Xem mẫu
- 255
VẤN ĐỀ NGUỒN NHÂN LỰC VÀ ĐA DẠNG HOẠT ĐỘNG
Ở CÁC THIẾT CHẾ VĂN HÓA XÃ
PGS.TS. VÕ VĂN THẮNG*
TS. NGUYỄN TRUNG HIẾU**
X
ác định vai trò quan trọng của văn hóa, trong suốt quá trình xây dựng, phát
triển đất nước sau thời kỳ đổi mới, Đảng và Nhà nước ta đã đề ra nhiều nghị
quyết, chiến lược, đề án, kế hoạch,... xây dựng, bảo tồn và phát triển đời sống
văn hóa tinh thần cho người dân, nhất là ở vùng nông thôn, vùng dân tộc thiểu số.
Trong thời gian qua, lĩnh vực văn hóa, việc xây dựng đời sống văn hóa tinh thần cho
người dân đạt được những thành tựu to lớn. Tuy nhiên, còn một số hạn chế cần phải
có sự điều chỉnh chính sách, kế hoạch,... về văn hóa cho kịp thời, phù hợp với xu thế
phát triển bền vững.
Từ thực địa nghiên cứu ở địa phương, chúng tôi nhận thấy, hoạt động văn hóa
phục vụ đời sống văn hóa tinh thần cho người dân vùng nông thôn, vùng dân tộc
thiểu số thông qua các thiết chế văn hóa - nhà văn hóa, trung tâm văn hóa, điểm sinh
hoạt văn hóa,... ở một số địa phương thời gian qua có những bất cập. Các thiết chế và
hoạt động văn hóa cấp cơ sở chưa phát huy hết vai trò, chức năng như mong muốn.
Hạn chế này do nhiều nguyên nhân, nhưng nguyên nhân căn bản nhất là vấn đề
nguồn nhân lực phụ trách văn hóa xã và vận hành các thiết chế văn hóa, chính sách
đối với nguồn nhân lực, mô hình và kế hoạch hoạt động... Thiết nghĩ, trong thời gian
tới, nếu không giải quyết tốt vấn đề nguồn nhân lực, chế độ chính sách đối với
nguồn nhân lực và đa dạng hóa mô hình hoạt động văn hóa ở cơ sở thì việc xây
dựng, nâng cao đời sống văn hóa tinh thần cho người dân vùng nông thôn, vùng dân
tộc thiểu số gắn với xây dựng nông thôn mới sẽ còn nhiều khó khăn, bất hợp lý; gây
lãng phí rất nhiều các thiết chế văn hóa (nhà văn hóa, trung tâm văn hóa, điểm sinh
hoạt văn hóa,...) đã được đầu tư xây dựng.
_______________
* Tỉnh ủy viên, Hiệu trưởng Trường Đại học An Giang, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh.
** Giảng viên Khoa Du lịch và Văn hóa - Nghệ thuật, Trường Đại học An Giang, Đại học Quốc
gia Thành phố Hồ Chí Minh.
- 256 KỶ YẾU HỘI NGHỊ VĂN HÓA TOÀN QUỐC TRIỂN KHAI THỰC HIỆN NGHỊ QUYẾT...
1. Vấn đề nguồn nhân lực và chính sách đối với nguồn nhân lực
Vấn đề quan tâm nhất hiện nay đối với việc xây dựng chiến lược nâng cao đời
sống văn hóa tinh thần cho người dân nói chung, người dân vùng nông thôn, vùng
dân tộc thiểu số nói riêng là vấn đề nguồn nhân lực. Đây là khâu then chốt để vực
dậy các hoạt động văn hóa, tạo ra “đời sống văn hóa tinh thần” ở các thiết chế văn
hóa và quan trọng hơn là gìn giữ được các giá trị văn hóa vật thể, phi vật thể của
người dân nông thôn, dân tộc thiểu số.
Vấn đề nguồn lực con người trong việc xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên
tiến, đậm đà bản sắc dân tộc đã được nhiều nhà nghiên cứu văn hóa, triết học, xã hội
học, chính trị,... đề cập. Tất cả đều khẳng định rằng, nguồn nhân lực văn hóa - con
người cá nhân và cộng đồng là chủ thể của việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa
dân tộc. Nguồn lực con người không chỉ thúc đẩy việc giữ gìn, phát triển văn hóa rất
hiệu quả mà còn là nguồn gốc của sự phát triển kinh tế - xã hội: “Động lực của sự
phát triển kinh tế - xã hội đã, đang và ngày càng chủ yếu là tiềm năng sáng tạo to lớn
của nguồn lực con người - đó là tiềm lực văn hóa”1. Một quan điểm khác cũng khẳng
định vai trò quan trọng của nguồn nhân lực trong vấn đề phát triển văn hóa - xã hội:
“Khi coi văn hóa là giải pháp quan trọng nhất trong sự phát triển xã hội ta ngày nay,
Đảng ta đã nhận thức sâu sắc rằng, giải pháp văn hóa hội đủ cả sự phát triển của lực
lượng sản xuất, quan hệ sản xuất, quan hệ xã hội, các vấn đề của hạ tầng cơ sở và
thượng tầng kiến trúc mà trung tâm là các vấn đề của con người”2. Những vấn đề
mang tính lý luận này hoàn toàn sát hợp, cấp thiết với thực trạng giữ gìn và phát
triển văn hóa dân tộc hiện nay nói chung, xây dựng, nâng cao đời sống văn hóa tinh
thần cho người dân vùng nông thôn, vùng dân tộc thiểu số nói riêng.
Tuy nhiên, thông qua một số nghiên cứu và thực tế, thời gian qua chúng tôi nhận
thấy đúng như một số nhà nghiên cứu khác khẳng định: “trình độ lãnh đạo và quản lý
văn hóa ở nông thôn còn rất thấp”3. Căn cứ trên nghiên cứu điền dã, quan sát trong
nhiều năm qua trên địa bàn tỉnh An Giang và một số địa phương vùng Nam Bộ, chúng
tôi nhận thấy thực trạng về nguồn nhân lực đảm nhiệm các hoạt động văn hóa ở các
thiết chế văn hóa cấp xã như nhà văn hóa, trung tâm văn hóa, điểm sinh hoạt văn hóa
cộng đồng,... còn nhiều hạn chế về chuyên môn, nghiệp vụ.
