Xem mẫu

  1. VẤN ĐỀ BẢN QUYỀN TRONG XÂY DỰNG TRUNG TÂM TRI THỨC SỐ Đinh Thúy Quỳnh* 1 Tóm tắt: Ngày nay, sự phát triển khoa học công nghệ nói chung và công nghệ thông tin nói riêng đã làm thay đổi mọi mặt của đời sống xã hội. Hoạt động thông tin – thư viện cũng không nằm ngoài vòng xoáy đó. Công nghệ thông tin đã làm thay đổi cả về chất và lượng của hoạt động thông tin – thư viện. Điển hình là sự chuyển mình của các thư viện từ thư viện truyền thống sang thư viện điện tử, thư viện số và tiến tới là Trung tâm Tri thức số. Tuy nhiên, thách thức trong việc xây dựng các trung tâm này đó là vấn đề bản quyền. Bài viết giới thiệu về sự thay đổi của hoạt động thông tin - thư viện dưới tác động của công nghệ thông tin, những vấn đề liên quan đến bản quyền và một số ý kiến nhằm đảm bảo thực thi bản quyền trong xây dựng Trung tâm Tri thức số ở Việt Nam. Từ khoá: Trung tâm Tri thức số; Bản quyền. 1. SỰ TÁC ĐỘNG CỦA CÔNG NGHỆ TỚI THƯ VIỆN Thư viện xuất hiện từ rất sớm, ngay khi loài người có nhu cầu lưu giữ thông tin. Thư viện được coi là đền đài của văn hoá và sự uyên thâm. Tuy nhiên, hình ảnh thư viện trước đây đơn giản chỉ là nơi tàng trữ hàng ngàn cuốn tài liệu được sắp xếp theo khổ cỡ và cất kỹ trong những kho kín của thư viện. Muốn tiếp cận được chúng, bắt buộc bạn đọc phải đến thư viện, phải khai thác thông qua các sản phẩm - dịch vụ thư viện mang tính thủ công và phải có sự hỗ trợ của thủ thư. Mặc dù, cùng với năm tháng và sự tiến bộ của nhân loại, các sản phẩm - dịch vụ thư viện đã có những cải tiến song về cơ bản vẫn truyền thống, đơn * Thạc sĩ, Khoa Thông tin Thư viện, Trường Đại học Văn hóa Hà Nội.
  2. PHÁT TRIỂN MÔ HÌNH TRUNG TÂM TRI THỨC SỐ CHO CÁC THƯ VIỆN VIỆT NAM 392 giản và nhiều hạn chế. Bạn đọc vẫn bị gò bó trong một khoảng không gian và thời gian nhất định. Và bản thân mỗi thư viện cũng chỉ là một “ốc đảo” tách biệt, không có sự liên thông, phối hợp với các thư viện khác để tạo thành một mạng lưới liên kết. Sự phát triển của khoa học công nghệ nói chung và sự ra đời của máy tính điện tử với dung lượng bộ nhớ tưởng chừng không hạn chế, khả năng tính toán cực nhanh và hầu như không bao giờ nhầm lẫn nói riêng đã mở ra hướng đi mới, đầy triển vọng cho hoạt động thông tin – thư viện. Việc sử dụng kỹ thuật số để biểu diễn thông tin đã dẫn đến sự xuất hiện của một loại hình tài liệu mới, đó là tài liệu số hoá. Cho đến nay, đã có không ít định nghĩa về tài liệu số hoá được đưa ra. Điểm chung của các định nghĩa này đều cho rằng: tài liệu số hoá là tài liệu mà thông tin chứa đựng trong đó đã được biểu diễn dưới dạng mã nhị phân, tức là mã chỉ gồm hai số 0 và 1. Nói cách khác, tài liệu số hoá là tất cả những thông tin được lưu trữ dưới dạng số, được xử lý, lưu trữ và truy cập trên máy tính, hay trên mạng máy tính. Tài liệu số hóa có những đặc trưng: - Mật độ thông tin của tài liệu số hoá rất lớn. - Thông tin chứa trong tài liệu số hoá luôn mới vì có thể được cập nhật nhanh chóng, thường xuyên và kịp thời với một mức chi phí hợp lý và thao tác không quá phức tạp, chiếm nhiều thời gian và công sức. - Tài liệu số hoá có khả năng được truy cập theo nhiều dấu hiệu khác nhau, bởi nhiều người dùng ở cùng một thời điểm mà không bị giới hạn về thời gian hay vị trí địa lý. - Tài liệu số hoá có thể lưu trữ thông tin theo nhiều định dạng khác nhau: văn bản, hình ảnh, âm thanh, video… - Tài liệu số hoá tạo ra một kênh thông tin phản hồi đa chiều, giúp người dùng tin có thể liên hệ trực tiếp với tác giả hay người tổ chức nguồn tin (thường được biết đến với vai trò quản trị viên hay Admin của nguồn tin), cũng như hỗ trợ người dùng tin tham gia vào các diễn đàn học thuật để trao đổi thông tin và chia sẻ cảm nhận với những người dùng tin khác.
