Xem mẫu

  1. Kỷ yếu điện tử Hội thảo Quốc gia Nghiên cứu liên ngành về Ngôn ngữ và Giảng dạy ngôn ngữ lần thứ VI VẤN ĐỀ NGỮ ÂM TRONG GIẢNG DẠY TIẾNG VIỆT CHO NGƢỜI NƢỚC NGOÀI – TRAO ĐỔI VỀ PHƢƠNG PHÁP VÀ CÁC HOẠT ĐỘNG THỰC HÀNH HIỆU QUẢ Lê Nguyễn Hạnh Phƣớc Trƣờng Đại học Ngoại ngữ, Đại học Huế Tóm tắt Đào tạo tiếng Việt cho ngƣời nƣớc ngoài là hoạt động đang đƣợc chú trọng phát triển mạnh ở Trƣờng Đại học Ngoại ngữ, Đại học Huế. Đội ngũ giảng viên không ngừng trau dồi kỹ năng, phƣơng pháp và nghiên cứu những vấn đề chuyên môn đặc thù để ngày càng nâng cao hiệu quả giảng dạy. Bài viết nghiên cứu ban đầu về vấn đề ngữ âm, phát âm trong giảng dạy tiếng Việt cho đối tƣợng học viên nƣớc ngoài. Một số trƣờng hợp khác nhau điển hình trong hệ thống ngữ âm nhƣ nguyên âm, phụ âm, thanh điệu, cách phát âm, ... sẽ đƣợc chỉ rõ dựa trên sự nghiên cứu và kinh nghiệm giảng dạy thực tế của ngƣời viết. Các phƣơng pháp tổng hợp, thống kê, phân tích, so sánh đối chiếu, khảo sát, phỏng vấn, ... đƣợc vận dụng để đảm bảo tính khoa học của bài viết. Qua vấn đề nghiên cứu, ngƣời viết muốn trao đổi chia sẻ về phƣơng pháp giảng dạy và một số hoạt động thực hành hiệu quả nhằm đóng góp vào hoạt động dạy ngữ âm cho ngƣời nƣớc ngoài nói riêng và hoạt động đào tạo tiếng Việt cho ngƣời nƣớc ngoài nói chung ở đơn vị. Từ khóa tiếng Việt cho ngƣời nƣớc ngoài, ngữ âm, phát âm, hoạt động thực hành, phƣơng pháp 1. Mở đầu Ngày nay, với chính sách mở rộng giao lƣu, trao đổi hợp tác và kết nối giữa Việt Nam với thế giới trên nhiều lĩnh vực, bạn bè quốc tế đến với Việt Nam ngày càng nhiều, cùng với đó là nhu cầu học tập tiếng Việt không ngừng gia tăng với nhiều mục đích nhƣ nghiên cứu, du lịch, công tác, phát triển sản xuất,... Đáp ứng nhu cầu này, nhiều trung tâm, cơ sở dạy tiếng Việt cho đối tƣợng học viên nƣớc ngoài đƣợc mở ra ở các thành phố lớn với các chƣơng trình học phong phú đa dạng, đội ngũ thầy cô giáo có kinh nghiệm, cơ sở vật chất và trang thiết bị dạy học đƣợc đầu tƣ nhằm đảm bảo cho những khóa học tiếng Việt đạt chất lƣợng nhất. Trung tâm giảng dạy tiếng Việt cho ngƣời nƣớc ngoài ở Trƣờng Đại học Ngoại ngữ, Đại học Huế đƣợc thành lập trong nhiều năm trở lại đây cũng không nằm ngoài xu thế đó. Hàng năm, nhà trƣờng đều đón học viên nƣớc ngoài đến giao lƣu và học tập về tiếng Việt, văn hóa Việt tại trƣờng. Từ đó, hoạt động giảng dạy tiếng Việt cho ngƣời nƣớc ngoài luôn đƣợc chú trọng phát triển mạnh, trở thành một trong những chủ trƣơng đào tạo trọng tâm của nhà trƣờng ở hiện tại và tƣơng lai. Có thể nói rằng, hoạt động giảng dạy tiếng Việt cho ngƣời nƣớc ngoài là hoạt động mang nhiều đặc trƣng riêng biệt mà nếu ngƣời dạy không nắm bắt sâu sắc sẽ rất khó để tạo nên một khóa học thành công. Ngoài những vấn đề chủ quan từ phía đội ngũ giáo viên và học viên, còn có những yếu tố khách quan có ảnh hƣởng rất lớn đến động lực, quá trình và kết quả học tập nhƣ tâm lý, tính cách, lứa tuổi, văn hóa truyền thống,... đặc biệt là sự tƣơng đồng và dị biệt về loại hình ngôn ngữ, các yếu tố về ngữ âm giữa tiếng Việt với các ngôn ngữ bản xứ của học viên. Chính vì vậy, các đề tài về ngữ âm, cách phát âm tiếng Việt của học viên nƣớc ngoài luôn đƣợc nhiều tác giả quan tâm và thể hiện qua các bài viết nhƣ một sự đóng góp ý kiến vào việc hoàn thiện phƣơng pháp giảng dạy và phát triển hoạt động dạy tiếng Việt 227
  2. Kỷ yếu điện tử Hội thảo Quốc gia Nghiên cứu liên ngành về Ngôn ngữ và Giảng dạy ngôn ngữ lần thứ VI nhƣ một ngoại ngữ, mở ra nhiều hƣớng nghiên cứu hay. Bài viết ―Vấn đề ngữ âm trong giảng dạy tiếng Việt cho ngƣời nƣớc ngoài – trao đổi về phƣơng pháp và các hoạt động thực hành hiệu quả‖ tiếp nối hƣớng nghiên cứu này. Bài viết nghiên cứu ban đầu về vấn đề ngữ âm trong giảng dạy tiếng Việt cho đối tƣợng hoc viên nƣớc ngoài. Một số trƣờng hợp khác nhau điển hình trong hệ thống ngữ âm nhƣ nguyên âm, phụ âm, thanh điệu, cách phát âm,... sẽ đƣợc chỉ rõ dựa trên sự nghiên cứu và kinh nghiệm giảng dạy thực tế của ngƣời viết. Qua những nội dung phân tích trong bài, ngƣời viết mong muốn tìm tòi những phƣơng pháp giảng giảng dạy giúp cho ngƣời học tiếp cận ban đầu với tiếng Việt dễ dàng hơn, có những giờ luyện tập phát âm hiệu quả và đạt đƣợc mục tiêu giao tiếp. Ngoài các phần mở đầu, kết luận, phƣơng pháp nghiên