Xem mẫu

  1. HỘI THẢO "NGÂN HÀNG VIỆT NAM: BỐI CẢNH VÀ TRIỂN VỌNG" VẤN ĐỀ MUA VÀ XỬ LÝ NỢ XẤU TẠI CÔNG TY MUA BÁN NỢ VÀ TÀI SẢN TỒN ĐỌNG CỦA DOANH NGHIỆP (DATC) TS. Hồ Hữu Tiến Trường Đại học Kinh tế - Đại học Đà Nẵng Th.S. Trần Quốc Thái Công ty mua bán nợ và tài sản tồn đọng doanh nghiệp TÓM TẮT Thực trạng nợ xấu trong hệ thống ngân hàng Việt Nam trong những năm gần đây có chiều hướng gia tăng và trong tình trạng báo động. Do đó, xử lý nợ xấu là nhiệm vụ cấp bách, được sự quan tâm của Chính phủ, các Bộ ngành, Ngân hàng Nhà nước và nhiều chủ thể trong nền kinh tế. DATC là công cụ của Chính phủ, thực hiện nhiệm vụ mua và xử lý nợ xấu, góp phần làm giảm tỷ lệ nợ xấu của NHTM, hỗ trợ tái cơ cấu và phục hồi doanh nghiệp. Bài viết này nhằm đánh giá thực trạng mua và xử lý nợ xấu của DATC giai đoạn từ năm 2004 đến năm 2013. Trên cơ sở đó, phân tích nguyên nhân, đề xuất giải pháp hoàn thiện hoạt động mua và xử lý nợ xấu tại DATC. Từ khóa: Thực trạng phát triển kinh tế; tăng trưởng; truyền thông marketing; du lịch; lợi thế; Kontum. 1. Đặt vấn đề Nợ xấu là nguyên nhân dẫn đến khủng hoảng tài chính tại nhiều nước trên thế giới. Một trong những giải pháp để các quốc gia ứng phó với khủng hoảng tài chính là thành lập các tổ chức xử lý nợ xấu. Việc xử lý nợ xấu thông qua các tổ chức xử lý nợ tập trung đã được thực hiện thành công tại các nước Châu Á trong bối cảnh khủng hoảng tài chính năm 1997 như Hàn Quốc với Công ty quản lý tài sản Hàn Quốc (Korean Asset Management Corporation: KAMCO), Thái Lan với Cơ quan tái cấu trúc tài chính của Thái Lan (Finance Restructuring Agency: FRA) và Công ty quản lý tài sản Thái Lan (Thai Asset Management Company: TAMC), Malaysia với Danaharta, Indonesia với Cơ quan tái cấu trúc ngân hàng Indonesia (Indonesian Bank Restructuring Agency: IBRA) … Đối với Việt Nam, để giải quyết nợ xấu của các NHTM, góp phần hỗ trợ tái cơ cấu doanh nghiệp, Chính phủ đã ban hành Quyết định số 109/2003/QĐ-TTg ngày 05/06/2003 thành lập DATC nhằm mua lại nợ xấu của các NHTM để xử lý. Hoạt động xử lý nợ xấu của DATC trong thời gian qua tuy đạt được những thành công nhất định nhưng vẫn còn nhiều hạn chế. Do đó, việc tìm ra những giải pháp nhằm hoàn thiện hoạt động mua và xử lý nợ xấu tại DATC sẽ có ý nghĩa góp phần làm giảm nhanh hơn tỷ lệ nợ xấu, lành mạnh tình hình tài chính của các NHTM và phục hồi doanh nghiệp. 2. Thực trạng nợ xấu của Việt Nam và hoạt động của DATC 2.1. Thực trạng nợ xấu của Việt Nam Theo số liệu thống kê chính thức của NHNN, từ năm 2008 đến năm 2013, quy mô và tỷ lệ nợ xấu của các TCTD có xu hướng tăng nhanh, tốc độ tăng nợ xấu bình quân từ năm 2008 đến năm 2013 là 38,25% cao hơn tốc độ tăng trưởng tín dụng bình quân là 23,36%. Theo ý kiến của Thống đốc NHNN Việt Nam thì nợ xấu của toàn hệ thống TCTD Việt Nam đến cuối tháng 3/2012 khoảng 10% tổng dư nợ, trong khi đó Thanh tra NHNN đưa ra con số nợ xấu này là khoảng 202.000 tỷ đồng, chiếm tỷ lệ 8,6% tổng dư nợ. Bên cạnh đó, Cơ quan thanh tra giám sát NHNN lại đưa ra con số nợ xấu khoảng 270.000 tỷ đồng, chiếm tỷ lệ 11,8% tổng dư nợ. Theo đánh giá của Moody’s Investors Service được công bố vào ngày 18/02/2014 (www.moodys.com), nợ xấu của toàn hệ thống TCTD Việt Nam vào cuối năm 2013 chiếm tỷ lệ 373
  2. TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG 15% tổng tài sản, tương đương 863.380 tỷ đồng, chiếm tỷ lệ 24,85% tổng dư nợ toàn hệ thống TCTD. Tuy nhiên, theo NHNN nếu tính toán thận trọng thì tỷ lệ nợ xấu của toàn hệ thống TCTD Việt Nam (kể cả nợ cơ cấu lại theo Quyết định 780/QĐ-NHNN ngày 23/04/2012 của NHNN) đến cuối năm 2013 ở mức 9% tổng dư nợ toàn hệ thống, tương đương 313.018 tỷ đồng. Có thể thấy rằng, nợ xấu của Việt Nam được công bố là thiếu chuẩn xác. Tại một thời điểm, con số nợ xấu được các cơ quan nhà nước công bố hoàn toàn khác nhau, nợ xấu do tổ chức quốc tế có uy tín xác định cao hơn so với con số báo cáo của NHNN. Nguyên nhân của sự khác biệt này là do tiêu chí phân loại nợ xấu của Việt Nam chủ yếu dựa vào tiêu chí định lượng (số ngày quá hạn thanh toán), trong khi đó tiêu chí định tính (đánh giá khả năng trả nợ của khách nợ bị