  3. VẤN ĐỀ BẢN QUYỀN TRONG XÂY DỰNG Trung tâm Tri thức số 393 Chính với những đặc trưng nổi trội nói trên, tài liệu số hóa đang là nguồn tài liệu mà các thư viện hướng tới phát triển. Bởi thực tế đã chỉ ra rằng một cơ quan thông tin – thư viện riêng lẻ chắc chắn sẽ không có đủ khả năng để bổ sung tài liệu một cách đầy đủ và toàn diện cũng như đến một lúc nào đó không có đủ diện tích để lưu giữ và bảo quản mọi nguồn tin họ có, nếu như họ chỉ liên tục bổ sung một loại hình tài liệu duy nhất là tài liệu in ấn. Liên kết, hợp tác và tiến tới xây dựng hệ thống dữ liệu số lớn chính là giải pháp tất yếu mà các thư viện hướng tới. Nếu như trước đây, quản lý tư liệu là mục tiêu hướng tới của các thư viện truyền thống, thì trong thời đại thông tin như hiện nay, khi nền tảng của xã hội chính là dựa trên sản xuất, xử lý, lưu trữ, phổ biến, truy cập, sử dụng thông tin và tri thức dưới mọi hình thức, dựa trên hạ tầng cơ sở viễn thông phát triển thì quan niệm này đã thay đổi. Quản lý thông tin và quản lý tri thức mới chính là kim chỉ nam của các thư viện. Cùng xuất phát từ ý định ban đầu là làm tốt công việc lưu trữ và bảo quản nhưng thư viện ngày nay đã chú trọng đến người sử dụng, coi người sử dụng là trung tâm với sự nhấn mạnh đến việc trao đổi thông tin. Và Trung tâm Tri thức số đang dần được hình thành và phát triển. Cuộc cách mạng thông tin không những cung cấp năng lực công nghệ về lưu trữ, tổ chức và truy cập thông tin hướng đến Trung tâm Tri thức số mà còn đáp ứng một nhu cầu chưa từng có về kết nối, cộng tác và chia sẻ tri thức. Nhiều người vẫn cho rằng Trung tâm Tri thức số chính là thư viện số. Bởi thư viện số là một hệ thống thông tin cho phép bổ sung, lưu trữ, bảo quản, tìm kiếm, truy cập và khai thác các nguồn thông tin có sẵn dưới dạng số. Tuy nhiên, đây là một quan niệm chưa hoàn toàn chính xác. Trung tâm Tri thức số là một nền tảng tập trung, có thể tìm kiếm, lưu trữ nhiều loại tệp và sử dụng trí thông minh nhân tạo để giúp người dùng nhanh chóng và dễ dàng tìm thấy thông tin họ cần. Không những vậy, nó còn cho phép các thành viên tham gia có thể kết nối, cộng tác, giao tiếp và chia sẻ kiến thức với nhau. Công nghệ của Trung tâm Tri thức số là công cụ hỗ trợ cho các tổ chức, cá nhân ở khắp mọi nơi chia sẻ thông tin và học hỏi lẫn nhau. Đây chính là không gian linh hoạt có thể được sử dụng cho nhiều mục đích khác nhau.
