cầu được thành toán bằng đồng loạt, giới điền chủ thường không tìm tiền. Vì nếu lấy sản phẩm, họ cũng phải đủ nguồn nhân công. Họ thường phải kêu bán để lấy tiền để trang trải nợ nần vay gọi nhân công từ các tỉnh miền Trung Nam mượn. Có ý kiến cho rằng người nhân công Kỳ xuống với chế độ tiền công có phần cao đồn điền ở Nam Kỳ hay mắc nợ. Họ cũng hơn. “Tiền công năm 1930, trước khi xảy rất thích những trò cờ bạc trong những ra kinh tế khủng hoảng-tiền công hàng khoảng thời gian được nghỉ ngơi. Trả công ngày của một người công nhân được nuôi bằng tiền có lẽ là phương thức tối ưu và cơm, không cần chuyên môn xê dịch từ 0,4 tiện lợi nhất. đồng (ở trung tâm) đến 0,6 đồng (ở cực Trường hợp ở tỉnh Cần Thơ, nhất là ở tây), như vậy là tương ứng với tiền công những nơi có ruộng thấp không cày bừa, 0,6 đồng đến 0,8 đồng không nuôi cơm” đất đai màu mỡ và không bị úng lụt như [5;43]. Đây là nguồn nhân công được sử Phụng Hiệp thì năng suất thường cao hơn dụng một cách linh hoạt và không có tính so với các nơi khác. Những người nhân ổn định. Cứ mỗi năm đến mùa gặt, điền công làm việc theo mùa rất thích canh tác chủ lại nghĩ ra những chiêu trò mới nhằm trên những mảnh đất như vậy. Vì vậy, họ kêu gọi, lôi kéo họ về làm việc trong các đổ xô về đây để nhận đất lĩnh canh. Tầng đồn điền của mình. lớp điền chủ thường “trao ruộng đất cho - Tá điền thuê ruộng: Đây là nguồn một người thầu khoán, người này trao nhân công đồn điền lớn nhất và có tính ổn ruộng lại cho chủ sau khi cấy lúa. Người định nhất đối với khu vực miền Tây Nam chủ cung cấp thóc giống và đất, và trả công Kỳ trong những năm đầu thế kỉ XX. theo một giá quy định trước căn cứ vào Y.Henry đánh giá: “người ta phải coi họ diện tích. Người làm công tự thu xếp công như những người thuê ruộng hơn là coi họ việc: phát bờ, chuẩn bị mạ, cấy lúa vào lúc như những người tá điền làm ruộng cho nào tùy mình, có thể dùng nhân công trong chủ, bởi vì khoản tô của họ về việc thuê đất gia đình, hoặc tự mình đi thuê nhân công mặc dầu có thể trả bằng thóc nhưng đã 153
  9. VẤN ĐỀ NHÂN CÔNG ĐỒN ĐIỀN Ở MIỀN TÂY NAM KỲ CUỐI THẾ KỈ XIX ĐẦU THẾ KỈ XX được quy định trước ở một tỷ suất nhất lối này" [2;113-114]. định. Chế độ làm rẽ chính thức, tức là phân Hoạt động sản xuất kinh doanh trong chia huê lợi trong một tỉ lệ quy định trước, các đồn điền thuộc sở hữu của tư sản Pháp cả hai bên đều phải chịu thiệt nếu xảy ra đã xuất hiện rõ yếu tố hàng hóa, tức là một rủi ro” [5; 46]. Tuy nhiên, tỉ lệ này dễ dàng nền kinh tế có chứa đựng những mầm thấy rằng tầng lớp điền chủ bao giờ cũng mống tư bả chủ nghĩa. Tuy nhiên, do nhiều hưởng cao hơn 50% sản phẩm thu hoạch điều kiện khách quan và chủ quan, phương được. Người nông dân tá điền sau thu thức sản xuất tư bản chủ nghĩa không thể hoạch phải nộp tô, phải trả tiền vay thóc phát triển mạnh mẽ. Nhưng tư sản Pháp giống, và các khoản tiền vay mượn khác. cũng có được những món lợi khổng lồ từ Thực hiện xong nghĩa