Qua khảo sát, phỏng vấn của chúng tôi, cán bộ văn hóa cấp xã ở vùng nông
thôn, vùng dân tộc thiểu số, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ về văn hóa để đảm
nhận công tác chuyên môn còn hạn chế. Trước đây, phần lớn cán bộ phụ trách văn
hóa xã chưa đạt trình độ bậc cao đẳng hay đại học; một số địa phương cán bộ đạt
_______________
1. Văn Đức Thanh (Chủ biên): Giáo trình triết học văn hóa, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2016,
tr.200.
2, 3. Đỗ Huy: Văn hóa Việt Nam trên con đường giải phóng, đổi mới, hội nhập và phát triển,
Nxb. Thông tin và Truyền thông, Hà Nội, 2013, tr.361, 222.
- Phần thứ nhất: THAM LUẬN CỦA CÁC CHUYÊN GIA, NHÀ KHOA HỌC... 257
trình độ cao đẳng, đại học nhưng không đúng chuyên ngành liên quan đến lĩnh vực
văn hóa. Với thực trạng như vậy nên không thể tạo ra nhiều hoạt động văn hóa ở các
thiết chế văn hóa xã nhằm tạo sân chơi, thưởng thức văn hóa cho người dân vùng
nông thôn, vùng dân tộc thiểu số.
Theo thống kê của Nguyễn Hồng Ân (Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Đồng
Nai), năm 2016, toàn tỉnh Đồng Nai có 742 cán bộ, công chức, người lao động làm
việc tại trung tâm văn hóa - học tập cộng đồng cấp xã, trong đó: Thạc sĩ có 1 người
(chiếm 0,13%); trình độ đại học có 459/742 người (chiếm 61,85%), trong đó trình độ
đại học ngành quản lý văn hóa có 71/742 người (tỷ lệ 9,56%), đại học ngành khác có
388/742 người (tỷ lệ 52,29%).
Trình độ cao đẳng có 57/742 người (tỷ lệ 7,6%), trong đó tốt nghiệp cao đẳng
chuyên ngành quản lý văn hóa có 16/742 người, đạt tỷ lệ 2,15%; cao đẳng ngành khác
có 41/742 người, đạt tỷ lệ 5,52%.
Trình độ trung cấp có 117/742 người, đạt tỷ lệ 15,56%, trong đó trung cấp ngành
quản lý văn hóa có 15/742 người, đạt tỷ lệ 2,02%; trung cấp ngành khác có 102/742
người, đạt tỷ lệ 13,74%.
Trình độ sơ cấp có 3/742 người, chiếm tỷ lệ 0,4%, trong đó sơ cấp ngành quản lý
văn hóa có 1/742 người, chiếm tỷ lệ 0,13%; sơ cấp ngành khác có 2/742 người, đạt tỷ
lệ 0,26%, trình độ phổ thông có 105/742 người, chiếm tỷ lệ 14,15%.
Đi vào thống kê cụ thể hơn, đối với các vị trí giám đốc trung tâm văn hóa - học
tập cộng đồng ở phường, xã, thị trấn, có 117/124 người có trình độ đại học, đạt tỷ lệ
94,35% nhưng đúng chuyên ngành quản lý văn hóa chỉ có 10/117 người, đạt tỷ lệ
8,54%. Tương tự như vậy, ở vị trí phó giám đốc (cán bộ, công chức văn hóa - xã hội
xã, phường) có 87/119 người có trình độ đại học, đạt tỷ lệ 73,10%, tuy nhiên trình độ
đại học chuyên ngành quản lý văn hóa có 54/87người, đạt tỷ lệ 62,06%1. Qua số liệu
thống kê sơ bộ cho thấy, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của cán bộ văn hóa cơ sở
còn hạn chế. Chính vì vậy đã ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả hoạt động trên lĩnh
vực quản lý và tổ chức các hoạt động tuyên truyền, văn hóa văn nghệ, thể dục thể
thao, vui chơi giải trí tại các trung tâm văn hóa - học tập cộng đồng cấp xã trên địa
bàn tỉnh Đồng Nai2.
_______________
1. Theo Nguyễn Hồng Ân: “Thực trạng và giải pháp nâng cao hoạt động trung tâm văn hóa thể
thao - học tập cộng đồng trên địa bàn tỉnh Đồng Nai”, kỷ yếu Hội thảo khoa học Nâng cao chất lượng
thiết chế văn hóa cơ sở cấp xã đáp ứng yêu cầu phát triển văn hóa cộng đồng, Bộ Văn hóa - Thể thao và Du
lịch - Cục Công tác phía Nam và Ủy ban nhân dân tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu - Sở Văn hóa - Thể thao và
Du lịch tổ chức tại thành phố Vũng Tàu, 2016, tr.15.
2. Theo Nguyễn Hồng Ân: “Thực trạng và giải pháp nâng cao hoạt động trung tâm văn hóa thể
thao - học tập cộng đồng trên địa bàn tỉnh Đồng Nai”, kỷ yếu Hội thảo khoa học Nâng cao chất lượng
thiết chế văn hóa cơ sở cấp xã đáp ứng yêu cầu phát triển văn hóa cộng đồng, Bộ Văn hóa - Thể thao và Du
lịch - Cục Công tác phía Nam và Ủy ban nhân dân tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu - Sở Văn hóa - Thể thao và
Du lịch tổ chức tại thành phố Vũng Tàu, 2016, tr.18.
- 258 KỶ YẾU HỘI NGHỊ VĂN HÓA TOÀN QUỐC TRIỂN KHAI THỰC HIỆN NGHỊ QUYẾT...
Tuy không thống kê cụ thể, nhưng vấn đề nguồn nhân lực còn yếu và thiếu
trong hoạt động văn hóa cơ sở cũng là thực trạng đã diễn ra ở tỉnh Bình Dương:
“Về công tác tổ chức cán bộ, trong thực tế hầu hết cán bộ phụ trách các thiết chế
văn hóa cơ sở đều là kiêm nhiệm, cộng tác viên nghiệp vụ chuyên môn còn thiếu
và yếu, nguồn nhân lực tại chỗ không đáp ứng yêu cầu. Vấn đề đào tạo, tập huấn,
bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ cho cán bộ văn hóa cơ sở hiện nay còn nhiều
bất cập”1.