  4. PHÁT TRIỂN MÔ HÌNH TRUNG TÂM TRI THỨC SỐ CHO CÁC THƯ VIỆN VIỆT NAM 394 Những lợi ích mà Trung tâm Tri thức số có thể mang lại: • Khám phá tri ​​thức để thực hiện tốt công việc o Luôn cập nhật tư duy hiện tại. o Nâng cao kỹ năng và chuyên môn. o So sánh và chia sẻ thông tin và dữ liệu. • Kết nối với các thành viên và các chuyên gia trong mạng lưới o Phát triển và duy trì kiến ​​thức chuyên môn. o Chia sẻ những gì hiệu quả với những người khác. o Tạo mạng lưới và cộng tác với các thành viên. • Tiết kiệm thời gian và tiền bạc o Có thể trao đổi với các thành viên khác trên toàn cầu ngay tại bàn làm việc của mình. o Tiết kiệm hàng giờ nghiên cứu bằng cách học hỏi từ những người khác. o Các nguồn tài nguyên phong phú. • Tạo và phát triển các ý tưởng o Truyền cảm hứng cho sự đổi mới. o Tạo ra những cách làm việc mới. o Học hỏi từ các nhà lãnh đạo trong lĩnh vực của mình. • Tăng cường các mối quan hệ o Tạo quan hệ với thành viên. o Xây dựng các mối quan hệ mới. Như vậy, Trung tâm Tri thức số chính là nơi giúp thay đổi cách làm việc và kết nối của mọi người trong tổ chức bằng cách thúc đẩy văn hóa cộng tác theo hướng kỹ thuật số, phá vỡ các lỗ hổng, chia sẻ kiến ​​thức hiệu quả hơn và thành công hơn. 2. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ BẢN QUYỀN Ở VIỆT NAM 2.1. Quyền sở hữu trí tuệ và bản quyền Quyền Sở hữu trí tuệ được hiểu là quyền sở hữu kết quả sáng tạo của cá nhân trên cơ sở pháp luật, trong đó quyền của chủ thể sáng tạo được độc quyền trong thời hạn nhất định khi chiếm hữu, sử dụng,
  5. VẤN ĐỀ BẢN QUYỀN TRONG XÂY DỰNG Trung tâm Tri thức số 395 định đoạt sản phẩm trí tuệ do mình tạo ra. Các đối tượng được nhà nước bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ bao gồm: (1) Quyền tác giả hay còn gọi là bản quyền (Tác phẩm văn học, nghệ thuật và tác phẩm khoa học; đối tượng liên quan đến quyền tác giả như: cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình, chương trình phát sóng tín hiệu vệ tinh mang chương trình được mã hoá); (2) Quyền sở hữu công nghiệp (Sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý, bí mật kinh doanh, tên thương mại, thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn); (3) Quyền đối với giống cây trồng (Giống cây trồng và vật liệu nhân giống). Ở Việt Nam, mỗi đối tượng sở hữu trí tuệ này được quản lý bởi các cơ quan khác nhau: Đối tượng (1) được quản lý bởi Cục Bản quyền tác giả - Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch; Đối tượng (2) được quản lý bởi Cục Sở hữu trí tuệ (SHTT) - Bộ Khoa học và Công nghệ; Đối tượng (3) được quản lý bởi Cục Trồng trọt - Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn. Bản quyền là một trong 3 đối tượng của quyền sở hữu trí tuệ. Bản quyền là quyền của tổ chức, cá nhân đối với tác phẩm do mình sáng tạo ra hoặc sở hữu nhằm bảo vệ các quyền lợi cá nhân và lợi ích kinh tế của tác giả trong mối liên quan với tác phẩm của họ, ngăn chặn hành vi sao chép, hành vi mạo danh, phổ biến, chuyển nhượng bất hợp pháp tác phẩm. Bản quyền bao gồm: quyền nhân thân và quyền tài sản đối với tác phẩm (Điều 18, Điều 19, Điều 20 Luật Sở hữu trí tuệ): 1. Quyền Nhân thân: Đặt tên cho tác phẩm; Đứng tên thật hoặc bút danh trên tác phẩm; Được nêu tên thật hoặc bút danh khi tác phẩm được công bố, sử dụng; Công bố tác phẩm hoặc cho phép người khác công bố tác phẩm; Bảo vệ sự toàn vẹn của tác phẩm, không cho người khác sửa chữa, cắt xén hoặc xuyên tạc tác phẩm dưới bất kỳ hình thức nào, gây phương hại đến danh dự và uy tín của tác giả. 2. Quyền tài sản: Làm  tác phẩm phái sinh; Biểu diễn tác phẩm trước công chúng; Sao chép tác phẩm; Phân phối, nhập khẩu bản gốc hoặc bản sao tác phẩm; Truyền đạt tác phẩm đến công chúng bằng phương tiện  hữu tuyến,  vô tuyến,  mạng thông tin điện tử  hoặc bất kỳ phương tiện kỹ thuật nào khác; Cho thuê bản gốc hoặc bản sao tác phẩm điện ảnh, chương trình máy tính.