suy giảm) chưa được các NHTM quan tâm đúng mức. Có thể nhận định những nguyên nhân chủ yếu làm cho nợ xấu của hệ thống TCTD Việt Nam tăng cao trong thời gian vừa qua: - Do kinh tế suy giảm, làm cho tình hình SXKD của các doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn nên đã ảnh hưởng đến khả năng trả nợ ngân hàng. - Công tác thanh tra, giám sát ngân hàng trong thời gian dài chưa được chú trọng đúng mức nên hạn chế việc phát hiện, ngăn chặn và xử lý kịp thời các vi phạm trong hoạt động cấp tín dụng của các TCTD. - Đa số các TCTD theo đuổi chiến lược tăng trưởng tín dụng nhanh trong khi năng lực quản trị rủi ro còn nhiều hạn chế và chậm được cải tiến nên rủi ro tín dụng xảy ra là điều không thể tránh khỏi. - Một số TCTD tập trung đầu tư vào các lĩnh vực tiềm ẩn nhiều rủi ro như bất động sản. Khi thị trường bất động sản đóng băng và giá bất động sản giảm sâu thì khả năng trả nợ của các doanh nghiệp suy giảm. - Sở hữu chéo, đầu tư ngoài ngành của các NHTM và DNNN diễn ra phổ biến đã dẫn tới các khoản cho vay, đầu tư lòng vòng, tạo ra rủi ro dây chuyền. - Một số cán bộ ngân hàng suy thoái đạo đức nghề nghiệp, cấu kết móc ngoặc với doanh nghiệp để trục lợi cá nhân, cho vay dưới chuẩn, không đúng quy định. 2.2. Hoạt động mua và xử lý nợ xấu tại DATC Theo Quyết định 109/2003/QĐ-TTg ngày 05/06/2003 của Thủ tướng Chính phủ, có thể thấy rằng DATC thực hiện đồng thời hai chức năng: - Chức năng kinh doanh: DATC sử dụng vốn nhà nước giao để kinh doanh theo nguyên tắc thị trường, bảo toàn và phát triển vốn. - Chức năng chính trị - xã hội: DATC là công cụ của Chính phủ thực hiện xử lý nợ xấu của NHTM, góp phần lành mạnh hóa tình hình tài chính của doanh nghiệp và các NHTM, thúc đẩy chuyển đổi sở hữu DNNN. Hoạt động chính của DATC là mua và xử lý nợ xấu, tài sản tồn đọng của NH và DN. Ngoài ra, DATC được phép sử dụng vốn để đầu tư trực tiếp bằng các hình thức mua cổ phiếu, trái phiếu, góp vốn liên doanh và thoái vốn để thu hồi vốn đầu tư; Triển khai các hoạt động tư vấn và môi giới về xử lý nợ, mua bán và sáp nhập doanh nghiệp, tái cơ cấu doanh nghiệp; Thực hiện các hoạt động thẩm định giá, bán đấu giá nợ và tài sản. Để thực hiện nhiệm vụ xử lý nợ xấu, DATC được Chính phủ cấp nguồn vốn bằng tiền ban đầu là 2.000 tỷ VND, đến nay DATC đã tích lũy được lợi nhuận sau thuế để bổ sung, nâng vốn điều lệ lên 2.481 tỷ VND. 374
  3. HỘI THẢO "NGÂN HÀNG VIỆT NAM: BỐI CẢNH VÀ TRIỂN VỌNG" 2.2.1. Tình hình mua nợ Từ năm 2004 đến năm 2013, DATC thực hiện được 325 hợp đồng mua nợ với giá trị sổ sách là 9.807,5 tỷ đồng, tỷ lệ giao dịch thành công đối với hợp đồng mua nợ là 78,7%, khối lượng nợ giao dịch thành công chiếm tỷ lệ 61,2% trên tổng giá trị sổ sách của nợ được chào bán. Có 88 giao dịch mua bán nợ với giá trị sổ sách 6.215,5 tỷ đồng không được giao dịch thành công giữa DATC và các bên bán nợ. Có thể thấy rằng, nợ xấu do DATC mua và xử lý là rất ít so với tổng nợ xấu trong nền kinh tế. 2.2.2. Tình hình xử lý nợ Từ năm 2004 đến năm 2013, DATC đã xử lý nợ 130 trường hợp, số tiền đã thu hồi là 2.180,3 tỷ đồng với các biện pháp xử lý nợ như sau: + Đòi nợ trực tiếp: biện pháp này được áp dụng đối với những doanh nghiệp tạm thời gặp khó khăn về tài chính nhưng có khả năng trả nợ. Từ năm 2004 đến năm 2013 DATC đã tổ chức đòi nợ trực tiếp 37 trường hợp, số tiền thu hồi là 415,8 tỷ đồng, chiếm 19% tổng số tiền thu hồi. Trong quá trình đòi nợ, để khuyến khích khách nợ trả nợ nhanh, DATC đã xóa nợ lãi cho 2 trường hợp với số nợ lãi đã xóa là 18,4 tỷ đồng. Bảng 2.1. Thu hồi nợ từ xử lý của DATC giai đoạn 2004-2013 Đòi nợ Bán nợ Tái cơ cấu DN Năm Số trường Giá trị Số trường Giá trị Số trường Giá trị hợp hợp hợp (Tỷ VND) (Tỷ VND) (Tỷ VND) 1. Thu hồi 37 415,8 4 43,0 89 1.721,5 Năm 2004 1 0,2 Năm 2005 9 8,5 Năm 2006 23 66,1 Năm 2007 30 46,0 3 15,0 4 133,7 Năm 2008 32 37,1 7 218,6 Năm 2009 34 34,9 15 281,7 Năm 2010 35 30,9 22 417,0 Năm 2011 37 46,9 16 214,9 Năm 2012 37 32,4 15 217,3 Năm 2013 37 112,8 1 28,0 10 238,3 Tỷ trọng % 19,0 2,0 79,0 2. Xóa nợ 2 18,4 4 217,3 62 3.977,3 3. Góp vốn 62 802,0 Nguồn: Báo cáo của DATC và tính toán của tác giả + Bán nợ: từ năm 2004 đến năm 2013, DATC đã thực hiện bán nợ 4 trường hợp theo hình thức đấu giá công khai, số tiền thu hồi là 43 tỷ đồng, chiếm 2% tổng giá trị thu hồi. Do thị trường mua bán nợ Việt Nam chưa phát triển nên biện pháp bán nợ được DATC sử dụng rất hạn chế, việc bán nợ chủ yếu được DATC thực hiện sau khi có nhà đầu tư chào mua nợ. 375