Tương tự các tỉnh vùng Đông Nam Bộ, một số địa phương vùng đồng bằng
sông Cửu Long cũng tồn tại hạn chế về nguồn nhân lực có chuyên môn, nghiệp vụ,
gây khó khăn cho các hoạt động văn hóa ở thiết chế văn hóa xã. Theo tác giả Lư
Quang Bình, ở tỉnh Hậu Giang, một trong những khó khăn quan trọng dẫn đến
tình trạng các thiết chế văn hóa xã, phường, thị trấn hoạt động không hiệu quả là:
“Trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của cán bộ và cộng tác viên của trung tâm văn
hóa thông tin xã còn hạn chế, nên việc tổ chức các hoạt động nhằm nâng cao chất
lượng trung tâm văn hóa thông tin xã gặp nhiều khó khăn và lúng túng”2.
Theo thống kê vào năm 2016, tỉnh Tiền Giang có 106 thiết chế văn hóa - thể thao
cấp xã, trong đó có 50 trung tâm văn hóa - thể thao và 56 nhà văn hóa. Tuy nhiên,
hoạt động của các trung tâm văn hóa - thể thao và nhà văn hóa xã trên địa bàn tỉnh
còn nhiều hạn chế, trong đó, nguyên nhân do đội ngũ cán bộ chuyên môn còn thiếu
và yếu, đặc biệt là còn lúng túng trong phương thức hoạt động, mô hình hoạt động.
Từ đó dẫn đến nhiều trung tâm văn hóa - thể thao, nhà văn hóa xã hoạt động còn
mang tính thời vụ, phong trào, không tổ chức được các hoạt động mang tính định kỳ
hằng tuần, hằng tháng, hằng quý nhằm tạo thói quen sinh hoạt văn hóa - thể thao
của nhân dân tại địa phương3.
Là người trực tiếp phụ trách trung tâm văn hóa - thể thao xã, Huỳnh Tất Đạt,
công tác tại xã Long Thuận, thị xã Gò Công, tỉnh Tiền Giang cho biết: “Sau khi thành
lập trung tâm văn hóa - thể thao, Ủy ban nhân dân xã ra quyết định kiện toàn Ban
Chủ nhiệm gồm 7 thành viên đều kiêm nhiệm. Trong đó, một số thành viên chưa qua
đào tạo các lớp về quản lý văn hóa mà chủ yếu chỉ qua đào tạo các lớp tập huấn về
quản lý nhà nước hoặc trung cấp, đại học các chuyên ngành khác theo yêu cầu của
_______________
1. Sở Văn hóa - Thể thao và Du lịch tỉnh Bình Dương: “Nâng cao chất lượng hoạt động thiết chế
văn hóa - thể thao cấp xã đáp ứng yêu cầu phát triển cộng đồng”, kỷ yếu Hội thảo khoa học Nâng cao
chất lượng thiết chế văn hóa cơ sở cấp xã đáp ứng yêu cầu phát triển văn hóa cộng đồng, Sđd, tr.59.
2. Lư Quang Bình: “Thực trạng và giải pháp nâng cao chất lượng trung tâm văn hóa - thể thao xã
trên địa bàn tỉnh Hậu Giang”, kỷ yếu Hội thảo khoa học Nâng cao chất lượng thiết chế văn hóa cơ sở cấp
xã đáp ứng yêu cầu phát triển văn hóa cộng đồng, Sđd, tr.34.
3. Theo Sở Văn hóa - Thể thao và Du lịch tỉnh Tiền Giang: “Mô hình hoạt động trung tâm văn
hóa - thể thao cấp xã, nhà văn hóa cấp xã”, kỷ yếu Hội thảo khoa học Nâng cao chất lượng thiết chế văn
hóa cơ sở cấp xã đáp ứng yêu cầu phát triển văn hóa cộng đồng, Sđd, tr.73.
- Phần thứ nhất: THAM LUẬN CỦA CÁC CHUYÊN GIA, NHÀ KHOA HỌC... 259
từng ngành, lĩnh vực1. Chính điều này đã dẫn đến thực trạng: “cán bộ nghiệp vụ có
chuyên môn về văn hóa thể thao hiện gặp khó khăn về số lượng và chất lượng, các
cộng tác viên thường xuyên cũng hạn chế”2.
Trên địa bàn tỉnh Đồng Tháp, tính đến tháng 9/2016 có 25 trung tâm văn hóa -
học tập cộng đồng cấp xã và 83 nhà văn hóa - khu thể thao ấp. Quá trình vận hành
các thiết chế văn hóa này còn tồn tại nhiều khó khăn, trong đó: “lực lượng cộng tác
viên mỏng nên chưa phát huy được hiệu quả hoạt động; đội ngũ cán bộ điều hành,
quản lý văn hóa kiêm nhiệm, thiếu chuyên sâu”3.
Theo thông tin của trung tâm văn hóa - thể thao xã Trường Xuân, huyện Thới
Lai, thành phố Cần Thơ về thực trạng công tác văn hóa ở xã thì: “đội ngũ cán bộ
Trung tâm trình độ còn hạn chế, chưa được đào tạo hay tập huấn về chuyên môn,
nghiệp vụ”4. Tương tự như xã Trường Xuân, xã Trí Phải (huyện Trần Văn Thời, tỉnh
Cà Mau) cũng trong tình trạng như vậy: “Một yếu tố mâu thuẫn nữa là tiêu chuẩn
Trung tâm Văn hóa - Thể thao xã là quy định có nhiều phòng chức năng nhưng
không có cơ chế bố trí cán bộ có chuyên môn, nghiệp vụ thì vấn đề phát huy công
năng, hiệu quả là một việc rất khó có thể thực hiện”5.
Qua những dẫn chứng điển hình ở một số địa phương, chính tiếng nói của người
trong cuộc từ tỉnh đến xã đã cho thấy rõ tình trạng thời gian qua, việc thiếu nguồn
nhân lực có trình độ, chuyên môn vận hành các thiết chế văn hóa ở xã dẫn đến hệ
quả chưa thể tạo ra nhiều hoạt động văn hóa tinh thần phục vụ người dân.
Bên cạnh thực trạng cán bộ phụ trách văn hóa cấp xã không được đào tạo đúng
chuyên môn, nghiệp vụ thì ở một số địa phương còn có tình trạng cán bộ phụ trách
lĩnh vực văn hóa không chuyên trách mà là kiêm nhiệm. Chính vì không có cán bộ
chuyên trách, chỉ kiêm nhiệm, cán bộ làm quá nhiều việc mang tính hành chính... nên
không thể chủ động đề ra kế hoạch hoạt động văn hóa phục vụ tốt đời sống người
dân địa phương trong thời gian dài. Điều đó dẫn đến tình trạng nhiều năm qua, các
_______________
1, 2. Huỳnh Tất Đạt: “Trung tâm văn hóa - thể thao xã Long Thuận - một chặng đường hình
thành và phát triển”, kỷ yếu Hội thảo khoa học Nâng cao chất lượng thiết chế văn hóa cơ sở cấp xã đáp ứng
yêu cầu phát triển văn hóa cộng đồng, Sđd, tr.86, 91.