cứu, đề xuất, nội dung của bài viết tập trung ở ba tiêu đề lớn: (1) Những vấn đề cơ bản về ngữ âm tiếng Việt và lƣu ý về nguyên âm, phụ âm, thanh điệu tiếng Việt khi dạy phát âm cho ngƣời nƣớc ngoài, (2) Nhận định chung về vấn đề ngữ âm trong giảng dạy tiếng Việt cho ngƣời nƣớc ngoài từ phía giáo viên và học viên, (3) Trao đổi về phƣơng pháp và hình thức thực hành hiệu quả cho những giờ học ngữ âm 2. Cơ sở lý luận 2.1. Những vấn đề cơ bản về ngữ âm tiếng Việt và lƣu ý về nguyên âm, phụ âm, thanh điệu tiếng Việt khi dạy phát âm cho ngƣời nƣớc ngoài 2.1.1. Ngữ âm tiếng Việt Khác với các ngôn ngữ Ấn Âu, tiếng Việt thuộc loại hình ngôn ngữ đơn tiết, thể hiện rõ rệt ở tính đơn lập và không biến hình của âm tiết. Trong một phát ngôn của ngƣời Việt gồm nhiều âm tiết, các âm tiết đƣợc phát âm tách biệt nhau rất rõ ràng, có cấu trúc độc lập, không có trƣờng hợp một bộ phận của âm tiết đƣợc tách ra để kết hợp với âm tiết tiếp theo nhƣ trƣờng hợp đọc nối trong tiếng Pháp hay tiếng Anh. Tiếng Việt còn là ngôn ngữ dùng thanh điệu, mỗi một âm tiết đều mang một thanh điệu nhất định. Thanh điệu không chỉ có tác động đối với âm chính nguyên âm của âm tiết mà còn cảm nhiễm và ảnh hƣởng đến các bộ phận khác của âm tiết. Do đó, toàn bộ âm tiết bị gói gọn trong thanh điệu, khi phát âm từ âm tiết này bƣớc sang âm tiết khác có nghĩa là bƣớc từ thanh điệu này qua thanh điệu khác. Ranh giới của âm tiết trong phát ngôn của ngƣời Việt nhờ vậy mà càng thêm dứt khoát rõ ràng. Tiếng Việt có 29 chữ cái và 6 thanh điệu. Từ 29 chữ cái này hình thành nên một hệ thống gồm nhiều nguyên âm, phụ âm cùng kết hợp với các thanh điệu tạo nên những âm tiết cụ thể, mang cấu trúc rõ rệt của âm tiết tiếng Việt. Trong phát ngôn của ngƣời Việt, âm tiết là đơn vị phát âm tự nhiên nhỏ nhất. Mỗi âm tiết là một tiếng. Một âm tiết tiếng Việt ở dạng đầy đủ nhất đƣợc cấu thành từ 5 thành tố, đó là âm đầu, âm đệm, âm chính, âm cuối, thanh điệu. Mỗi một thành tố đều có chức năng và đặc điểm riêng. - Thành tố thứ nhất có chức năng mở đầu âm tiết, đó là âm đầu. - Thành tố thứ hai đứng ngay sau âm đầu là âm đệm, có khả năng làm trầm hóa âm sắc của âm tiết. - Thành tố thứ ba là âm chính, có chức năng quy định âm sắc chủ yếu của âm tiết và cũng là hạt nhân của âm tiết. 228
  3. Kỷ yếu điện tử Hội thảo Quốc gia Nghiên cứu liên ngành về Ngôn ngữ và Giảng dạy ngôn ngữ lần thứ VI - Thành tố thứ tƣ có chức năng kết thúc âm tiết là âm cuối. - Thành tố thứ năm có chức năng khu biệt cao độ của âm tiết, đó là thanh điệu. a e o u ă ê ô ƣ â i ơ y th b t ch/tr c/k/q m đ p n nh ng/ngh x/s kh h v d/gi/r g/gh l 2.1.2. Những lưu ý về nguyên âm, phụ âm, thanh điệu của tiếng Việt khi dạy phát âm cho người nước ngoài Nhƣ đã phân tích ở trên, tiếng Việt thuộc loại hình ngôn ngữ đơn lập, không biến hình và có thanh điệu. Hệ thống ngữ âm tiếng Việt với rất nhiều nguyên âm, phụ âm là một thử thách ngay từ ban đầu với học viên nƣớc ngoài khi tiếp cận, đặc biệt số lƣợng thanh điệu nhiều với cách phát âm khó thật sự là một trở ngại lớn đối với ngƣời nƣớc ngoài trong quá trình học. Vì vậy, ngƣời dạy cần chú ý đến điều này để thiết kế những giờ học phát âm hiệu quả, giảm đƣợc tâm lý nặng nề cho ngƣời học. Học viên nƣớc ngoài học tiếng Việt với mục đích cuối cùng là để giao tiếp. Nếu giáo viên dạy ngữ âm ngay từ những buổi đầu quá sa đà vào việc phân tích và giải thích chi tiết đầy đủ về các thành tố cấu tạo âm tiết là thanh điệu, âm đầu, âm đệm, âm chính, âm cuối thì thật sự không cần thiết. Giáo viên nên có những giới thiệu ban đầu về bảng chữ cái, cách phát âm, cách viết và tập trung vào ba nội dung chính là nguyên âm, phụ âm và thanh điệu để học viên có những sự hiểu biết khái quát và đơn giản nhất đối với ngôn ngữ tiếng Việt. 229