  6. PHÁT TRIỂN MÔ HÌNH TRUNG TÂM TRI THỨC SỐ CHO CÁC THƯ VIỆN VIỆT NAM 396 2.2. Một số văn bản pháp luật liên quan đến bản quyền ở Việt Nam Trên thế giới, vấn đề bản quyền được đề cập đến từ thế kỷ XVIII với sự ra đời các đạo luật về bản quyền như Đạo luật “Statue of Anne” của Anh có hiệu lực từ tháng 10/1710. Đây là luật Bản quyền đầu tiên trên thế giới, đưa ra hai quyền cơ bản: Tác giả có độc quyền những tác phẩm của mình và độc quyền đó được bảo vệ trong một khoảng thời gian nhất định. Sau đó là các đạo luật về bản quyền của Đan Mạch (1741), Pháp (1791), Mỹ (1795), Đức (1845), … Ở Việt Nam, bắt đầu từ Hiến pháp 1980, bản quyền mới được công nhận là một trong những quyền cơ bản của công dân. Vào năm 1986, Nghị quyết số 142/HĐBT ban hành ngày 14/11/1986 của Hội đồng Bộ trưởng có quy định 8 điều liên quan đến bảo hộ bản quyền như quy định về tác giả, về các loại tác phẩm được bảo hộ, các quyền lợi tinh thần và vật chất của tác giả, thời hạn bảo hộ quyền tác giả… Đến Hiến pháp năm 1992, Bộ luật Dân sự năm 1995, vấn đề bảo hộ bản quyền được chính thức ghi nhận. Sau đó bản quyền được hoàn thiện dần với các nội dung ngày càng đầy đủ, cụ thể hơn trong các văn bản pháp luật về bản quyền như Luật Sở hữu trí tuệ, các Nghị định, Thông tư,… do các cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam ban hành. Từ 1997 trở đi, Việt Nam đã ký kết một số điều ước quốc tế liên quan đến bản quyền. Các điều ước quốc tế này đã tạo ra một hành lang pháp lý vững chắc, an toàn trong lĩnh vực bảo hộ bản quyền ở Việt Nam phù hợp với các chuẩn mực và thông lệ quốc tế. Theo thống kê, Cục Bản quyền tác giả đã chủ trì và phối hợp với các tổ chức, cơ quan tổ chức nghiên cứu, xây dựng và trình các cấp có thẩm quyền ban hành trên 30 loại văn bản quy phạm pháp luật, với tổng số trên 620 điều luật trong đó có 226 Điều luật hiện tại đang có hiệu lực thi hành trên phạm vi cả nước. Những điều luật này đã được ghi nhận tại các văn bản pháp luật từ các quy định tại Hiến pháp, Bộ luật Dân sự, Luật Hành chính, Bộ luật Hình sự, Luật Sở hữu trí tuệ, các luật chuyên ngành báo chí, xuất bản, điện ảnh, di sản, quảng cáo, hải quan cùng các Chỉ thị, Nghị định và các Thông tư như:
  7. VẤN ĐỀ BẢN QUYỀN TRONG XÂY DỰNG Trung tâm Tri thức số 397 Luật Sở hữu trí tuệ được Quốc hội Việt Nam thông qua ngày 29 tháng 11 năm 2005, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2006 và được sửa đổi năm 2009, gồm 6 phần, 18 chương và 222 điều. Trong đó, phần thứ hai: Quyền tác giả và quyền liên quan đã đề cập đến các quy định về điều kiện bảo hộ; nội dung, giới hạn quyền, thời hạn bảo hộ, chủ sở hữu, chuyển giao; chứng nhận đăng ký; tổ chức đại diện, tư vấn, dịch vụ về quyền tác giả và quyền liên quan; Bộ luật Hình sự năm 1999, Điều 131 - quy định việc xử phạt các hành vi vi phạm về quyền tác giả; Luật Di sản văn hóa số 28/2001/QH10, Điều 4, Điều 5, Điều 8, Điều 23 quy định về Quyền tác giả và quyền liên quan; Bộ luật Dân sự 2005 (sửa đổi năm 2009), Điều 736, Điều 743 quy định về Quyền tác giả và quyền liên quan; Nghị định số 100/2006/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Bộ luật Dân sự, Luật SHTT và quyền tác giả; Nghị định số 105/2006/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật SHTT về bảo vệ quyền SHTT và quản lý nhà nước về SHTT; Nghị định số 47/2009/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính về QTG, quyền liên quan. Các văn bản pháp luật nêu trên được Việt Nam ban hành và thường xuyên sửa đổi phù hợp với tình hình thực tế, nhằm góp phần bảo hộ thành quả lao động sáng tạo của tác giả đối với tác phẩm. Bên cạnh các văn bản quy phạm pháp luật, Việt Nam còn tham gia ký kết 8 Điều ước quốc tế song phương và đa phương về quyền tác giả, quyền liên quan, trong đó bao gồm: - 05 Công ước và Hiệp ước quốc tế gồm: Công ước Berne về bảo hộ các tác phẩm văn học - nghệ thuật (2004), Công ước Genever về bảo hộ nhà sản xuất bản ghi âm (2005), Công ước Brussel liên quan đến việc phân phối tín hiệu mang chương trình truyền qua vệ tinh (2006), Công ước Rome về bảo hộ người biểu diễn, nhà sản xuất bản ghi âm, tổ chức
  8. PHÁT TRIỂN MÔ HÌNH TRUNG TÂM TRI THỨC SỐ CHO CÁC THƯ VIỆN VIỆT NAM 398 phát sóng (2007), Hiệp định TRIPs về các khía cạnh thương mại của quyền sở hữu trí tuệ (2007) đã lần lượt có hiệu lực tại Việt Nam. Trong đó Công ước Berne có hiệu lực trước tiên vào ngày 26/4/2004. Hiệp định TRIPs có hiệu lực ngày 11 tháng 01 năm 2007 cùng thời điểm Việt Nam là thành viên của WTO. - 03 điều ước quốc tế song phương gồm Hiệp định thiết lập quan hệ quyền tác giả, Hiệp định thương mại với Hoa Kỳ và Hiệp định bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ với Liên bang Thụy Sĩ cũng đã lần lượt có hiệu lực tại các quốc gia ký kết. Ngoài ra, tại các Hiệp định đa phương và song phương về kinh tế, thương mại, đầu tư, dịch vụ v.v… mà Việt Nam đã ký kết, tham gia cũng bao gồm các cam kết về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ, trong đó có quyền tác giả, quyền liên quan như Hiệp định đối tác kinh tế Việt Nam – Nhật Bản hoặc Hiệp định đối tác kinh tế xuyên Thái Bình Dương mà Việt Nam đang tham gia đàm phán cùng 8 quốc gia khác. Các Điều ước, Hiệp ước quốc tế và Hiệp định nêu trên có khoảng trên 200 điều luật, là những quy định về quyền và nghĩa vụ của các bên. Công dân và pháp nhân các quốc gia thành viên phải có nghĩa vụ khi khai thác các