3. Trung tâm Văn hóa - Điện ảnh tỉnh Đồng Tháp: “Những giải pháp và kiến nghị để giải quyết
những khó khăn, vướng mắc về kinh phí, cơ sở vật chất, trang thiết bị của thiết chế văn hóa cơ sở trên
địa bàn tỉnh Đồng Tháp”, kỷ yếu Hội thảo khoa học Nâng cao chất lượng thiết chế văn hóa cơ sở cấp xã
đáp ứng yêu cầu phát triển văn hóa cộng đồng, Sđd, tr.150.
4. Trung tâm văn hóa - thể thao xã Trường Xuân (huyện Thới Lai, thành phố Cần Thơ): “Nâng
cao chất lượng hoạt động Trung tâm Văn hóa - Thể thao xã Trường Xuân, huyện Thới Lai, thành phố
Cần Thơ”, kỷ yếu Hội thảo khoa học Nâng cao chất lượng thiết chế văn hóa cơ sở cấp xã đáp ứng yêu cầu
phát triển văn hóa cộng đồng, Sđd, tr.155.
5. Trung tâm Văn hóa - Thể thao xã Trí Phải (huyện Trần Văn Thời, tỉnh Cà Mau): “Nâng cao
chất lượng thiết chế ở cơ sở đáp ứng nhu cầu phát triển văn hóa cộng đồng”, kỷ yếu Hội thảo khoa
học Nâng cao chất lượng thiết chế văn hóa cơ sở cấp xã đáp ứng yêu cầu phát triển văn hóa cộng đồng, Sđd,
tr.165.
- 260 KỶ YẾU HỘI NGHỊ VĂN HÓA TOÀN QUỐC TRIỂN KHAI THỰC HIỆN NGHỊ QUYẾT...
thiết chế văn hóa (nhà văn hóa; trung tâm văn hóa; sân khấu biểu diễn; sân bóng đá,
bóng chuyền)... ở cấp xã được đầu tư xây dựng bị xuống cấp nghiêm trọng, một số
nơi “chuyển đổi công năng” nhà văn hóa thành “nhà kho”, thành sân phơi nông
sản,... Ngoài ra, nhiều thiết bị phục vụ văn hóa mà ngành Văn hóa các cấp đầu tư
mua sắm hỗ trợ cho địa phương trong nhiều chương trình đã bị hư hỏng, không còn
khả năng sử dụng. Thực tế cho thấy, ở một số xã, các nhạc cụ dân tộc độc đáo của
loại hình nghệ thuật như Dì kê, Ngũ âm,... của người Khmer trên địa bàn tỉnh An
Giang và một số địa phương vùng đồng bằng sông Cửu Long được đầu tư mua sắm
phục vụ các hoạt động nghệ thuật đã bị hư hỏng vì không được bảo quản tốt khi lưu
giữ ở nhà văn hóa, trung tâm văn hóa, điểm sinh hoạt văn hóa cộng đồng do thời
gian dài không hoạt động. Một số sản phẩm văn hóa vật thể của các dân tộc thiểu số
vùng Đông Nam Bộ cũng tương tự như vậy.
Thực trạng trên xuất phát từ nguyên nhân không có nguồn nhân lực chuyên môn,
nghiệp vụ về văn hóa đảm trách nên không thiết lập được các hoạt động văn hóa
thường xuyên phục vụ người dân nông thôn, đồng bào dân tộc thiểu số. Việc thiếu
nguồn nhân lực để tạo ra kế hoạch hoạt động còn là tác nhân khiến nhiều loại hình
nghệ thuật sân khấu dân gian của người Việt, đồng bào dân tộc thiểu số bị mai một;
những người lưu truyền các loại hình nghệ thuật dân gian một thời gắn liền với đời
sống văn hóa tinh thần của cộng đồng hiện nay không còn hoạt động. Điển hình cho
sự mai một của nghệ thuật dân gian xuất phát từ nguyên nhân nguồn nhân lực và do
thiếu các hoạt động văn hóa là loại hình nghệ thuật Dì kê của đồng bào Khmer ở xã Ô
Lâm, huyện Tri Tôn, tỉnh An Giang. Theo chị Neáng K. Th. - một diễn viên truyền
thừa của nghệ nhân dân gian nghệ thuật Dì kê (ông Chau Mon Sa Rây và bà Néang
Osk), cha mẹ chị là những người từ lâu giữ gìn nghệ thuật dân gian của dân tộc Khmer
ở An Giang. Nghệ thuật dân gian này cách nay 10 năm vẫn còn đóng vai trò quan
trọng trong đời sống tinh thần của người Khmer thông qua nhiều buổi biểu diễn trong
phum, sóc,... Nhưng đến nay, tất cả mấy chục diễn viên của đội nghệ thuật dân gian
này và chính bản thân bà Néang Osk, chị Néang K. Th đành phải bỏ nghề, vì không có
nơi diễn, không có hoạt động văn hóa để diễn xuất phục vụ bà con Khmer1. Các bài ca,
đạo cụ,... của nghệ thuật Dì kê đến nay đã “chết” hẳn, muốn phục hồi lại phải tốn rất
nhiều chi phí và thời gian.
Tương tự như Dì kê, nhạc Ngũ âm của người Khmer ở An Giang và một số địa
phương vùng đồng bằng sông Cửu Long cũng không có điều kiện để biểu diễn phục
vụ đời sống tinh thần cho người dân. Bà con Khmer đành cất những đạo cụ nhạc
Ngũ âm ở những ngôi chùa, với điều kiện lưu giữ không được tốt.
Ở một trường hợp khác, các giá trị văn hóa vật thể và phi vật thể của cộng đồng
người Mạ, Chơ-ro, X’Tiêng trên địa bàn tỉnh Đồng Nai nhiều năm qua đã và đang
_______________
1. Nguyễn Trung Hiếu, trích tư liệu điền dã ngày 13/12/2020.
- Phần thứ nhất: THAM LUẬN CỦA CÁC CHUYÊN GIA, NHÀ KHOA HỌC... 261
đứng trước nguy cơ mai một. Người Mạ, Chơ-ro, X’Tiêng ở tỉnh Đồng Nai có nhiều
văn hóa vật thể và phi vật thể rất độc đáo. Chẳng hạn như: Kiến trúc nhà dài, trang
phục truyền thống, công cụ lao động - vật dụng sinh hoạt, âm nhạc, nhạc cụ truyền
thống (cồng, chiêng, đàn tre, kèn, sáo...), dân ca,... Những sản phẩm văn hóa này một
thời đóng vai trò vô cùng quan trọng trong đời sống vật chất và tinh thần của cộng
đồng dân tộc nơi đây. Tuy nhiên, thời gian qua, công tác bảo tồn các giá trị văn hóa
của các dân tộc thiểu số ở Đồng Nai còn những hạn chế nhất định, mà nguyên nhân
là do thiếu nguồn nhân lực có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ am hiểu về văn hóa
tộc người và vận hành các thiết chế văn hóa trong cộng đồng dân tộc đã được Nhà
nước đầu tư xây dựng. Do vậy mà: “Thế hệ trẻ người Mạ, Chơ-ro, X’Tiêng biết đến
diễn xướng nhạc cụ rất ít. Riêng cồng, chiêng, nhiều buôn làng người Mạ, Chơ-ro,
X’Tiêng không còn, chỉ một số buôn làng hiện có loại nhạc cụ này từ sự hỗ trợ của
nhà nước”1. Sở dĩ các sản phẩm - giá trị văn hóa vật thể và phi vật thể của các dân tộc
Mạ, Chơ-ro, X’Tiêng ngày càng mất mát lớn như vậy một phần là do không có nơi
cho nó tồn tại và trình diễn: “Nhiều thiết chế văn hóa được đầu tư xây dựng như nhà
văn hóa dân tộc, nhà dài, nhà sinh hoạt cộng đồng... Một số địa bàn, các thiết chế
hoạt động không hiệu quả, không thu hút người dân tham gia vì nhiều nguyên do từ
cơ chế, nhân lực đến nội dung, phương thức sinh hoạt”2.
Ngày nay, nghệ thuật dân gian của đồng bào dân tộc thiểu số không có “đất
sống” và dần mai một do nhiều nguyên nhân, trong đó, nguyên nhân quan trọng
nhất là nguồn nhân lực có trình độ chuyên môn vận hành các hoạt động văn hóa ở cơ
sở. Do vậy mà không thể tạo ra nhiều hoạt động văn hóa ở các thiết chế văn hóa (nhà
văn hóa, trung tâm văn hóa, điểm sinh hoạt văn hóa cộng đồng dân tộc Khmer như
thala3, chùa, nhà dài,...) để phục vụ người dân. Sau một thời gian dài dẫn đến các loại
hình nghệ thuật dân gian vùng nông thôn, vùng dân tộc thiểu số không còn tồn tại,
trong khi người dân chưa có nhiều cơ hội thụ hưởng các hoạt động văn hóa tinh thần
gần gũi nơi họ sinh sống.
Bên cạnh vấn đề hạn chế nguồn nhân lực có trình độ chuyên môn phục vụ các
hoạt động văn hóa ở cơ sở thì một vấn đề khác liên quan cần phải quan tâm, chúng
_______________
1. Phan Đình Dũng: “Bảo tồn và phát huy loại hình âm nhạc truyền thống của người Mạ, Chơ-ro,
X’Tiêng ở Đồng Nai - một góc nhìn”, kỷ yếu Hội thảo khoa học Giáo dục và truyền thông với việc phát
huy văn hóa dân gian Đông Nam Bộ, Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Đồng Nai và Hội Văn học, nghệ thuật
Đồng Nai đồng tổ chức, Đồng Nai, 2013, tr.159.
2. Phan Đình Dũng: “Bảo tồn và phát huy loại hình âm nhạc truyền thống của người Mạ, Chơ-ro,
X’Tiêng ở Đồng Nai - một góc nhìn”, kỷ yếu Hội thảo khoa học Giáo dục và truyền thông với việc phát
huy văn hóa dân gian Đông Nam Bộ, Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Đồng Nai và Hội Văn học, nghệ thuật
Đồng Nai đồng tổ chức, Đồng Nai, 2013, tr.162.
3. “Thala” là một nhà trạm dừng nghỉ chân trong phum, sóc của người Khmer. Một số thala được
xây cất rộng rãi, trở thành nơi sinh hoạt văn hóa của người Khmer ở Nam Bộ.
- 262 KỶ YẾU HỘI NGHỊ VĂN HÓA TOÀN QUỐC TRIỂN KHAI THỰC HIỆN NGHỊ QUYẾT...
tôi cho rằng, nó có mối quan hệ chặt chẽ với tinh thần, trách nhiệm của cán bộ phụ
trách văn hóa ở cơ sở. Đó là chính sách đối với cán bộ văn hóa cấp xã.
Theo điều tra sơ bộ của chúng tôi trong nhiều năm qua bằng cách thức phỏng
vấn sâu, tìm hiểu qua các mối quan hệ công tác giữa cán bộ văn hóa cấp xã,... nhận
thấy rằng, chính sách tiền lương của Nhà nước đối với cán bộ văn hóa cấp xã thời
gian qua và hiện nay còn thấp, thậm chí có những bất cập. Với mức thu nhập thấp
như vậy thì khó có thể vực dậy tinh thần, trách nhiệm, sự sáng tạo của người phụ
trách các hoạt động văn hóa ở cơ sở. Trong quá trình điền dã, chúng tôi còn chứng
kiến nhiều thực trạng, băn khoăn đối với chế độ tiền lương dành cho cán bộ văn hóa
xã. Nhiều cán bộ văn hóa xã ở nông thôn, vùng dân tộc thiểu số cho chúng tôi biết,
họ phải làm thêm nhiều công việc như: xạ phân mướn, phun thuốc mướn,... để tăng
thu nhập cho cuộc sống, vì thu nhập từ tiền lương của cán bộ hợp đồng không thể
nuôi sống được gia đình và bản thân họ. Dù rằng, về chuyên môn, nghiệp vụ của họ
có thể đảm bảo được chất lượng hoạt động văn hóa ở cơ sở.