  4. Kỷ yếu điện tử Hội thảo Quốc gia Nghiên cứu liên ngành về Ngôn ngữ và Giảng dạy ngôn ngữ lần thứ VI Về thanh điệu Thực tế hoạt động dạy học tiếng Việt cho ngƣời nƣớc ngoài cho thấy rằng thanh điệu luôn là trở ngại lớn nhất của học viên nƣớc ngoài khi tiếp cận với tiếng Việt, đặc biệt là đối với những học viên đến từ các vùng ngôn ngữ Ấn Âu, không có thanh điệu. Thanh điệu là đặc điểm ngữ âm đặc trƣng và tiêu biểu của tiếng Việt, thể hiện sự thay đổi cao độ khi phát âm âm tiết. Bất cứ âm tiết nào của tiếng Việt cũng mang một thanh điệu. Công việc đầu tiên của giáo viên đối với phần thanh điệu là phải giới thiệu đầy đủ 6 thanh trong tiếng Việt (huyền, ngã, nặng, sắc, hỏi, ngang) với tên gọi và cách viết cụ thể trên âm tiết. Tuy nhiên nếu giáo viên chỉ dừng lại ở động tác giới thiệu lần lƣợt 6 thanh điệu rồi sau đó ghép vào âm tiết và cho học viên luyện tập phát âm thì sự nhận diện về thanh điệu ở học viên còn chƣa rõ ràng, dễ gây nhầm lẫn và khó nhớ. Giáo viên nên giới thiệu dựa trên sự phân chia nhóm thanh nhƣ: nhóm thanh có âm vực cao (ngang, ngã, sắc) và nhóm thanh có âm vực thấp (huyền, nặng, hỏi); nhóm thanh có sự thay đổi về đƣờng nét, có nét gãy (hỏi, ngã) và nhóm thanh không có sự thay đổi về đƣờng nét, không có nét gãy (huyền, sắc, nặng, ngang); nhóm thanh bằng phát âm nghe nhẹ nhàng suôn sẻ (huyền, ngang) và nhóm thanh trắc phát âm nặng hơn, trúc trắc hơn (hỏi, ngã, nặng, sắc). Việc chia nhóm thanh theo những đặc trƣng nhƣ vậy kết hợp với cách luyện tập phát âm của giáo viên sẽ làm cho học viên có cách nhớ dễ dàng hơn trong sự tiếp cận đầu tiên với thanh điệu. Từ bƣớc đầu cơ bản này, giáo viên sẽ tiếp tục có những phƣơng pháp xử lý linh hoạt với những nhầm lẫn hay trở ngại mà học viên bộc lộ trong quá trình học tập tiếp theo. Về phụ âm Trong buổi đầu tiên khi giới thiệu về tiếng Việt, hầu nhƣ các giáo viên đều giáo viên chọn cách giới thiệu bảng chữ cái rồi lần lƣợt chỉ rõ các chữ cái, cách viết, tên gọi. Cách làm này về cơ bản có thể giúp học viên nhận diện đƣợc trong tiếng Việt có bao nhiêu chữ cái, bao nhiêu nguyên âm, phụ âm, các nguyên âm và phụ âm đƣợc phát âm nhƣ thế nào. Tuy nhiên, nếu chỉ giới thiệu nhƣ vậy thì học viên khó để nắm bắt đƣợc đầy đủ cũng nhƣ không phân biệt đƣợc những phụ âm nào có đặc điểm cấu âm khác nhau hoặc gần giống nhau dễ nhầm lẫn khi phát âm. Vì vậy, giáo viên nên thêm vào phần giới thiệu phụ âm theo vị trí cấu âm, ví dụ âm môi (p,m), âm lƣỡi răng (t, n), âm mặt lƣỡi (ch, nh),... Phƣơng pháp này sẽ giúp ngƣời học phân biệt đƣợc vị trí cơ quan cấu âm của mỗi âm, thấy đƣợc điểm khác biệt hay gần giống nhau của các phụ âm trong nhóm để có cách nhớ đơn giản chính xác hơn hơn, có sự so sánh, từ đó không bị nhầm lẫn trong phát âm. Về nguyên âm Trong hệ thống ngữ âm tiếng Việt, tuy nguyên âm có số lƣợng không phong phú nhƣ phụ âm những vẫn có thể tạo nên những khó khăn nhất định cho học viên vì vừa có nguyên âm có dấu vừa có nguyên âm không có dấu, cách phát âm cũng có những sự tƣơng đồng dễ nhầm lẫn. Nếu giáo viên chỉ giới thiệu nguyên âm ở mức độ liệt kê thì sẽ gây ra sự lúng túng cho ngƣời học vì không nhận ra đƣợc sự giống và khác giữa các nguyên âm. Vì vậy, giáo viên cũng nên chọn cách chia các nguyên âm thành các nhóm để ngƣời học dễ nhận diện, từ đó hình thành thói quen trong phát âm. 230
  5. Kỷ yếu điện tử Hội thảo Quốc gia Nghiên cứu liên ngành về Ngôn ngữ và Giảng dạy ngôn ngữ lần thứ VI Khi giới thiệu phân chia nhóm nguyên âm, giáo viên cần chú trọng nhấn mạnh đến sự phân biệt giữa nguyên âm có dấu và nguyên âm không dấu. Ngƣời bản ngữ đang sử dụng tiếng Việt đƣơng nhiên sẽ thấy đơn giản với điều này nhƣng thực tế giảng dạy cho thấy hầu hết học viên nƣớc ngoài lúc tiếp cận ban đầu rất khó định hình và nhận diện tốt về các dấu phụ của nguyên âm, thậm chí là khi phát âm họ thấy rất khó phân biệt giữa các nguyên âm phát âm nghe gần giống nhau nhƣ o với ô, e với ê, a với ă, khi viết lại nhầm lẫn dấu của nguyên âm với thanh điệu. Cho nên, giáo viên cần lƣu ý để có những cách truyền đạt hợp lý, vừa tạo tâm lý thoải mái cho học viên khi bƣớc đầu tìm hiểu về một ngôn ngữ mới, vừa có những cách tiếp cận khoa học, dễ hiểu và dễ nhớ. Giáo viên có thể giới thiệu bằng cách phân chia theo nhóm ngữ âm cùng hình thức chữ viết nhƣng dấu khác nhau dẫn đến việc phát âm khác nhau, thể hiện ở nhóm nguyên: a, ă, â / o, ô, ơ / u, ƣ / e, ê. Ngoài ra, giáo viên cũng có thể dựa vào tiêu chí cấu âm để phân biệt các nhóm nguyên âm, ví dụ nguyên âm tròn môi (u, o, ô) và nguyên âm không tròn môi (a, ă, â, i, e, ê). Giáo viên cũng cần lƣu ý với học viên về trƣờng hợp đặc biệt của nguyên âm a, khi kết hợp với ch và nh sẽ thành vần anh và ach (đọc nghe nhƣ e chứ không phải a nhƣ các trƣờng hợp âm tiết nhà, ngang, tám). 