vụ, họ hầu như chương trình khẩn hoang và thành lập hệ chẳng còn lại bao nhiêu, thông thường sẽ thống đồn điền của chính quyền thuộc địa. không đủ ăn cho đến mùa gặt năm sau. Vì Chỉ có đời sống của đại bộ phận người vậy, khi thu hoạch lúa của mình xong, họ nông dân tá điền ở miền Tây Nam Kỳ là lại trở thành nguồn nhân công đi gặt mướn hoàn toàn ngược lại. "Với ruộng đất cướp ở những nơi mà điền chủ đang cần. đoạt được của nông dân Việt Nam, thực Ruộng đất Nam Kỳ tập trung vào một dân Pháp giữ lại một phần để thành lập đồn số ít những đại điền chủ, một điền chủ có điền trồng lúa và cây công nghiệp, biến thể sở hữu hàng chục nghìn ha ruộng đất. nhân dân địa phương thành tá điền, công Họ đôi khi không cần quản lý trực tiếp nhân công nghiệp, hoặc chiêu mộ nông dân cũng thu về một số lợi nhuận khổng lồ. ở các nơi khác đến làm đồn điền cho Trường hợp đặc biệt ở Bạc Liêu và Rạch chúng; còn chúng thảnh thơi ngồi thu lợi Giá là bọn điền chủ ở đây tiến hành khai lớn, trung bình mỗi năm từ 125% đến 245 thác bóc lột theo kiểu vắng mặt %, thậm chí còn cao hơn nữa" [8; 29]. (absentésme). Phạm Cao Dương đã dẫn Theo thống kê năm 1930, miền Tây theo Lê Thành Khôi và P.Gourou để nói về Nam Kỳ có khoảng 160 đại điền chủ sở cách bóc lột này. Đó là họ "không những hữu từ 500 ha trở lên [5;192]. Trong khi không khai thác trực tiếp mà thôi, những đó, dân số miền Tây Nam Kỳ khoảng trên đại địa chủ này phần lớn lại còn không trực 1,3 triệu người mà đại đa số là nông dân tá tiếp liên lạc với tá điền nữa. Hình thức khai điền và nhân công làm thuê trong các đồn thác khiếm diện đã ngự trị nơi đây vì các điền. Các thành phần dân cư khác như địa chủ đó cư ngụ tại các thành phố, có người Ấn, người Pháp, người Mã Lai... có người lại cư ngụ cả ở bên Pháp và trao số lượng không đáng kể. Trong mối quan quyền quản trị tất cả đất đai của họ ở miền hệ kinh tế giữa chủ và người làm công quê cho một viên quản lý với một địa tô thường phát sinh nhiều mâu thuẫn. Sự bóc nhỏ hơn là địa tô dành cho tá điền. Chính lột của giới điền chủ đối với người nông những viên quản lí này mới là những kẻ dân tá điền diễn ra hết sức nặng nề. Họ làm bóc lột thậm tệ các tá điền. Họ đã đòi hỏi tá việc cực nhọc quanh năm nhưng cuối mùa điền những địa tô rất nặng, đã dùng tất cả sau khi trả các khoản vay nợ, công cụ, thóc những biện pháp cho vay lãi để trục lợi. giống... thì hầu như không còn gì. Công Năm 1930, phân nửa những đại điền sản việc tiếp theo của họ là tranh thủ bán sức rộng trên 300 mẫu tây đã bị khai thác theo lao động để có tiền trang trải cuộc sống 154