  4. TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG + Tái cơ cấu doanh nghiệp: Biện pháp tái cơ cấu tài chính doanh nghiệp được áp dụng đối với các doanh nghiệp sắp lâm vào tình trạng phá sản nhưng có khả năng tái cơ cấu phục hồi. Từ năm 2007 đến năm 2013, DATC đã tái cơ cấu 89 doanh nghiệp, trong đó đã tái cơ cấu hoàn thành 62 doanh nghiệp, đang triển khai tái cơ cấu 27 doanh nghiệp. Tổng số nợ DATC đã xóa cho 62 doanh nghiệp là 3.977,3 tỷ đồng, số nợ chuyển thành vốn góp cổ phần là 802 tỷ đồng, số tiền thu hồi 1.721,5 tỷ đồng, chiếm 79% tổng số tiền thu hồi của DATC. DATC đã tái cơ cấu hoàn thành 62 doanh nghiệp, trong đó có 33 DNNN và 29 công ty cổ phần. Những doanh nghiệp được DATC tái cơ cấu hoạt động trong nhiều ngành nghề khác nhau như ngành nhựa bao bì, mía đường, chế biến thực phẩm, thủy sản, may mặc và da giày, thương mại, chế biến gỗ, sản xuất giấy, xây dựng và vật liệu xây dựng. Sau khi được DATC tái cơ cấu, có 23 doanh nghiệp có lợi nhuận, chiếm tỷ lệ 37% tổng số doanh nghiệp đã tái cơ cấu; 09 doanh nghiệp thực hiện chi trả cổ tức cho cổ đông, chiếm tỷ lệ 14,5% tổng số doanh nghiệp đã tái cơ cấu, tổng số cổ tức DATC nhận được là 69,8 tỷ đồng. Nhìn chung, số doanh nghiệp DATC thực hiện tái cơ cấu thành công không cao, tỷ lệ doanh nghiệp có lợi nhuận và chi trả cổ tức sau tái cơ cấu là khá thấp. 2.3. Những thành công của DATC Qua thực tế hoạt động của DATC trong thời gian qua cho thấy, DATC đạt được những thành công nhất định trong hoạt động mua và xử lý nợ xấu của NHTM, đồng thời mang lại lợi ích cho nhiều chủ thể trong nền kinh tế như: góp phần cải thiện khả năng thanh khoản và giảm tỷ lệ nợ xấu của NHTM; giúp các doanh nghiệp cải thiện tình hình tài chính, thoát khỏi nguy cơ phá sản, có điều kiện phục hồi và phát triển SXKD; giúp Nhà nước thu hồi được nợ thuế và nợ bảo hiểm xã hội tồn đọng; giúp người lao động có việc làm, cải thiện thu nhập và đời sống, qua đó giải quyết các vấn đề an sinh xã hội. Việc DATC hỗ trợ chuyển đổi DNNN bị âm vốn chủ sở hữu, không đủ điều kiện cổ phần hóa đã giúp Nhà nước thúc đẩy tiến trình cổ phần hóa DNNN, giảm chi phí ngân sách cho việc giải quyết lao động mất việc làm. Ngoài ra, hoạt động mua và xử lý nợ xấu của DATC góp phần hình thành thị trường mua bán nợ tại Việt Nam, hoạt động chuyển nợ góp vốn cổ phần và thoái vốn của DATC tại các doanh nghiệp đã cung cấp thêm sản phẩm tài chính cho thị trường chứng khoán Việt Nam. 2.4. Những hạn chế và nguyên nhân 2.4.1. Hạn chế - Nợ xấu do DATC mua và xử lý là quá ít. Nợ xấu do DATC mua và xử lý từ năm 2004 đến cuối năm 2013 chỉ ở mức 9.807,5 tỷ đồng là quá ít so với tổng nợ xấu của toàn hệ thống TCTD. - Biện pháp xử lý nợ xấu còn kém đa dạng. DATC sử dụng chủ yếu biện pháp đòi nợ trực tiếp và tái cơ cấu doanh nghiệp, biện pháp bán nợ và bán tài sản bảo đảm rất ít được sử dụng, không có biện pháp chứng khoán hóa và liên doanh với các nhà đầu tư trong và ngoài nước để xử lý nợ xấu. - Hoạt động tái cơ cấu doanh nghiệp còn hạn chế. Theo quy trình tái cơ cấu doanh nghiệp thì DATC thực hiện mua nợ trước, sau đó mới thỏa thuận với chủ sở hữu doanh nghiệp khách nợ thực hiện kiểm toán, xác định giá trị doanh nghiệp, tổ chức phê duyệt phương án tái cơ cấu doanh nghiệp. Điều này sẽ tạo ra rủi ro cho DATC nếu đã trót mua nợ nhưng khách nợ lại không đồng thuận các điều khoản tái cơ cấu doanh nghiệp do DATC đưa ra. Ngoài ra, DATC còn thiếu đội ngũ cán bộ có kỹ năng tái cơ cấu hoạt động doanh nghiệp. Đây là một trong những nguyên nhân dẫn đến tỷ lệ doanh nghiệp được DATC tái cơ cấu thành công chưa cao. - Quy định điều chỉnh lãi suất cho khách nợ chưa phù hợp. Việc DATC điều chỉnh lãi suất cho doanh nghiệp khách nợ theo lãi suất cho vay tín dụng đầu tư nhà nước của VDB là không phù 376