Với chế độ tiền lương dành cho cán bộ phụ trách văn hóa xã thấp thì không thể
nào tạo ra được các hoạt động văn hóa thường xuyên, đem lại sự phong phú về đời
sống tinh thần cho người dân vùng nông thôn, vùng dân tộc thiểu số. Do vậy, thiết
nghĩ thời gian tới, trong quá trình xây dựng, phát triển xã hội lấy: “Văn hóa là nền
tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh
tế - xã hội”1 thì trước nhất, chúng ta cần phải có những chính sách phù hợp về chế độ
tiền lương đối với cán bộ văn hóa cấp xã để góp phần quan trọng vực dậy tinh thần,
trách nhiệm, tạo ra nhiều hoạt động văn hóa ở cơ sở. Như C.Mác đã nói: “Con người
trước hết cần phải ăn, uống, chỗ ở và mặc đã rồi mới có thể làm chính trị, khoa học,
nghệ thuật, tôn giáo và v.v. được”2.
Bên cạnh việc thực hiện các chính sách tiền lương phù hợp đối với cán bộ văn
hóa cấp xã là việc thực hiện công tác đào tạo, chuẩn hóa đội ngũ cán bộ văn hóa ở cơ
sở. Có như vậy mới vực dậy được các hoạt động văn hóa, đa dạng hóa đời sống tinh
thần của người dân nông thôn, dân tộc thiểu số gắn với Chương trình Xây dựng
nông thôn mới hiện nay; phát huy chức năng của các thiết chế văn hóa cơ sở mà Nhà
nước đã đầu tư xây dựng.
Ngoài ra, còn có một thực tế là ở một số địa phương có đông đồng bào dân tộc
thiểu số sinh sống, cán bộ phụ trách văn hóa xã không phải là người dân tộc thiểu số.
Điều này gây nhiều khó khăn cho việc thực hiện các hoạt động văn hóa để nâng cao
đời sống văn hóa tinh thần cho người dân cũng như bảo tồn các giá trị văn hóa tộc
người trên địa bàn. Đây cũng là vấn đề cần phải quan tâm, vì nguồn nhân lực hoạt
_______________
1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội,
2015, t.57, tr.303.
2. C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 1995, t.19, tr.500.
- Phần thứ nhất: THAM LUẬN CỦA CÁC CHUYÊN GIA, NHÀ KHOA HỌC... 263
động văn hóa phải phù hợp với đặc thù vùng dân tộc, tôn giáo,... mới có thể thực
hiện tốt các hoạt động văn hóa, am hiểu và giữ gìn được các giá trị văn hóa của cộng
đồng, xa hơn, qua đó làm “cầu nối” tuyên truyền chính sách của Đảng, Nhà nước với
đồng bào dân tộc, tôn giáo...
Tiếp cận từ thực trạng nguồn nhân lực, chúng tôi cho rằng, trong thời gian tới,
để nâng cao đời sống văn hóa tinh thần cho người dân vùng nông thôn, vùng dân tộc
thiểu số thì cần phải “chất lượng hóa” nguồn nhân lực hoạt động văn hóa cấp xã.
Bên cạnh việc tăng cường đào tạo về chuyên môn, nghiệp vụ cho cán bộ, chúng ta
cần phải tính toán đến việc thu hút nguồn nhân lực được đào tạo đúng chuyên môn,
chuyên ngành phù hợp đảm nhiệm công tác văn hóa ở xã. Hằng năm, lượng sinh
viên các trường đại học tốt nghiệp các ngành như: Việt Nam học, Sử học, Văn hóa
học, Quản lý văn hóa, Văn hóa các dân tộc thiểu số,... là khá lớn. Nguồn lực này hoàn
toàn có thể đảm trách tốt các hoạt động văn hóa cấp xã. Có như vậy mới có thể cải
thiện, nâng cao được chất lượng về đời sống văn hóa tinh thần cho người dân vùng
nông thôn, vùng dân tộc thiểu số hiện nay và thời gian tới. Bên cạnh đó, nguồn lực
này sẽ thực hiện được công tác giữ gìn và phát huy các giá trị văn hóa dân tộc thiểu
số trước nguy cơ mai một như hiện nay.
2. Vấn đề đa dạng hoạt động ở các thiết chế văn hóa xã
Việc xây dựng các thiết chế văn hóa (nhà văn hóa, trung tâm văn hóa, sân bóng
đá, bóng chuyền, điểm sinh hoạt văn hóa,...) ở vùng nông thôn, vùng dân tộc thiểu số
để nâng cao đời sống tinh thần, sức khỏe cho người dân là một chủ trương hoàn toàn
đúng đắn. Các thiết chế văn hóa này cũng phù hợp với Chương trình Xây dựng nông
thôn mới hiện nay. Tuy nhiên, thời gian qua, khi hoàn thành các thiết chế văn hóa
này thì việc quản lý, hoạt động ở các thiết chế đó không hiệu quả như mong đợi.
Trong nhiều năm, chúng tôi có dịp thực địa về các địa bàn vùng nông thôn, vùng
dân tộc thiểu số và ngay cả nơi đô thị, nhiều nhà văn hóa, trung tâm văn hóa, điểm
sinh hoạt văn hóa,... mà Trung ương và tỉnh, huyện đầu tư xây dựng đã bị xuống
cấp, hư hại nghiêm trọng. Bên cạnh việc hư hại về cơ sở vật chất, nhiều trang thiết bị
phục vụ cho các hoạt động văn hóa được đầu tư từ nguồn kinh phí nhà nước cũng bị
hư hỏng.
Sở dĩ có thực trạng như vậy, bên cạnh nguyên nhân thiếu nguồn nhân lực có
trình độ chuyên môn, nghiệp vụ phục vụ cho các hoạt động văn hóa là thiếu một mô
hình, kế hoạch hoạt động cụ thể, thường xuyên, lâu dài và hiệu quả ở các thiết chế
văn hóa này.
Qua thực tế điền dã, phỏng vấn sâu, quan sát, theo dõi của chúng tôi thời gian
qua và hiện nay, nhận thấy, các thiết chế văn hóa ở vùng nông thôn, vùng dân tộc
thiểu số chưa đặt ra được một mô hình, kế hoạch hoạt động cụ thể, hiệu quả theo
từng năm hoặc về lâu dài. Những nội dung như: nhà văn hóa, trung tâm văn hóa,...
- 264 KỶ YẾU HỘI NGHỊ VĂN HÓA TOÀN QUỐC TRIỂN KHAI THỰC HIỆN NGHỊ QUYẾT...
hoạt động như thế nào, cần có sự kiện gì,... trong tháng, trong quý, trong năm,... để
cộng đồng tham gia, thưởng thức chưa được quan tâm, thực hiện. Như đã đề cập, sở
dĩ có những hạn chế về hoạt động như vậy do nhiều nguyên nhân, trong đó nguyên
nhân căn bản nhất vẫn là nguồn nhân lực có chuyên môn và chưa có sự quan tâm
sâu sát của các cấp lãnh đạo địa phương, của ngành Văn hóa từ tỉnh đến cơ sở.