2.2. Đối tƣợng học viên và ngôn ngữ bản xứ Từ khi hoạt động giảng dạy tiếng Việt cho ngƣời nƣớc ngoài ở Trƣờng Đại học Ngoại ngữ, Đại học Huế đƣợc chính thức đƣợc triển khai nhƣ một hoạt động đào tạo chính quy, cho đến nay trƣờng đã đón rất nhiều đối tƣợng học viên nƣớc ngoài đến giao lƣu học tập về tiếng Việt và văn hóa Việt tại trƣờng. Nhằm phục vụ nhu cầu học tập phong phú của học viên, nhiều loại hình đào tạo đã đƣợc mở ra, có thể kể đến những chƣơng trình sau: - Chƣơng trình tiếng Việt 1 năm: học viên học tiếng Việt trong 1 năm, có thực tập giảng dạy tại trƣờng, có cấp chứng chỉ (sinh viên từ các học viện của Trung Quốc, hợp tác hàng năm) - Chƣơng trình cử nhân tiếng Việt: chƣơng trình học dành cho các lớp 1+3 của sinh viên Trung Quốc, Trƣờng Đại học Ngoại ngữ Huế cấp bằng tốt nghiệp - Chƣơng trình giao lƣu tìm hiểu về tiếng Việt và văn hóa Việt cho đoàn sinh viên Hoa Kỳ (hợp tác hàng năm) - Chƣơng trình tiếng Việt ngắn hạn cho sinh viên của Trƣờng Đại học Ibaraki – Nhật Bản (hợp tác hàng năm) - Chƣơng trình tiếng Việt (ngoại ngữ 2) cho sinh viên Trung Quốc thực tập tiếng Anh tại trƣờng - Chƣơng trình tiếng Việt theo nhu cầu cho các học viên tự do (học viên từ Úc kết hôn với ngƣời Việt, học viên đi du lịch ở Việt Nam, học viên học kèm ôn thi năng lực ngoại ngữ tiếng Việt, giáo viên ngoại ngữ tình nguyện muốn học thêm về tiếng Việt,…) - Chƣơng trình tiếng Việt ngắn hạn cho sinh viên Thái Lan 231
  6. Kỷ yếu điện tử Hội thảo Quốc gia Nghiên cứu liên ngành về Ngôn ngữ và Giảng dạy ngôn ngữ lần thứ VI - Chƣơng trình tiếng Việt ngắn hạn cho học sinh Thái Lan Các chƣơng trình học nói trên cho thấy học viên nƣớc ngoài học tiếng Việt tại Trƣờng Đại học Ngoại ngữ, Đại học Huế đến từ nhiều quốc gia với nhiều hệ ngôn ngữ khác nhau. Có học viên đang sử dụng ngôn ngữ thuộc ngữ hệ Ấn Âu, dùng ký tự Latinh, có học viên dùng ngôn ngữ tƣợng hình, ngôn ngữ thuộc nhóm Thái, có ngôn ngữ biến hình, có ngôn ngữ không biến hình, ngôn ngữ đơn tiết, ngôn ngữ đa âm tiết,... Thực tế đa dạng về ngôn ngữ này càng làm cho vấn đề ngữ âm trong giảng dạy tiếng Việt cho ngƣời nƣớc ngoài trở nên rất quan trọng và cần đƣợc đƣợc đầu tƣ hoàn thiện về phƣơng pháp cũng nhƣ nội dung truyền đạt. 3. Phƣơng pháp nghiên cứu Bài viết đƣợc thực hiện trên cơ sở vận dụng những hiểu biết về lý thuyết phƣơng pháp giảng dạy tiếng Việt cho ngƣời nƣớc ngoài nói chung và vấn đề ngữ âm nói riêng, từ đó làm nền tảng tri thức cho việc phân tích những luận điểm về cơ sở lý luận cũng nhƣ thể hiện kết quả nghiên cứu. Để đảm bảo sự thống kê chính xác và khoa học cho bài viết, công tác thu thập thông tin từ việc điều tra, khảo sát đƣợc tiến hành nghiêm túc. Câu hỏi khảo sát đƣợc gởi đến các giáo viên có tham gia giảng dạy tiếng Việt cho ngƣời nƣớc ngoài ở trƣờng để tổng hợp ý kiến làm dữ liệu phân tích. Các nội dung khảo sát, câu hỏi trực tiếp cũng đƣợc thực hiện với các đối tƣợng học viên nƣớc ngoài đến học tiếng Việt tại trƣờng để có đƣợc những nhận định của ngƣời học về ảnh hƣởng của vấn đề ngữ âm và khác biệt ngữ hệ trong quá trình học tập. Phƣơng pháp thống kê, tổng hợp, lựa chọn, phân tích đƣợc vận dụng tích cực trong việc tìm kiếm tài liệu tham khảo, các bài viết, thông tin hữu ích nhằm đảm bảo về nội dung nghiên cứu cũng nhƣ tính khoa học trong quy trình thực hiện. Các hoạt động chụp ảnh, ghi chép, phỏng vấn, ghi âm, ghi hình cũng đƣợc thực hiện để có đƣợc nguồn ngữ liệu phong phú và chọn lọc đƣợc những trƣờng hợp điển hình nhất cho các kết quả thống kê của bài viết. 4. Kết quả nghiên cứu 4.1. Nhận định chung về vấn đề ngữ âm trong giảng dạy tiếng Việt cho ngƣời nƣớc ngoài từ phía giáo viên và học viên Để có đƣợc các kết quả nhận định về các nội dung đáp ứng cho hƣớng nghiên cứu của bài viết, ngƣời viết đã tiến hành khảo sát bằng câu hỏi và phỏng vấn trực tiếp đối với các giáo viên có tham gia giảng dạy tiếng Việt cho ngƣời nƣớc ngoài tại trƣờng và các nhóm học viên đã, đang học tiếng Việt tại trƣờng. Về phía ngƣời dạy, kết quả khảo sát cho thấy, tất cả giáo viên đều cho rằng, vấn đề ngữ âm, khác biệt về loại hình ngôn ngữ là vấn đề rất đƣợc quan tâm tìm hiểu trƣớc khi bắt đầu giảng dạy. Dù là đối với giáo viên trực tiếp giảng dạy ngữ âm, kỹ năng phát âm cũng nhƣ các kỹ năng ngôn ngữ khác hay giáo viên phụ trách các chuyên đề không thuộc nhóm luyện tập kỹ năng thì vấn đề ngữ âm, sự khác biệt về các yếu tố ngữ âm giữa tiếng Việt với ngôn ngữ bản xứ của học viên vẫn luôn có những ảnh hƣởng nhất định đến quá trình dạy học. Giáo viên cần trang bị những hiểu biết về vấn đề này để việc hoạt động dạy của mình đƣợc chủ 232