  5. HỘI THẢO "NGÂN HÀNG VIỆT NAM: BỐI CẢNH VÀ TRIỂN VỌNG" hợp. Khi lãi suất thị trường giảm mà VDB không điều chỉnh giảm lãi suất kịp thời sẽ làm cho chi phí tài chính của doanh nghiệp tái cơ cấu gia tăng, điều này đi ngược lại với mục tiêu hỗ trợ doanh nghiệp của DATC. - Lợi nhuận hoạt động mua bán nợ rất thấp. Nếu tính trên số vốn bình quân sử dụng cho hoạt động mua bán nợ 545,8 tỷ đồng/năm (từ năm 2004-2013) thì ROE của hoạt động mua bán nợ chỉ đạt 1,21%/năm, thấp hơn nhiều lãi suất tiền gửi tiết kiệm kỳ hạn 12 tháng trả lãi sau của các NHTM. 2.4.2. Nguyên nhân Một là, do mâu thuẫn giữa các mục tiêu hoạt động của DATC. Mục tiêu của DATC là mua xử lý nợ xấu của NHTM, hỗ trợ tái cơ cấu doanh nghiệp. Tuy nhiên, DATC lại được yêu cầu phải có hiệu quả kinh tế trong mỗi giao dịch mua bán nợ. Do mua và xử lý nợ xấu là hoạt động gặp rất nhiều rủi ro, dễ gây thua lỗ cho DATC. Yêu cầu phải có lãi trong mỗi giao dịch mua bán nợ làm cho DATC có xu hướng ngại rủi ro, chỉ chọn mua những khoản nợ có khả năng đem lại hiệu quả cho DATC. Điều này làm cho khối lượng nợ xấu mà DATC mua và xử lý trong thời gian qua là rất thấp so với nợ xấu của nền kinh tế. Hai là, thẩm quyền của DATC còn hạn chế, khung pháp lý cho hoạt động mua và xử lý nợ xấu của Việt Nam còn thiếu và chưa hoàn thiện. Kinh nghiệm về xử lý nợ xấu của các nước trên thế giới cho thấy, để xử lý nợ xấu thành công thì chính phủ cần phải có những cơ chế pháp lý đặc biệt trao cho các tổ chức xử lý nợ quốc gia và xây dựng khung pháp lý đồng bộ và nhất quán cho hoạt động mua bán nợ, tạo điều kiện cho thị trường mua bán nợ phát triển. Đối với DATC thì từ khi thành lập đến nay chưa được Chính phủ trao bất cứ thẩm quyền pháp lý đặc biệt nào trong hoạt động mua bán nợ. Sau khi mua lại nợ xấu thì quyền chủ nợ của DATC cũng tương tự như quyền của các chủ nợ trước đó là các NHTM, do vậy việc xử lý thu hồi nợ của DATC cũng gặp khó khăn như các NHTM, đặc biệt là xử lý tài sản bảo đảm, tái cơ cấu doanh nghiệp, chứng khoán hóa nợ xấu. Ba là, thiếu sự hợp tác xử lý nợ từ NHTM bán nợ và khách nợ. Với tâm lý ngại trách nhiệm do phải ghi nhận khoản lỗ khi bán nợ xấu với giá thấp nên nhiều NHTM chào bán các khoản nợ xấu với giá rất cao, có những khoản nợ có chất lượng rất xấu nhưng các NHTM chào bán với giá từ 80% đến 100% giá trị sổ sách của khoản nợ. Vì chất lượng nợ rất xấu, nên DATC có xu hướng trả giá mua nợ thấp, dẫn đến nhiều giao dịch mua bán nợ giữa NHTM với DATC không thành công. Đối với các doanh nghiệp có nợ xấu phải trả, do tâm lý sợ mất quyền lợi khi DATC tham gia kiểm soát hoạt động của doanh nghiệp thông qua hoạt động tái cơ cấu nên nhiều doanh nghiệp thiếu hợp tác với DATC. Đây là nguyên nhân dẫn đến quá trình tái cơ cấu doanh nghiệp của DATC bị kéo dài do không đạt được sự đồng thuận của khách nợ. Bốn là, chính sách mua và xử lý nợ của DATC còn bất cập, chậm được đổi mới. Về quy định phân cấp thẩm quyền quyết định mua và xử lý nợ của DATC còn hạn chế. Từ ngày 23/07/2011 đến nay, Tổng giám đốc của DATC không có thẩm quyền quyết định phương án mua và xử lý nợ, tất cả các phương án mua và xử lý nợ của DATC đều phải được trình Hội đồng quản trị phê duyệt. Để phê duyệt phương án mua và xử lý nợ, Hội đồng quản trị phải tổ chức lấy ý kiến từng thành viên theo chế độ luân chuyển hồ sơ qua từng thành viên, làm kéo dài thời gian quyết định mua và xử lý nợ của DATC. Theo quy định thì DATC không được phép cấp vốn mới cho doanh nghiệp tái cơ cấu, trong khi NHTM ngại cho vay tiếp đối với các doanh nghiệp này vì đã có lịch sử trả nợ không tốt. Vì vậy, để tìm kiếm nguồn vốn mới cho doanh nghiệp, DATC phải phối hợp với doanh nghiệp phát 377