Theo tìm hiểu của chúng tôi, hoạt động văn hóa ở các thiết chế văn hóa vùng
nông thôn, vùng dân tộc thiểu số trên địa bàn tỉnh An Giang và một số địa
phương vùng Nam Bộ chỉ tập trung vào thời điểm Tết Nguyên đán hoặc các ngày
lễ lớn trong năm (nhưng phần lớn không và ít hoạt động). Với tần suất hoạt động
ít như vậy nên các thiết chế văn hóa xã xuống cấp, chuyển đổi công năng thành
“nhà kho”, sân phơi nông sản,... là điều tất yếu xảy ra. Vì vậy, vấn đề xây dựng
mô hình, kế hoạch hoạt động cụ thể, thường xuyên ở các thiết chế văn hóa cấp xã
trong thời gian tới là rất cần thiết, nhằm đảm bảo đời sống văn hóa tinh thần cho
người dân vùng nông thôn, vùng dân tộc thiểu số về lâu dài; qua đó cũng góp
phần làm “sống dậy” các thiết chế văn hóa cơ sở như đúng chức năng của nó.
Việc xây dựng mô hình, kế hoạch hoạt động này cần phải gắn với đặc thù địa
phương và đặt trong sự liên kết chặt chẽ với các kế hoạch hoạt động văn hóa ở
cấp huyện và tỉnh.
Theo chúng tôi, trong chiến lược xây dựng, nâng cao đời sống văn hóa tinh thần
cho người dân vùng nông thôn, vùng dân tộc thiểu số trong bối cảnh xây dựng nông
thôn mới hiện nay và về lâu dài, địa phương và ngành Văn hóa các cấp cần phải xây
dựng cụ thể mô hình, kế hoạch hoạt động cho các thiết chế văn hóa cấp xã. Chẳng
hạn như: Xây dựng các hoạt động giải trí hằng tháng, hằng quý hoặc vào các ngày lễ
lớn trong năm; thành lập và tăng cường hoạt động của các câu lạc bộ văn hóa nghệ
thuật như: Đờn ca tài tử (người Việt), hát Dì kê, nhạc Ngũ âm (người Khmer); các câu
lạc bộ thể dục - thể thao; những hoạt động biểu diễn văn hóa nghệ thuật của huyện,
tỉnh,... thường xuyên về vùng nông thôn, vùng dân tộc thiểu số biểu diễn; xã hội hóa
các hoạt động văn hóa để hằng tháng, hằng quý có thể diễn ra các hoạt động,...
Những hoạt động này nhằm mục đích vừa làm “sống lại” các thiết chế văn hóa cơ sở
vừa giữ gìn các loại hình nghệ thuật dân gian của người Việt, các tộc người khác để
bản thân nó và chủ thể kế thừa không bị phai nhạt, mai một - thực trạng đã từng
diễn ra trước đây và hiện tại. Nếu không có các mô hình, kế hoạch hoạt động cụ thể
thì mọi ý muốn làm “sống lại” các thiết chế văn hóa cấp xã, hay tạo ra sự hưởng thụ
văn hóa tinh thần cho người dân nông thôn, dân tộc thiểu số trong xây dựng đời
sống văn hóa hiện nay gắn với Chương trình Xây dựng nông thôn mới khó có thể đạt
được kết quả, chất lượng thật sự.
*
* *
- Phần thứ nhất: THAM LUẬN CỦA CÁC CHUYÊN GIA, NHÀ KHOA HỌC... 265
Xây dựng đời sống văn hóa nói chung, nâng cao đời sống văn hóa tinh thần
cho người dân vùng nông thôn, dân tộc thiểu số nói riêng, trước tiên cần phải xây
dựng được nguồn nhân lực có chuyên môn, nghiệp vụ. Nguồn nhân lực có trình độ
chuyên môn sẽ tạo ra nhiều hoạt động văn hóa phù hợp. Có như vậy thì đời sống
văn hóa tinh thần của người dân vùng nông thôn, dân tộc thiểu số mới được nâng
cao, giữ gìn được các giá trị văn hóa truyền thống dân tộc trước nguy cơ mai một.
Thông qua các hoạt động văn hóa thường xuyên, các thiết chế văn hóa sẽ tận dụng
hết công năng, tránh xuống cấp, hư hỏng; các dụng cụ, nhạc cụ và giá trị văn hóa
truyền thống của người Việt và đồng bào dân tộc thiểu số sẽ được bảo tồn và phát
huy. Việc xây dựng nguồn nhân lực có chuyên môn cho hoạt động văn hóa cơ sở
cần phải đảm bảo được chính sách đối với cán bộ văn hóa. Căn cứ trên chế độ tiền
lương, chính sách biên chế trong giai đoạn vừa qua và hiện nay, việc đòi hỏi chất
lượng cho các hoạt động văn hóa ở cơ sở là rất khó.
Bên cạnh đó, để tăng cường hoạt động văn hóa ở các thiết chế văn hóa cơ sở, đòi
hỏi phải thiết lập được mô hình, kế hoạch hoạt động cụ thể, thường xuyên, bền
vững, phù hợp với đặc thù văn hóa ở mỗi địa phương như dân tộc, tôn giáo... Đây là
vấn đề lớn, cần có sự quan tâm chặt chẽ của lãnh đạo cơ sở, của ngành Văn hóa các
cấp chứ không thể cá nhân cán bộ văn hóa xã có thể thực hiện tốt. Thiết nghĩ, trong
thời gian tới, ngành Văn hóa cần phải nghiên cứu xây dựng được mô hình, kế hoạch
hoạt động cụ thể và có sự phối hợp chặt chẽ của các ban, ngành, đoàn thể các cấp. Cụ
thể như: Kế hoạch hoạt động hằng năm của trung tâm văn hóa tỉnh, trung tâm văn
hóa huyện, Hội Phụ nữ, Hội Nông dân... phải đặt ra hoạt động biểu diễn văn hóa
nghệ thuật ở các xã nông thôn, dân tộc thiểu số, gắn với các câu lạc bộ văn hóa, thể
dục - thể thao ở địa phương,... Có như vậy mới đem lại đời sống văn hóa tinh thần
thật sự cho người dân vùng nông thôn, vùng dân tộc thiểu số gắn với Chương trình
Xây dựng nông thôn mới hiện nay.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Dương Phú Hiệp (Chủ biên): Cơ sở lý luận và phương pháp luận nghiên cứu văn
hóa và con người Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, 2012.