  7. Kỷ yếu điện tử Hội thảo Quốc gia Nghiên cứu liên ngành về Ngôn ngữ và Giảng dạy ngôn ngữ lần thứ VI động và chuyên nghiệp, quan trọng hơn nữa là cần chú ý đến phát âm của mình sao cho thật chuẩn, có sự đồng nhất giữa các giáo viên khác để tránh những phát âm thiếu chuẩn xác khi giao tiếp với học viên. Về phía ngƣời học, qua việc tham khảo các bài viết về giảng dạy ngữ âm tiếng Việt cho học viên nƣớc ngoài và những nhận định thực tế từ công tác giảng dạy, có thể nhận thấy rằng vấn đề phát âm luôn là những trở ngại nhất định đối với học viên từ những buổi đầu tiên tiếp cận với một ngoại ngữ. Đối với tiếng Việt, áp lực lớn nhất khiến các học viên phải ―đau đầu‖ không phải từ nguyên âm, phụ âm hay vần, cách phát âm mà đến từ yếu tố thanh điệu. Trong một bài viết về hoạt động dạy tiếng Việt cho ngƣời nƣớc ngoài có đoạn ―Ông Andrew Holt – nguyên Bí thƣ thứ nhất Đại sứ quán Anh tại Việt Nam, từng làm thầy giáo tiếng Việt sửng sốt vì cách dùng tiếng Việt rất ―thần thái‖ cũng phải thừa nhận tiếng Việt ―phát âm rất khó‖. Ông phát biểu rằng đối với một ngƣời Anh muốn nói tiếng Việt có một vấn đề rất lớn: thanh điệu. Hay đúng hơn, có sáu vấn đề, vì có 6 thanh điệu‖... Sau này dù kiên trì học tập và tiến bộ từng ngày nhƣng ông vẫn bất lực trƣớc một thanh điệu ―khó nhằn‖ bậc nhất: dấu hỏi‖ (Ngọc Hà (2018), ―Dạy tiếng Việt cho Tây – Kỳ 1: 6 cái khó của tiếng Việt‖, Tuoi Tre Online). Không chỉ học viên đến từ các vùng ngôn ngữ Ấn Âu không có thanh điệu mà ngay cả học viên đang sử dụng các ngôn ngữ bản xứ có thanh điệu nhƣ tiếng Thái, tiếng Trung cũng thừa nhận rằng yếu tố gây khó khăn nhất và làm cho các bạn ấy e dè nhất khi luyện tập phát âm tiếng Việt đó là thanh điệu. Trả lời cho thắc mắc này, các bạn ấy giải thích rằng nguyên âm và phụ âm cũng là vấn đề khó nhƣng lại rất rõ ràng và không bị thay đổi cách phát âm khi kết hợp trong âm tiết. Thanh điệu tiếng Việt vừa phong phú về số lƣợng, đƣờng nét lại vừa có sự biến đổi âm sắc linh hoạt khi kết hợp với các âm tiết, cụ thể là thanh sắc. Cùng một thanh điệu có khi âm tiết này phát âm với âm sắc khác nhƣng âm tiết kia lại có âm sắc khác, ví dụ hai âm tiết ―gói‘ và ―bắp‖. Nhƣ vậy, so với nguyên âm và phụ âm thì thanh điệu vẫn là một vấn đề gây trở ngại nhất đối với ngƣời nƣớc ngoài học tiếng Việt. Sơ đồ thể hiện so sánh mức độ ảnh hưởng của thanh điệu so với nguyên âm và phụ âm đối với học viên nước ngoài học ngữ âm tiếng Việt 233
  8. Kỷ yếu điện tử Hội thảo Quốc gia Nghiên cứu liên ngành về Ngôn ngữ và Giảng dạy ngôn ngữ lần thứ VI 4.2. Các trƣờng hợp phát âm khó và nhầm lẫn điển hình của học viên Với đội ngũ giáo viên dạy tiếng Việt cho ngƣời nƣớc ngoài, đặc biệt là những giáo viên phụ trách giảng dạy về ngữ âm, phát âm và kỹ năng nói, giao tiếp, cần phải hiểu biết về các vấn đề ngữ âm, đặc biệt là những trƣờng hợp phát âm nhầm lẫn điển hình của học viên để nhắc nhở và có những hình thức luyện tập hợp lý. Dƣới đây là một số trƣờng hợp phát âm sai điển hình của học viên nƣớc ngoài học tiếng Việt tại trƣờng nhìn nhận đƣợc từ thực tế giảng dạy: Học viên trƣờng hợp phát âm sai điển hình học viên đến từ Anh, - khó phát âm đúng thanh điệu, đặc biệt là thanh hỏi Úc, Mỹ - các âm không bật hơi thành các âm bật hơi (tôi tên là --> thôi thên là, con cá --> khon khá) - phát âm sai nhóm phụ âm gốc lƣỡi (c/k/q – ng/ ngh/ - g/ gh) học viên Nhật Bản - phát âm t thành th (tƣơng lai/thƣơng lai) - phát âm u thành ƣ tròn môi (mùa thu/mùa thƣ) - phát âm ân thành ăn (chân/chăn), ách thành ắc (túi xách/túi xắc) - phát âm đ thành t (đau đầu/tau tầu) - phát âm nhầm lẫn giữa r và l (rất/lất, là/rà) - phát âm v thành b (về/bề) - thanh hỏi thành thanh sắc (không phải/khống phải) học viên Thái Lan - phát âm sai thanh ngã và thanh nặng vì trong tiếng Thái không có - phát âm sai những âm có âm đệm vì trong tiếng Thái không có học viên Trung Quốc - phát âm nhầm lẫn giữa âm t và âm đ (xe đạp/ xe tạp) - khó phát âm âm g,gh,ng học viên Hàn Quốc phát âm âm v giống âm b (và/bà) 4.3. Trao đổi về phƣơng pháp và