  6. TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG hành cổ phần cho các nhà đầu tư chiến lược. Tuy nhiên, việc phát hành cổ phần cho nhà đầu tư chiến lược là không dễ dàng và tốn kém nhiều thời gian, dẫn đến việc tái cơ cấu doanh nghiệp không kịp thời, tỷ lệ thành công không cao. Năm là, DATC chưa có cơ chế khuyến khích các NHTM bán nợ xấu. Cơ chế mua nợ xấu mà DATC đã và đang áp dụng là mua đứt bán đoạn và không truy đòi, DATC không chia sẻ bất kỳ lợi ích nào cho NHTM sau khi việc thu hồi nợ của DATC có hiệu quả cao. Cơ chế mua nợ này không khuyến khích NHTM chuyển giao nhanh nợ xấu cho DATC. Sáu là, cơ cấu tổ chức quản lý của DATC còn bất cập. Mua nợ xấu và tái cơ cấu doanh nghiệp là hai hoạt động tách biệt, đòi hỏi cán bộ trong mỗi mảng hoạt động cần có kinh nghiệm, kỹ năng và chuyên môn khác nhau. Tuy nhiên, DATC chưa thành lập hai bộ phận chuyên biệt để thẩm định phương án mua nợ và triển khai tái cơ cấu doanh nghiệp. Đây là một trong những nguyên nhân dẫn đến hiệu quả tái cơ cấu doanh nghiệp của DATC không cao do cán bộ làm hoạt động mua nợ thiếu kỹ năng về tái cơ cấu doanh nghiệp. Hơn nữa, do phải đảm trách hoạt động tái cơ cấu doanh nghiệp nên các bộ phận mua nợ thiếu tập trung khai thác nợ xấu để mua, làm hạn chế giao dịch và khối lượng nợ xấu được mua bán giữa DATC và các NHTM. Bảy là, quy mô nguồn vốn của DATC còn hạn chế. Hiện tại DATC chưa sử dụng hết nguồn vốn để mua nợ xấu. Tuy nhiên, trong dài hạn, với quy mô vốn điều lệ 2.481 tỷ đồng thì DATC không đủ năng lực tài chính để mua lại những khoản nợ xấu có giá trị lớn của các NHTM trong lĩnh vực bất động sản, sản xuất quy mô lớn, đồng thời không đủ năng lực để giải quyết nhanh nợ xấu trong nền kinh tế. 3. Giải pháp hoàn thiện hoạt động mua và xử lý nợ xấu tại DATC 3.1. Giải pháp đối với hoạt động mua nợ 3.1.1. Cải thiện năng lực tài chính và tập trung vốn để mua nợ xấu Do quy mô hoạt động của DATC chưa lớn nên nguồn lực tài chính hiện tại của DATC có thể tài trợ đầy đủ cho hoạt động mua bán nợ xấu của nó. Tuy nhiên, với quy mô nợ xấu lớn trong nền kinh tế như hiện nay, nếu tham gia sâu hơn vào quá trình xử lý nợ xấu, tái cơ cấu doanh nghiệp thì DATC cần phải có một nguồn lực tài chính lớn hơn nhiều. Vì vậy, về lâu dài thì DATC cần phải tính đến phương án gia tăng quy mô nguồn vốn để mua nợ xấu. 3.1.2. Xây dựng chính sách mua nợ có chia sẻ lợi ích với bên bán nợ, tạo động lực để bên bán nợ chuyển giao nợ xấu Nhằm khuyến khích các NHTM có động lực bán nợ xấu, DATC nên nghiên cứu chính sách mua nợ có phân chia lợi ích với bên bán nợ. Theo cơ chế này, DATC đưa ra giá mua nợ hợp lý ban đầu và được bên bán nợ chấp thuận, sau đó DATC cam kết phân phối toàn bộ số tiền thu hồi nợ thực tế từ khách nợ như sau: DATC ưu tiên thu trước giá vốn mua nợ ban đầu cộng với chi phí xử lý thu hồi nợ và chi phí vốn của DATC. Số tiền thu hồi còn lại sẽ được phân chia cho DATC và bên bán nợ theo một tỷ lệ nhất định. 3.1.3. Chú trọng đánh giá các chỉ tiêu phi tài chính của khách nợ Để xác định được nguyên nhân dẫn đến hoạt động của doanh nghiệp khách nợ bị khó khăn, không trả được nợ vay ngân hàng đầy đủ và đúng hạn, DATC cần phải đánh giá thêm các chỉ tiêu phi tài chính của doanh nghiệp khách nợ như: nhà cung cấp, khách hàng, vấn đề kiện tụng liên quan khách nợ, sự tuân thủ trong sử dụng vốn vay, khả năng kiểm soát tình hình tài chính, kinh nghiệm và kỹ năng quản lý của ban lãnh đạo doanh nghiệp, rủi ro ngành nghề hoạt động. Việc đánh 378
  7. HỘI THẢO "NGÂN HÀNG VIỆT NAM: BỐI CẢNH VÀ TRIỂN VỌNG" giá kỹ các chỉ tiêu phi tài chính của doanh nghiệp khách nợ sẽ giúp DATC định giá mua nợ hợp lý hoặc từ chối mua nợ, hỗ trợ cho DATC những thông tin cần thiết để triển khai tái cơ cấu doanh nghiệp thành công, giúp doanh nghiệp có khả năng phục hồi nhanh, hoạt động có lợi nhuận, tăng khả năng thu hồi nợ và giảm thiểu rủi ro cho DATC. 3.2. Giải pháp đối với hoạt động xử lý nợ 3.2.1. Tập trung phân loại, xử lý thu hồi các khoản nợ đã mua Để giảm thiểu rủi ro, DATC cần phải tập trung phân loại, đánh giá lại khả năng thu hồi để có chính sách xử lý phù hợp với từng khoản nợ. Thứ nhất, đối với khách nợ có tình hình tài chính lành mạnh, kết quả SXKD tốt, thực hiện trả nợ đúng kế hoạch thì DATC cần duy trì thu nợ đối với nhóm khách nợ này nhằm mục đích tối đa hóa giá trị thu hồi. Thứ hai, đối với khách nợ có khả năng trả nợ nhưng tình hình tài chính chưa lành mạnh thì có thể áp dụng biện pháp miễn giảm lãi theo tiến độ trả nợ gốc nhằm tạo động lực cho khách nợ trả nợ nhanh cho DATC. Thứ ba, đối với khách nợ chây ỳ, thiếu thiện chí, không hợp tác trả nợ thì