  10. TRẦN MINH THUẬN trong khi chờ đợi đến vụ sản xuất mùa sau. kiếp tá điền lĩnh canh. Đây là nguồn nhân Tóm lại, ở miền Tây Nam Kỳ, “chế độ công quan trọng nhất đối với hoạt động sản thuộc địa, với những thực chất cố hữu của xuất trong các đồn điền trồng lúa ở miền nó, đã làm cho tình cảnh của nông dân ta Tây Nam Kỳ thời thuộc Pháp. ngày càng đen tối hơn so với chế độ phong TÀI LIỆU THAM KHẢO kiến của các vua chúa Việt Nam xưa kia” 1. Jean Pierre Aumiphin (1994), Sự hiện diện tài [2; 229]. Với nhận định của tác giả Phạm chính và kinh tế của Pháp ở Đông Dương, Cao Dương, đời sống của những nông dân bản dịch của Đinh Xuân Lâm, Ngô Thị Chính, tá điền-nguồn nhân công chính trong các Hồ Song, Phạm Quang Trung, Hội khoa học đồn điền thật khốn khổ và không lối thoát. lịch sử Việt Nam xuất bản, Hà Nội. 2. Phạm Cao Dương (1967), Thực trạng của giới 4. Kết luận nông dân Việt Nam dưới thời Pháp thuộc, Sau khi nghiên cứu về lực lượng nhân NXB Khai Trí, Sài Gòn. công khẩn hoang và hoạt động sản xuất 3. Nguyễn Khắc Đạm (1957), Những thủ đoạn trong các đồn điền ở miền Tây Nam Kỳ bóc lột của chủ nghĩa đế quốc ở Việt Nam, trong giai đoạn nửa đầu thế kỷ XX, mặc dù NXB Văn Sử Địa, Hà Nội. còn nhiều hạn chế, chúng tôi cũng xin đưa 4. Địa Dư (1926), Imprimerie de Quinhon, Annam. ra một vài kết luận sau đây: 5. Yves Henry (1932), Kinh tế nông nghiệp Thứ nhất, nguồn nhân công có xuất Đông Dương, Hà Nội, Bản dịch Hoàng Đình thân từ nhiều vùng miền khác nhau, thực Bình, Tư liệu khoa Lịch sử, Trường Đại học dân Pháp ở Đông Dương có chính sách khoa học xã hội và nhân văn, Đại học quốc gia Hà Nội. chiêu mộ nhân công từ Bắc Kỳ và Trung 6. Ngô Văn Hòa (1983), Tổ chức quản lý xã Kỳ vào khu vực miền Tây nhưng thực tế số thôn và cộng đồng làng xã ở Nam Kỳ thời lượng rất ít và họ cũng không ở lại lâu. Pháp thuộc, Nghiên cứu lịch sử, số 5 (212), tr. Nguồn nhân công chủ yếu là người địa 42-51, 67. phương và các tỉnh lân cận. Lực lượng này 7. Nguyễn Văn Khánh (1999), Cơ cấu kinh tế xã hội Việt Nam thời thuộc địa (1858-1945), cư trú lâu đời ở Nam Kỳ và có kinh NXB ĐHQG Hà Nội. nghiệm khẩn hoang và sản xuât nông 8. Đinh Xuân Lâm (1987), “Nông thôn Việt Nam nghiệp từ nhiều thế hệ trước. trong thời kỳ cận đại”, Nghiên cứu lịch sử, Thứ hai, do khó khăn về mặt tư liệu, (số 1-2), tr. 26-32. chúng tôi chưa tiếp cận được những số liệu 9. Huỳnh Lứa (Chủ biên), (1987), Lịch sử khai chính xác về số lượng nhân công. Tuy phá vùng đất Nam Bộ, NXB TP.HCM. 10. Sơn Nam, “Cần Thơ xưa”, Báo Cần Thơ (số nhiên, chúng tôi nhận định nguồn nhân 262), ngày 6/11/1994. công biến động không ngừng và mỗi đồn 11. Dương Kinh Quốc (2001), Việt Nam những sự điền có những cách thức và những thủ kiện lịch sử (1858-1918), NXB Giáo Dục, đoạn riêng nhằm thu hút nhiều nhân công Hà Nội. làm việc cho họ. 12. Henri Russier, Henri Brenier (1911), Indochine Francaise, Paris. Thứ ba, lực lượng nông dân được 13. Việc khai phá đất hoang và vấn đề nhân công ở chính quyền cấp thuộc địa phép cho đi Đông Dương, Lục tỉnh tân văn (1918), số 531. khẩn hoang và những người lao động làm 14. Việc khai phá đất hoang và vấn đề nhân công ở thuê ngay từ đầu cuối cùng cũng quay về Đông Dương, Lục tỉnh tân văn (1918), số 532. Ngày nhận bài: 11/7/2017 Biên tập xong: 15/9/2017 Duyệt đăng: 20/9/2017 155
nguon tai.lieu . vn