hình thức thực hành hiệu quả cho những giờ học ngữ âm Nhƣ đã phân tích ở các nội dung trên, vấn đề khác biệt ngữ âm giữa tiếng Việt với ngôn ngữ bản xứ của học viên nƣớc ngoài luôn là một vấn đề mang tính đặc thù ở những khóa đào tạo tiếng Việt cho ngƣời nƣớc ngoài. Đây có thể nói là vấn đề có ảnh hƣởng rất lớn đến tâm lý, động cơ học tập của học viên ngay từ buổi đầu khi tiếp cận với tiếng Việt, cũng không ngoại trừ trƣờng hợp giáo viên gặp những lúng túng khi xử lý các tình huống lớp học liên quan đến phát âm vì không chú ý tìm hiểu trƣớc khi giảng dạy. Thực tế giảng dạy của ngƣời viết cho thấy đã từng có học viên cảm thấy bối rối, thậm chí là cảm thấy khó chịu khi luyện tập phát âm. Nhiều bài viết về phƣơng pháp giảng dạy tiếng Việt cho ngƣời nƣớc ngoài cũng có những chia sẻ sâu sắc về vấn đề này. Cho nên, các thầy cô giáo bên cạnh việc trang bị những kiến thức về mặt ngữ âm tiếng Việt và tìm hiểu về ngôn ngữ bản xứ của ngƣời học thì cần có những phƣơng pháp giảng dạy phù hợp cũng nhƣ các dạng bài tập thực hành hiệu quả để vấn đề ngữ âm trở nên nhẹ nhàng hơn đối với học viên. Ngƣời viết xin chia sẻ một vài kinh nghiệm về phƣơng pháp nhƣ sau: - Buổi dạy phát âm đầu tiên là rất quan trọng. Phƣơng pháp giảng dạy và nội dung truyền đạt có thể quyết định đến hứng thú học tập của ngƣời học ngay từ buổi đầu tiếp cận với hệ thống ngữ âm tiếng Việt. Giáo viên cần lựa chọn những nội dung trọng tâm, vừa phải để cung cấp cho học viên trong buổi học phát âm đầu tiên, không quá sơ sài đơn giản dẫn đến 234
  9. Kỷ yếu điện tử Hội thảo Quốc gia Nghiên cứu liên ngành về Ngôn ngữ và Giảng dạy ngôn ngữ lần thứ VI thiếu hụt nội dung nhƣng cũng không quá mang tính chất học thuật chuyên ngành sâu về ngữ âm học làm cho học viên cảm thấy nặng nề và rối rắm. - Cấu trúc đầy đủ của âm tiết tiếng Việt gồm có 5 yếu tố là âm đầu, âm đệm, âm chính, âm cuối và thanh điệu. Tuy nhiên, trong những buổi dạy ngữ âm đầu tiên, giáo viên chỉ nên tập trung giải thích về 3 yếu tố chủ đạo là nguyên âm, phụ âm và thanh điệu để học viên có cái nhìn đơn giản và dễ nhận diện hơn. Giáo viên nên truyền đạt những gì đơn giản, cốt lõi và tạo một cách tiếp cận nhẹ nhàng nhất. Sau này trong quá trình học khi khả năng giao tiếp đã tốt hơn và quen với ngữ âm tiếng Việt thì giáo viên sẽ giới thiệu thêm các nội dung học thuật hơn, lồng ghép vào các giờ học. Nếu ngƣời dạy quá sa đà vào việc phân tích các vấn đề ngữ âm thì không những đem lại cho học viên cảm giác mệt mỏi bối rối mà còn ảnh hƣởng đến mục đích học tập cao nhất cao nhất học giao tiếp về lâu dài của học viên. - Tùy chuyên môn mà mình đảm nhận, giáo viên cần có nhận định và hiểu biết nhất định về ngữ âm tiếng Việt trong sự đối sánh với ngôn ngữ bản xứ của học viên. Đối với những giáo viên phụ trách các học phần về rèn luyện kỹ năng, đặc biệt là kỹ năng nghe-nói, việc trang bị những kiến thức sâu sắc về các vấn đề ngữ âm của tiếng Việt nhƣ hệ thống nguyên âm, phụ âm, thanh điệu, cách phát âm là rất quan trọng để có đƣợc những giờ thực hành ngôn ngữ hiệu quả, xử lý tốt các tình huống dạy học liên quan đến phát âm. Tuy nhiên, bên cạnh đó, những giáo viên phụ trách chuyên đề nhƣ văn hóa, du lịch, thƣơng mại, pháp luật,... dù các tiết học không bị ảnh hƣởng nhiều từ yếu tố khác biệt ngữ âm, nhƣng cũng cần có những hiểu biết nhất định về vấn đề này để có thể nhắc nhở hoặc sửa khi học viên phát âm sai, góp phần thúc đẩy kết quả học tập của học viên. - Giáo viên cần hiểu rõ những nhóm học viên đến từ Châu Á, Châu Âu sẽ có những thuận lợi và khó khăn gì khi phát âm tiếng Việt để có những bài học phù hợp. - Giáo viên phụ trách học phần về kỹ năng nói và phát âm chủ động lên kế hoạch giảng dạy với phƣơng pháp hợp lý; tổ chức lồng ghép các hoạt động thực tế, tham quan điền dã đúng mục đích thực hành ngôn ngữ, thời lƣợng hợp lý để học viên vừa có điều kiện thực hành tiếng Việt trực tiếp với ngƣời bản xứ vừa thay đổi không gian học tập mới mẻ hào hứng hơn. - Đối với những học viên đang sử dụng ngôn ngữ bản xứ theo hệ ký tự tƣợng hình hoặc không thuộc hệ Latinh, giáo viên nên cho thực hành song song giữa phát âm và luyện viết để học viên quen với cách viết; đối với những học viên đang sử dụng ngôn ngữ bản xứ theo hệ Latinh thì giáo viên cần chú trọng hơn về sự khác biệt giữa các nguyên âm, phụ âm khi phát âm - Vấn đề tâm lý và sự đồng cảm trong hoạt động giảng dạy tiếng Việt cho ngƣời nƣớc ngoài cũng là một yếu tố có thể ảnh hƣởng đến diễn biến và kết quả của khóa học, đặc biệt là những giờ học phát âm. Thầy cô là ngƣời bản ngữ sẽ thấy tiếng của mình rất đơn giản, nhƣng cần đặt mình vào vị trí của học viên nƣớc ngoài để cảm nhận và hiểu đƣợc những trở ngại ban đầu khi tiếp cận ngoại ngữ tiếng Việt của học viên, từ đó có những nội dung giảng dạy phù hợp và kiên trì, vui vẻ khi luyện tập phát âm cho học viên. 235