DATC cần kiên quyết áp dụng biện pháp khởi kiện ra Tòa án để buộc khách nợ trả nợ. Thứ tư, đối với các doanh nghiệp đã tái cơ cấu thành công, DATC cần nhanh chóng phối hợp với doanh nghiệp đủ điều kiện niêm yết cổ phiếu trên Sở giao dịch chứng khoán để thoái vốn. Trong trường hợp doanh nghiệp chưa đủ điều kiện niêm yết thì DATC có thể tìm kiếm nhà đầu tư để thoái vốn. Thứ năm, đối với các doanh nghiệp có thời gian tái cơ cấu kéo dài, kém hiệu quả thì DATC cần tăng cường tìm kiếm nhà đầu tư để bán nợ kèm thoái vốn để nhanh chóng thu hồi vốn. Thứ sáu, nhanh chóng hỗ trợ tái cơ cấu đối với các doanh nghiệp có tiềm năng phục hồi. 3.2.2. Đa dạng cách thức xử lý nợ Nhằm rút ngắn thời gian xử lý nợ và tối đa hóa giá trị thu hồi, DATC cần nghiên cứu, áp dụng các biện pháp xử lý nợ như sau: - Chia tách, sáp nhập doanh nghiệp. Đây là biện pháp nhằm loại bỏ những hoạt động kinh doanh yếu kém, tận dụng lợi thế về vốn, thị trường, thương hiệu sản phẩm .. của mỗi doanh nghiệp riêng lẻ để sáp nhập thành một doanh nghiệp mạnh hơn, gia tăng giá trị doanh nghiệp - Lấy tài sản để trừ nợ, sau đó sửa chữa và nâng cấp tài sản để bán lại hoặc cho thuê, liên doanh khai thác. - Chứng khoán hóa nợ xấu. Trong điều kiện của Việt Nam hiện nay, do thị trường chứng khoán chưa phát triển, nhà nước chưa có quy định pháp lý điều chỉnh hoạt động chứng khoán hóa, thiếu minh bạch thông tin nên tại Việt Nam chưa có hoạt động chứng khoán hóa nợ xấu. Tuy nhiên, với định hướng là tổ chức xử lý nợ xấu chuyên nghiệp, DATC cần nghiên cứu việc xử lý nợ xấu thông qua biện pháp chứng khoán hóa, trên cơ sở đó kiến nghị Chính phủ xem xét ban hành những quy định pháp lý điều chỉnh hoạt động chứng khoán hóa nợ xấu, tạo tiền đề cho DATC xử lý nợ theo phương thức này. 3.2.3. Liên doanh với các nhà đầu tư nước ngoài để xử lý nợ Hiện tại, quy mô nợ xấu do DATC mua và xử lý còn rất thấp so với nợ xấu của nền kinh tế. Để có thể gia tăng xử lý nợ xấu cho các NHTM và phân tán rủi ro, DATC có thể lựa chọn giải pháp liên doanh với các nhà đầu tư nước ngoài để xử lý nợ xấu, đối tác liên doanh phải có tiềm lực tài chính và chuyên môn cao trong lĩnh xử lý nợ xấu. Điều này hoàn toàn khả thi vì Điều lệ tổ chức và hoạt động của DATC cho phép DATC được liên doanh, hợp tác với các tổ chức nước ngoài trong 379
  8. TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG lĩnh vực xử lý nợ xấu. Hơn nữa, trong nhiều năm nay, DATC đã hợp tác với KAMCO của Hàn Quốc để chia sẻ kiến thức và kinh nghiệm trong lĩnh vực xử lý nợ xấu. Đây là đối tác có tiềm lực tài chính, đã xử lý nợ xấu thành công trong giai đoạn khủng hoảng tài chính năm 1997 tại Hàn Quốc, có thể hỗ trợ tốt cho DATC trong kỹ thuật xử lý nợ xấu và xây dựng cơ chế, chính sách xử lý nợ xấu để kiến nghị Nhà nước ban hành. Ngoài ra, việc liên doanh với nhà đầu tư nước ngoài sẽ giúp cho DATC học hỏi được kiến thức và kinh nghiệm về hoạt động xử lý nợ xấu, thông qua đó DATC có điều kiện nâng cao chuyên môn và kỹ năng xử lý nợ xấu cho đội ngũ cán bộ của mình. 3.3. Giải pháp khác 3.3.1. Hoàn thiện cơ cấu tổ chức quản lý hoạt động mua và xử lý nợ Thứ nhất, trước mắt DATC nên thành lập bộ phận chuyên thực hiện nghiệp vụ tái cơ cấu doanh nghiệp. Bộ phận tái cơ cấu doanh nghiệp có trách nhiệm thiết lập các kế hoạch và chiến lược xử lý nợ cho doanh nghiệp tái cơ cấu, triển khai hoạt động tái cơ cấu tài chính, tái cơ cấu hoạt động và tái cơ cấu tổ chức của doanh nghiệp khách nợ. - Đối với tái cơ cấu tài chính doanh nghiệp: bộ phận tái cơ cấu doanh nghiệp sẽ hỗ trợ việc tìm kiếm nguồn tài trợ để bơm vốn mới cho các doanh nghiệp sắp phá sản hoạt động; cơ cấu lại nợ như gia hạn thời hạn thanh toán, giảm lãi suất, chuyển nợ xấu thành vốn góp nhằm giảm áp lực trả nợ cho doanh nghiệp, đàm phán với các chủ nợ khác để cơ cấu lại nợ và giảm lãi suất cho khách nợ. - Đối với tái cơ cấu hoạt động SXKD: bộ phận tái cơ cấu sẽ thực hiện thanh lý những tài sản không sinh lời của khách nợ để thu hồi nợ, tập trung vào hoạt động kinh doanh cốt lõi; hỗ trợ doanh nghiệp tổ chức lại quá trình SXKD như: tìm kiếm nguồn cung cấp vật liệu đầu vào với giá rẻ hơn và chất lượng