[2] Đỗ Huy: Văn hóa Việt Nam trên con đường giải phóng, đổi mới, hội nhập và phát
triển, Nxb. Thông tin và Truyền thông, Hà Nội, 2013.
[3] Huỳnh Tất Đạt: “Trung tâm văn hóa - thể thao xã Long Thuận - một chặng
đường hình thành và phát triển”, kỷ yếu Hội thảo khoa học Nâng cao chất lượng
thiết chế văn hóa cơ sở cấp xã đáp ứng yêu cầu phát triển văn hóa cộng đồng, Bộ Văn
hóa, Thể thao và Du lịch - Cục Công tác phía Nam và Ủy ban nhân dân tỉnh Bà
Rịa Vũng Tàu - Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tổ chức tại thành phố Vũng
Tàu, 2016.
- 266 KỶ YẾU HỘI NGHỊ VĂN HÓA TOÀN QUỐC TRIỂN KHAI THỰC HIỆN NGHỊ QUYẾT...
[4] Lư Quang Bình: “Thực trạng và giải pháp nâng cao chất lượng trung tâm văn
hóa - thể thao xã trên địa bàn tỉnh Hậu Giang”, kỷ yếu Hội thảo khoa học Nâng
cao chất lượng thiết chế văn hóa cơ sở cấp xã đáp ứng yêu cầu phát triển văn hóa cộng
đồng, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch - Cục Công tác phía Nam và Ủy ban
nhân dân tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu - Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tổ chức tại
thành phố Vũng Tàu, 2016.
[5] Nguyễn Hồng Ân: “Thực trạng và giải pháp nâng cao hoạt động trung tâm
văn hóa thể thao - học tập cộng đồng trên địa bàn tỉnh Đồng Nai”, kỷ yếu Hội
thảo khoa học Nâng cao chất lượng thiết chế văn hóa cơ sở cấp xã đáp ứng yêu cầu
phát triển văn hóa cộng đồng, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch - Cục Công tác
phía Nam và Ủy ban nhân dân tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu - Sở Văn hóa, Thể thao và
Du lịch tổ chức tại thành phố Vũng Tàu, 2016.
[6] Nguyễn Trung Hiếu, tư liệu điền dã từ năm 2012 đến năm 2020.
[7] Phạm Minh Hạc và Thái Duy Tuyên (chủ biên): Định hướng giá trị con người
Việt Nam thời kỳ đổi mới và hội nhập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2012.
[8] Phan Đình Dũng: “Bảo tồn và phát huy loại hình âm nhạc truyền thống của
người Mạ, Chơ-ro, X’Tiêng ở Đồng Nai - một góc nhìn”, kỷ yếu Hội thảo khoa
học Giáo dục và truyền thông với việc phát huy văn hóa dân gian Đông Nam Bộ, Ban
Tuyên giáo Tỉnh ủy Đồng Nai và Hội Văn học nghệ thuật Đồng Nai đồng tổ
chức, Đồng Nai, 2013.
[9] Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Bình Dương: “Nâng cao chất lượng hoạt
động thiết chế văn hóa - thể thao cấp xã đáp ứng yêu cầu phát triển cộng
đồng”, kỷ yếu Hội thảo khoa học Nâng cao chất lượng thiết chế văn hóa cơ sở cấp
xã đáp ứng yêu cầu phát triển văn hóa cộng đồng, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch -
Cục Công tác phía Nam và Ủy ban nhân dân tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu - Sở Văn
hóa, Thể thao và Du lịch tổ chức tại thành phố Vũng Tàu, 2016.
[10] Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Tiền Giang: “Mô hình hoạt động trung
tâm văn hóa - thể thao cấp xã, nhà văn hóa cấp xã”, kỷ yếu Hội thảo khoa học
Nâng cao chất lượng thiết chế văn hóa cơ sở cấp xã đáp ứng yêu cầu phát triển văn hóa
cộng đồng, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch - Cục Công tác phía Nam và Ủy
ban nhân dân tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu - Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tổ chức
tại thành phố Vũng Tàu, 2016.
[11] Trung tâm Văn hóa - Điện ảnh tỉnh Đồng Tháp: “Những giải pháp và kiến
nghị để giải quyết những khó khăn, vướng mắc về kinh phí, cơ sở vật chất,
trang thiết bị của thiết chế văn hóa cơ sở trên địa bàn tỉnh Đồng Tháp”, kỷ yếu
Hội thảo khoa học Nâng cao chất lượng thiết chế văn hóa cơ sở cấp xã đáp ứng yêu
cầu phát triển văn hóa cộng đồng, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch - Cục Công tác
phía Nam và Ủy ban nhân dân tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu - Sở Văn hóa, Thể thao và
Du lịch tổ chức tại thành phố Vũng Tàu, 2016.
- Phần thứ nhất: THAM LUẬN CỦA CÁC CHUYÊN GIA, NHÀ KHOA HỌC... 267
[12] Trung tâm Văn hóa - Thể thao xã Trường Xuân (huyện Thới Lai, thành phố
Cần Thơ): “Nâng cao chất lượng hoạt động Trung tâm Văn hóa - Thể thao xã
Trường Xuân, huyện Thới Lai, thành phố Cần Thơ”, kỷ yếu Hội thảo khoa học
Nâng cao chất lượng thiết chế văn hóa cơ sở cấp xã đáp ứng yêu cầu phát triển văn hóa
cộng đồng, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch - Cục Công tác phía Nam và Ủy
ban nhân dân tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu - Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tổ chức
tại thành phố Vũng Tàu, 2016.
[13] Trung tâm Văn hóa - Thể thao xã Trí Phải (huyện Trần Văn Thời, tỉnh Cà Mau):
“Nâng cao chất lượng thiết chế ở cơ sở đáp ứng nhu cầu phát triển văn hóa
cộng đồng”, kỷ yếu Hội thảo khoa học Nâng cao chất lượng thiết chế văn hóa cơ sở
cấp xã đáp ứng yêu cầu phát triển văn hóa cộng đồng, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du
lịch - Cục Công tác phía Nam và Ủy ban nhân dân tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu - Sở
Văn hóa, Thể thao và Du lịch tổ chức tại thành phố Vũng Tàu, 2016.
[14] Văn Đức Thanh (chủ biên): Giáo trình triết học văn hóa, Nxb. Chính trị quốc gia
Sự thật, Hà Nội, 2016.
nguon tai.lieu . vn