quyền tác giả, quyền liên quan của công dân và pháp nhân Việt Nam, ngược lại công dân và pháp nhân Việt Nam phải thực hiện nghĩa vụ pháp lý khi khai thác, sử dụng quyền tác giả, quyền liên quan của công dân và pháp nhân của các quốc gia thành viên liên quan. 3. VIỆC THỰC THI BẢN QUYỀN TRONG TRUNG TÂM TRI THỨC SỐ Ở VIỆT NAM Công nghệ số ra đời đã làm thay đổi sâu sắc và toàn diện cơ sở thông tin của xã hội. Với các thiết bị công nghệ số, dữ liệu thông tin được tạo lập nhanh chóng, lưu trữ lâu dài, phổ biến rộng rãi và sử dụng thuận tiện. Việc xây dựng Trung tâm Tri thức số không chỉ góp phần bảo tồn các di sản văn hoá, mà còn là nguồn lực thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển. Chính vì vậy, xây dựng Trung tâm Tri thức số đang là vấn đề mà các thư viện ở Việt Nam quan tâm. Tuy nhiên, vấn đề bản quyền trong Trung tâm Tri thức số cũng đang làm “đau đầu” của không chỉ tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả, cơ quan quản lý nhà nước mà cả những đơn vị muốn khai thác, sử dụng tác phẩm để số hoá một cách hợp pháp.
  9. VẤN ĐỀ BẢN QUYỀN TRONG XÂY DỰNG Trung tâm Tri thức số 399 Mặc dù hệ thống văn bản pháp luật liên quan đến bản quyền đã được ban hành khá chi tiết, đầy đủ và phù hợp với tình hình mới nhưng thực tế tỉ lệ vi phạm bản quyền ở Việt Nam vẫn khá cao. Theo số liệu năm 2017 của Cục Bản quyền Tác giả Văn học – Nghệ thuật, tỷ lệ vi phạm bản quyền ở Việt Nam rất cao (88%). Trong lĩnh vực công nghệ thông tin (CNTT), tỷ lệ vi phạm bản quyền phần mềm của Việt Nam ở mức 78% trong năm 2015 theo đánh giá của BSA (Liên minh phần mềm doanh nghiệp) và IDC (hãng nghiên cứu thị trường). Do vậy, trong bối cảnh hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng như hiện nay, là cơ quan có chức năng văn hóa, giáo dục, thông tin, giải trí, các thư viện ở Việt Nam càng cần phải có trách nhiệm bảo vệ và thực thi bản quyền khi xây dựng Trung tâm Tri thức số. Phần quan trọng nhất của Trung tâm Tri thức số là kho tài nguyên số. Thông thường, các kho này được tạo lập thông qua 3 hình thức sau: - Chuyển dạng nguồn tài nguyên dạng giấy có trong thư viện sang dạng số bằng phương pháp quét hoặc sử dụng các nguồn tài nguyên có sẵn ở dạng số. -  Bổ sung nguồn tài nguyên số thông qua việc mua bán, trao đổi với các nhà xuất bản, các đơn vị cung cấp tài liệu số. -  Xây dựng các liên kết đến các nguồn tài nguyên có trên Internet, nhất là nguồn của các cơ quan có cùng diện chuyên ngành. Trong đó, việc tự số hóa nguồn tài liệu dạng giấy để đưa vào kho tài nguyên số là rất quan trọng và có liên quan đến vấn đề bản quyền. Bản thân việc số hóa tài liệu không phải là hành vi sử dụng quyền tác giả và quyền liên quan, nhưng