tốt hơn, đa dạng hóa nhà cung cấp nguyên liệu đầu vào để tránh sự phụ thuộc của doanh nghiệp vào nhà cung cấp; mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm và đa dạng hóa khách hàng để tăng trưởng doanh thu, tránh sự phụ thuộc của doanh nghiệp đối với khách hàng; đầu tư đổi mới công nghệ, cắt giảm chi phí hoạt động, gia tăng lợi nhuận và tối đa hóa giá trị doanh nghiệp. - Đối với tái cơ cấu tổ chức quản lý của doanh nghiệp: bộ phận tái cơ cấu sẽ hỗ trợ sửa đổi các quy trình, quy chế quản trị và hoạt động của doanh nghiệp, tìm kiếm nhân sự hoặc đề xuất cử cán bộ đảm trách các vị trí quản lý tại doanh nghiệp từ giám đốc cho đến trưởng, phó các phòng ban để kiểm soát hoạt động, nâng cao hiệu quả quản trị, điều hành của doanh nghiệp. Thứ hai, tăng cường giám sát hoạt động của các doanh nghiệp được tái cơ cấu. Cơ chế giám sát có thể thực hiện bằng cách DATC cử cán bộ giám sát doanh nghiệp ngay sau khi mua nợ thông qua thỏa thuận với doanh nghiệp; tuyển dụng các chuyên gia có kiến thức, kinh nghiệm trong lĩnh vực hoạt động của doanh nghiệp, sau đó bổ nhiệm các chuyên gia này giữ các vị trí chủ chốt tại doanh nghiệp để phối hợp với DATC triển khai tái cơ cấu, điều hành doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả. Trong trường hợp cần thiết, DATC có thể bổ nhiệm cán bộ của DATC nắm giữ các vị trí cấp phó, trưởng phòng ban của doanh nghiệp để tăng cường giám sát hoạt động của doanh nghiệp trong suốt quá trình tái cơ cấu. Sau khi doanh nghiệp phục hồi, DATC cần tính đến phương án thoái vốn và bán nợ, chuyển giao quyền quản lý, sở hữu doanh nghiệp cho các nhà đầu tư khác và rút cán bộ của mình để phục vụ tái cơ cấu doanh nghiệp khác. Thứ ba, thành lập bộ phận thẩm định để thẩm định các phương án mua nợ. Trong hoạt động mua bán nợ xấu, DATC phải bỏ tiền ra trước để mua nợ và thu hồi dần khoản tiền đó trong nhiều năm, cho nên hoạt động mua bán nợ xấu của DATC được xem là hoạt động đầu tư dài hạn, gặp nhiều rủi ro. Để giảm thiểu rủi ro trong hoạt động mua nợ và gia tăng hoạt động khai thác, mua nợ 380
  9. HỘI THẢO "NGÂN HÀNG VIỆT NAM: BỐI CẢNH VÀ TRIỂN VỌNG" xấu của Phòng mua bán nợ của Hội sở chính thì DATC cần phải thành lập bộ phận chuyên thẩm định phương án mua nợ tại Hội sở chính, các Chi nhánh và Trung tâm. 3.3.2. Phân công, phân cấp thẩm quyền quyết định mua và xử lý nợ Để đẩy nhanh thời gian quyết định mua và xử lý nợ, gắn trách nhiệm của Ban Giám đốc và các đơn vị thành viên trong hoạt động mua bán nợ, Hội đồng quản trị DATC cần phân cấp mức phán quyết mua nợ và xử lý nợ cho Ban Giám đốc và các đơn vị trực thuộc, theo đó Ban Giám đốc của DATC và các đơn vị thành viên có thể được quyền quyết định mua và xử lý nợ theo một mức giá trị tối đa trên mỗi phương án. 3.3.3. Sửa đổi, hoàn thiện quy trình tái cơ cấu doanh nghiệp DATC cần sửa đổi quy trình tái cơ cấu doanh nghiệp dựa trên nguyên tắc: DATC chỉ mua nợ sau khi doanh nghiệp khách nợ đã đáp ứng các điều kiện tái cơ cấu do DATC đưa ra như kiểm toán, xác định giá trị doanh nghiệp, phê duyệt phương án tái cơ cấu doanh nghiệp do DATC đề xuất, nếu doanh nghiệp khách nợ không hợp tác hoặc không thỏa mãn các yêu cầu của DATC thì DATC từ chối mua nợ. Ngoài ra, đối với các trường hợp tái cơ cấu doanh nghiệp thì trước khi quyết định mua nợ, DATC phải thực hiện đàm phán toàn diện với tất cả các chủ nợ về giá bán nợ, cơ cấu lại nợ, giảm lãi suất, xóa nợ, chuyển nợ góp vốn. Kết quả đàm phán phải được ghi thành văn bản để ràng buộc trách nhiệm của các chủ nợ khi DATC thực hiện phương án tái cơ cấu doanh nghiệp. Nếu việc này được thực hiện sẽ có lợi cho doanh nghiệp tái cơ cấu và DATC, bởi vì gánh nặng nợ nần của doanh nghiệp sẽ được các chủ nợ cùng chia sẻ, DATC giảm bớt tổn thất khi phải một mình gánh vác việc xóa nợ cho doanh nghiệp, tránh việc các chủ nợ khác tranh tụng đòi nợ doanh nghiệp. 