  10. Kỷ yếu điện tử Hội thảo Quốc gia Nghiên cứu liên ngành về Ngôn ngữ và Giảng dạy ngôn ngữ lần thứ VI Cùng với những phƣơng pháp vừa trao đổi, ngƣời viết xin chia sẻ một số hình thức thực hành đạt hiệu quả nhất định đối với những giờ học phát âm: - Học viên thực hành giao tiếp với nhau theo những tình huống giao tiếp có chú trọng đến những vấn đề ngữ âm mà giáo viên xây dựng. - Giáo viên cho học viên nghe các bài hát đơn giản, điền từ, hát theo. - Giáo viên áp dụng hình thức ―nghe thuội‖, cho học viên nghe đọc thơ, kể chuyện, các bài đọc theo chủ đề,... để tăng khả năng nhận diện âm thanh của âm tiết. - Giáo viên yêu cầu về thanh điệu, nguyên âm, phụ âm để học viên cho ví dụ âm tiết - Giáo viên tổ chức các tiết học phát âm có sự tham gia giao lƣu của sinh viên bản ngữ để học viên có điều kiện thực hành thêm về ngữ âm với ngƣời bản xứ ngoài giáo viên, tạo không khí thoải mái vui vẻ và mới lạ cho những lớp học thực hành tiếng. - Học viên nhìn khẩu hình phát âm của giáo viên để đoán từ. 5. Thảo luận và đề xuất Qua những nội dung đã phân tích ở trên, ngƣời viết xin đƣợc trình bày một số đề xuất nhằm góp ý kiến vào hoạt động dạy ngữ âm tiếng Việt nói riêng và công tác hoàn thiện phƣơng pháp giảng dạy tiếng Việt cho ngƣời nƣớc ngoài nói chung: - Nhà trƣờng và khoa trực tiếp phụ trách hoạt động giảng dạy tiếng Việt cho ngƣời nƣớc ngoài có thể tổ chức nhiều hoạt động đoàn thể, sinh hoạt ngoại khóa nhƣ dạ hội, thi tìm hiểu về ngôn ngữ và văn hóa, giao lƣu văn hóa văn nghệ, các buổi tham quan thực tế,... cho học viên nƣớc ngoài đến học tiếng Việt tại trƣờng nhằm tạo cơ hội để sinh viên nƣớc ngoài gặp gỡ, giao lƣu, thực hành tiếng Việt với ngƣời bản xứ cũng nhƣ xây dựng đƣợc những khóa học tiếng Việt lý thú đối với ngƣời học. Nhà trƣờng cũng có thể xem xét hỗ trợ thêm trang thiết bị phục vụ cho hoạt động dạy học tiếng Việt cho ngƣời nƣớc ngoài, đặc biệt là những phƣơng tiện hỗ trợ việc thực hành phát âm. - Đội ngũ giáo viên dạy tiếng Việt cho ngƣời nƣớc ngoài cần trang bị những hiểu biết về ngữ âm, loại hình ngôn ngữ, nguyên âm, phụ âm, thanh điệu của tiếng Việt cũng nhƣ những nét tƣơng đồng và dị biệt cơ bản giữa tiếng Việt với ngôn ngữ bản xứ của học viên để có có thể xây dựng đƣợc những giờ học hiệu quả, giúp học viên tiếp cận dễ dàng với ngữ âm tiếng Việt ngay từ ban đầu cũng nhƣ không nảy sinh khó khăn trong diễn biến của khóa học - Thầy cô giáo cần có sự thống nhất về chất giọng vùng miền của giáo viên khi giảng dạy để đảm bảo đồng nhất về cách phát âm cho học viên; ngoài ra giáo viên cũng cần tìm hiểu thêm những khác biệt về giọng vùng miền để giải thích thêm cho học viên trong quá trình học khi học viên đã đạt đến một trình độ giao tiếp nhất định. - Giáo viên nên khuyến khích ngƣời học tham gia vào các hội thảo văn hóa, các hoạt động trao đổi giao lƣu văn hóa nhƣ xem phim, hòa nhạc, triển lãm, các lễ hội truyền thống,… để sinh viên có cơ hội tiếp cận với ngôn ngữ và nền văn hóa đích, từ đó có những trải nghiệm 236
  11. Kỷ yếu điện tử Hội thảo Quốc gia Nghiên cứu liên ngành về Ngôn ngữ và Giảng dạy ngôn ngữ lần thứ VI cá nhân về giao tiếp giao và mở rộng tầm hiểu biết, tạo động cơ để họ phấn đấu học tập tốt hơn. 6. Kết luận Ngày nay, Việt Nam đã trở thành một điểm đến hấp dẫn thu hút đông đảo bạn bè quốc tế trên nhiều lĩnh vực nhƣ du lịch, hợp tác kinh tế, trao đổi học tập, nghiên cứu, giao lƣu văn hóa, ngôn ngữ,... Tiếng Việt từ nhiều năm trở lại đây không chỉ đƣợc xem là ngôn ngữ của một dân tộc mà đã dần trở thành một ngoại ngữ, một nhu cầu hiểu biết thiết yếu và lý thú của ngƣời nƣớc ngoài khi đến với đất nƣớc Việt Nam. Chính vì vậy, hoạt động giảng dạy tiếng Việt cho ngƣời nƣớc ngoài ở Việt Nam cũng ngày càng phát triển