mục đích của việc số hóa lại có thể là hành vi sử dụng quyền theo quy định của Luật Sở hữu trí tuệ. Vì vậy, để đảm bảo quá trình xây dựng Trung tâm Tri thức số được tiến hành hợp pháp, việc xác định tài liệu dự kiến đưa vào kho tài nguyên số có phải là đối tượng của quyền tác giả và quyền liên quan theo quy định của pháp luật hay không là rất cần thiết. Theo quy định về bản quyền, tài liệu được chia thành 2 loại: • Tài liệu nằm ngoài bản quyền (Out-of-copyright)
  10. PHÁT TRIỂN MÔ HÌNH TRUNG TÂM TRI THỨC SỐ CHO CÁC THƯ VIỆN VIỆT NAM 400 - Tài liệu thuộc quyền sở hữu của Nhà nước như: văn bản pháp quy, số liệu thống kê, tài liệu thuộc lĩnh vực tư pháp. Luật Sở hữu trí tuệ Việt  Nam; Chương I, Mục 1, Điều 15 “Các  đối tượng không thuộc phạm vi bảo hộ quyền tác giả: 1. Tin tức thời sự thuần tuý đưa tin. 2. Văn bản quy phạm pháp luật, văn bản hành chính, văn bản khác thuộc lĩnh vực tư pháp và bản dịch chính thức của văn bản đó. 3. Quy trình, hệ thống, phương pháp hoạt động, khái niệm, nguyên lý, số liệu”. - Tài liệu đã thuộc về công chúng (Public domain): Tài liệu có bản quyền nhưng đã hết thời gian bảo hộ. Luật Sở hữu trí tuệ quy định rõ thời hạn bảo hộ đối với từng đối tượng: Thời hạn bảo hộ quyền công bố tác phẩm và các quyền tài sản đối với tác phẩm điện ảnh, nhiếp ảnh, mỹ thuật ứng dụng, tác phẩm khuyết danh là bảy mươi lăm năm, kể từ khi tác phẩm được công bố lần đầu tiên. Các loại hình tác phẩm khác có thời hạn bảo hộ là suốt cuộc đời tác giả và năm mươi năm tiếp theo năm tác giả chết; trong trường hợp tác phẩm có đồng tác giả thì thời hạn bảo hộ chấm dứt vào năm thứ năm mươi sau năm đồng tác giả cuối cùng chết. Thời hạn bảo hộ quyền liên quan là năm mươi năm tính từ năm tiếp theo năm cuộc biểu diễn được định hình, bản ghi âm, ghi hình được công bố hoặc định hình nếu chưa công bố, chương trình phát sóng được thực hiện. - Khi tác giả không tuân thủ nghiêm ngặt các điều khoản của Luật Bản quyền: Chẳng hạn như tác phẩm thuộc sự bảo hộ của Luật bản quyền nhưng tác giả đồng ý chuyển giao tác phẩm vào phạm vi công cộng và cho mọi người sử dụng tác phẩm với bất kỳ mục đích nào một cách vô điều kiện. Đối với các tài liệu nằm ngoài bản quyền, thư viện có thể tiến hành số hoá bất cứ khi nào có thể mà không cần đặt ra vấn đề xin phép sử dụng quyền tác giả, quyền liên quan. Tuy nhiên, trong suốt quá trình tiến hành số hoá, quyền nhân thân của tác giả đối với tác phẩm cần được tôn trọng, quyền nhân thân được bảo hộ vô thời hạn và không thể chuyển nhượng, do vậy trên các dữ liệu số hoá vẫn phải đảm bảo quyền đặt tên cho tác phẩm, quyền đứng tên trên tác phẩm, quyền bảo vệ sự toàn vẹn của tác phẩm… của tác giả tác phẩm gốc.