4. Kết luận Thực trạng nợ xấu của các NHTM ở mức cao đang được Chính phủ, NHNN, các Bộ ngành quan tâm. Nợ xấu với quy mô lớn và tồn tại lâu trong hệ thống NHTM làm cho tình hình tài chính của NHTM yếu kém, làm tắt nghẽn dòng vốn tín dụng trong nền kinh tế, gây đình đốn hoạt động SXKD của doanh nghiệp, có thể dẫn đến khủng hoảng tài chính. Vì vậy, việc xử lý nợ xấu trở nên cấp bách, đòi hỏi cần có sự tham gia của Chính phủ, NHNN, các Bộ ngành, NHTM, các chủ thể khác trong nền kinh tế. DATC là công cụ của Chính phủ nhằm thực hiện nhiệm vụ mua và xử lý nợ xấu của các NHTM, hỗ trợ tái cơ cấu doanh nghiệp để phục hồi SXKD. Qua hơn mười năm hoạt động, DATC đã có những thành công nhất định trong hoạt động mua và xử lý nợ xấu. Tuy nhiên, hoạt động mua và xử lý nợ của DATC vẫn còn những hạn chế nhất định. Để góp phần làm giảm nhanh tỷ lệ nợ xấu của Việt Nam, hỗ trợ phục hồi doanh nghiệp, vấn đề đặt ra đối với DATC là thực hiện các giải pháp: hoàn thiện cơ cấu tổ chức quản lý; gia tăng nguồn lực tài chính; sửa đổi, bổ sung cơ chế chính sách đang hạn chế hoạt động mua và xử lý nợ. Về lâu dài, nhà nước cần phải hoàn thiện khung pháp lý để phát triển thị trường mua bán nợ, tạo điều kiện cho các công ty mua bán nợ tham gia vào quá trình xử lý nợ xấu của nền kinh tế, áp dụng các kỹ thuật xử lý nợ hiện đại như chứng khoán hóa nợ xấu, tái cơ cấu, chia tách, mua bán và sáp nhập doanh nghiệp. 381
  10. TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] Ths. Phan Hoài Hiệp (2012), “Trả giá vì chậm phản ứng nợ xấu, bài học từ Nhật Bản”, Tạp chí Đầu tư chứng khoán, 145(1241), tr. 22-23. [2] PGS.TS Đào Duy Huân (2013), “Hiện trạng thị trường mua bán nợ Việt Nam và chính sách phát triển”, Tạp chí Phát triển và Hội nhập, 8(18), tr. 21-26. [3] PGS.TS Tô Ngọc Hưng (2012), “Kinh nghiệm xử lý nợ xấu của một số quốc gia và những bài học cho Việt Nam”, Tạp chí Khoa học đào tạo ngân hàng, (125), tr. 60-70. [4] PGS.TS Nguyễn Thị Mùi (2012), “Thực trạng nợ xấu tại các ngân hàng Việt Nam và giải pháp tháo gỡ”, Tạp chí Tài chính, (11), tr. 6-12. [5] Ngân hàng thế giới (2013), Điểm lại cập nhật tình hình kinh tế Việt Nam, Ngân hàng thế giới tại Việt Nam, Hà Nội. [6] Quỹ tín thác ASEM II (2006), Dự án hỗ trợ xử lý nợ và tài sản tồn đọng của doanh nghiệp, Hà Nội. [7] Quyết định số 109/2003/QĐ-TTg ngày 05/6/2003 của Thủ tướng chính phủ về việc Thành lập Công ty Mua bán nợ và tài sản tồn đọng của doanh nghiệp. [8] Quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN của Ngân hàng nhà nước về việc ban hành qui định về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng của các tổ chức tín dụng ngày 22/04/2005. [9] Quyết định số 59/2006/QĐ-NHNN ngày 21/12/2006 của Ngân hàng nhà nước về việc ban hành Quy chế mua, bán nợ của các tổ chức tín dụng. [10] Quyết định số 1494/QĐ-BTC ngày 30/6/2010 của Bộ Tài chính về việc phê duyệt đề án chuyển đổi Công ty Mua bán nợ và tài sản tồn đọng của doanh nghiệp thành Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên Mua bán nợ Việt Nam. [11] TS. Nguyễn Thị Kim Thanh (2012), “Lựa chọn mô hình xử lý nợ xấu ở Việt Nam”, Tạp chí Tài chính, (11), tr. 14-20. [12] Ths Phạm Mạnh Thường (2005), “Xử lý nợ tồn đọng doanh nghiệp thúc đẩy tái cơ cấu kinh tế: Kinh nghiệm Hàn Quốc và bài học với Việt Nam”, Tạp chí Những vấn đề kinh tế chính trị thế giới, 10(114), tr. 23-37. [13] Thông tư số 38/2006/TT-BTC ngày 10/5/2006 của Bộ Tài chính về việc hướng dẫn trình tự, thủ tục xử lý tài chính đối với hoạt động mua, bán, bàn giao, tiếp nhận, xử lý nợ và tài sản tồn đọng của doanh nghiệp. [14] Thông tư số 79/2011/TT-BTC ngày 08/6/2011 của Bộ Tài chính về việc Ban hành Điều lệ tổ chức và hoạt động của Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên Mua bán nợ Việt Nam. [15] Ủy ban kinh tế của Quốc hội (2013), Báo cáo kinh tế vĩ mô năm 2013, Nhà xuất bản Tri thức, Hà Nội. [16] Anthony Saunders, Marcia Millon Cornett (2007), Financial Institutions Management, McGraw-Hill, USA. [17] Dong He (2004), “The Role of KAMCO in Resolving Nonperforming Loans in the Republic of Korea”, IMF working paper No 04/72, International Monetary Fund. [18] Mark R.Stone (2002), Corporate sector Restructuring, The Role of Government in Times of Crisis, Economic issues No.31, International Monetary Fund. [19] Organization for Co-operation and Development - OECD (2003), Maximising Value of Non- Pe. 382
nguon tai.lieu . vn