mạnh, nhất là ở các thành phố đƣợc xem là trung tâm kinh tế - văn hóa lớn của cả nƣớc. Hoạt động giảng dạy tiếng Việt nhƣ một ngôn ngữ thứ hai vừa là hoạt động mang dấu ấn chung của những mô hình dạy ngoại ngữ phổ biến lại vừa mang những yếu tố đặc thù. Việc nghiên cứu tìm tòi những phƣơng pháp giảng dạy hiện đại, đáp ứng nhu cầu học tập của ngƣời học thích hợp là một tiêu chí quan trọng nhằm nâng cao hiệu quả dạy học. Để có đƣợc một khóa học tiếng Việt thành công, ngoài các yếu tố giáo trình, phƣơng pháp giảng dạy, nội dung bài học, phƣơng tiện hỗ trợ học tập,... ngƣời dạy cũng cần chú trọng đến một vấn đề khách quan có ảnh hƣởng lớn đó là sự khác biệt về ngữ âm, loại hình ngôn ngữ giữa tiếng Việt với ngôn ngữ bản xứ của học viên. Nếu ngay từ buổi học đầu tiên nếu thầy cô quá sa đà vào việc phân tích những sự khác biệt về ngữ âm nhƣ nguyên âm, phụ âm, thanh điệu, cách phát âm, vị trí cấu âm,... sẽ tạo áp lực nặng nề và khó khăn đối với học viên; nhƣng ngƣợc lại ở buổi học phát âm ban đầu nếu thầy cô biết chọn lọc những nội dung ngữ âm vừa phải cùng sự truyền đạt khoa học, tinh tế thì học viên sẽ có đƣợc tâm lý thoải mái, vui vẻ, từ đó chủ động và hứng thú hơn đối với khóa học. Ngƣời dạy cần nắm bắt sâu sắc điều này để xây dựng những giờ học đạt hiệu quả cao, bởi vì những khác biệt về ngữ âm tuy không phải là vấn đề lớn nhất quyết định sự thành bại của một khóa học nhƣng lại là trở ngại đầu tiên có ảnh hƣởng đến động cơ và hứng thú học tập của học viên. Có thể nói rằng nhu cầu học tiếng Việt nhƣ một ngoại ngữ chung quy lại cũng hƣớng đến mục đích tối thƣợng là để giao tiếp và tìm hiểu văn hóa. Khắc phục các trở ngại về phát âm ngay từ ban đầu chính là một trong những con đƣờng để học viên nƣớc ngoài có thể đi đến mục tiêu cuối cùng này. Tài liệu tham khảo Mai Ngọc Chừ, Vũ Đức Nghiệu, & Hoàng Trọng Phiến (1999). Cơ sở ngôn ngữ học và tiếng Việt. NXB Giáo dục, Cao Xuân Hạo (2001). Ngôn ngữ và văn hóa Tiếng Việt, văn Việt, người Việt. NXB Trẻ. Hà Nội. Ngọc Hà (2018). Dạy tiếng Việt cho Tây – Kỳ 1: 6 cái khó của tiếng Việt. Tuoi Tre Online Nguyễn Văn Huệ (2016). Tiếng Việt cho người nước ngoài. NXB Đại học quốc gia Tp Hồ Chí Minh. Nguyễn Văn Huệ. Một số kỹ thuật dạy phát âm, Khoa Việt Nam học. Trƣờng ĐHKHXH&NV – ĐHQGTP. Hồ Chí Minh. Nguyễn Văn Lai (1975). Thanh điệu tiếng Việt và việc dạy thanh điệu tiếng Việt cho ngƣời nƣớc ngoài. Thông báo khoa học, 1. Khoa tiếng Việt ĐHTH Hà Nội 237
  12. Kỷ yếu điện tử Hội thảo Quốc gia Nghiên cứu liên ngành về Ngôn ngữ và Giảng dạy ngôn ngữ lần thứ VI Vƣơng Hữu Lễ (2009). Giáo trình Ngữ âm tiếng Việt tinh giản. NXB Đại học Sƣ Phạm Bùi Khánh Thế (2003). Đi tìm mô hình thỏa đáng để dạy – học tiếng Việt nhƣ ngôn ngữ thứ hai. Ngôn ngữ, 12. Tập thể giáo viên 123Vietnamese (2016). Tiếng Việt 123. NXB Thế giới Trần Ngọc Thêm (1998). Cơ sở văn hóa Việt Nam. NXB Giáo Dục Mai Ngọc Chừ (1995). Tiếng Việt cho người nước ngoài (Vietnamese for Foreigners). NXB Giáo dục PHONETIC ASPECTS IN TEACHING VIETNAMESE AS A FOREIGN LANGUAGE – A DISCUSSION ON TEACHING METHODS AND PRACTICE EXERCISES Abstract Vietnamese programs for foreigners are one of the foci of development at University of Foreign Languages, Hue University. Significant effort has been put in by the teaching staff in further developing their skills and methods and studying other professional matters to continuously improve the quality of these programs. This paper presents a preliminary study on the phonetic aspects of teaching Vietnamese as a foreign language, specifically the phonemic differences between Vietnamese and other languages which are native to the learners. In particular, the author, from research and teaching experiences, discusses several typical differences in the phonetic systems found in vowels, consonants, tones, and pronunciation, among others. Tools such as statistics, analysis, comparison, survey, and interview are utilized to achieve the standards of a scientific research paper. Through this paper, the author hopes to discuss and contribute ideas on teaching methods and several formats of practice exercises in teaching Vietnamese as a foreign language. Keywords Vietnamese as a foreign language, phonetics, pronunciation, practice exercise, method 238
nguon tai.lieu . vn