  11. VẤN ĐỀ BẢN QUYỀN TRONG XÂY DỰNG Trung tâm Tri thức số 401 • Tài liệu được bảo hộ theo Luật Bản quyền Các loại hình tác phẩm được bảo hộ quyền tác giả là tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học và các tác phẩm phái sinh của các loại hình tác phẩm này nếu không gây phương hại đến quyền tác giả đối với tác phẩm được dùng để làm tác phẩm phái sinh (Điều 14, Khoản (1), (2) Luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam 2005). Như vậy, theo quy định trên thì tất cả giáo trình, đề cương, bài giảng, sách tham khảo, sách chuyên khảo, các luận văn, luận án, các bài viết trên tạp chí và các tài liệu khác có trong thư viện đều là tác phẩm được bảo hộ theo Luật Bản quyền. Thư viện chỉ là chủ sở hữu đối với các cuốn sách cụ thể được lưu trữ trong thư viện. Tác giả viết các cuốn sách hay các tổ chức, cá nhân được tác giả chuyển nhượng quyền mới là chủ sở hữu quyền tác giả đối với các cuốn sách đó. Do đó, khi tiến hành số hóa các tài liệu này, về nguyên tắc, thư viện cần xin phép và thực hiện nghĩa vụ trả nhuận bút, thù lao cho tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả theo thoả thuận. Việc xin cấp phép sử dụng quyền tác giả và quyền liên quan hiện nay có thể thực hiện đơn giản và dễ dàng. Người sử dụng có thể theo các thông tin quản lý quyền có trên tác phẩm liên hệ trực tiếp với tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả đề được cấp phép, hoặc thông qua các tổ chức quản lý tập thể nếu tác giả, chủ sở hữu quyền đã ủy thác quyền cho các tổ chức này quản lý (điều 56 Luật Sở hữu trí tuệ). Tại Việt Nam, hiện đang có bốn tổ chức quản lý tập thể, gồm: Trung tâm Bảo vệ quyền tác giả âm nhạc Việt Nam- VCPMC, Trung tâm Quyền tác giả văn học Việt Nam - VLCC, Hiệp hội Công nghiệp ghi âm Việt Nam - RIAV, Hiệp hội Quyền sao chép Việt Nam - VIETRRO. Tuy nhiên, thực tế theo quy định về giới hạn và ngoại lệ trong cơ chế bảo hộ bản quyền, công chúng được tự do sử dụng trong một số trường hợp nhất định. Nếu hành vi số hoá tài liệu thuộc một trong các trường hợp mà Luật Sở hữu trí tuệ đã quy định tại điều 25, điều 33 thì người tiến hành số hóa không có nghĩa vụ xin phép, không phải trả tiền nhuận bút, thù lao, ví dụ: “a) Tự sao chép một bản nhằm mục đích nghiên cứu khoa học, giảng dạy của cá nhân; …
  12. PHÁT TRIỂN MÔ HÌNH TRUNG TÂM TRI THỨC SỐ CHO CÁC THƯ VIỆN VIỆT NAM 402 đ) Sao chép tác phẩm để lưu trữ trong thư viện với mục đích nghiên cứu;... g) Ghi âm, ghi hình trực tiếp buổi biểu diễn để đưa tin thời sự hoặc để giảng dạy; h) Chụp ảnh, truyền hình tác phẩm tạo hình, kiến trúc, nhiếp ảnh, mỹ thuật ứng dụng được trưng bày tại nơi công cộng nhằm giới thiệu hình ảnh của tác phẩm đó;” (Điều 25 Luật Sở hữu trí tuệ) Cần lưu ý các ngoại lệ này chỉ áp dụng đối với các tác phẩm đã được công bố, không thể áp dụng cho các tác phẩm chưa công bố và phải đảm bảo tuân thủ quy tắc “phép thử ba bước” (không được làm ảnh hưởng đến việc khai thác bình thường tác phẩm, không gây phương hại đến quyền lợi hợp pháp của tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả). Đối với các tài liệu không xác định rõ thời hạn bảo hộ bản quyền hay không xác định được tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả, người sử dụng cần cân nhắc những rủi ro về kinh tế và pháp lý có thể phát sinh để quyết định có tiến hành số hoá hay không. Ngoài ra, cũng có trường hợp có thể tiến hành số hoá tài liệu nhưng phải thoả mãn một số điều kiện mà chủ sở hữu bản quyền yêu cầu. 4. MỘT SỐ Ý KIẾN NHẰM ĐẢM BẢO THỰC THI VẤN ĐỀ BẢN QUYỀN TRONG TRUNG TÂM TRI THỨC SỐ Ở VIỆT NAM Việt Nam cần có một hành lang pháp lý đủ mạnh để vừa tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức, cá nhân tìm kiếm, xử lý, số hoá, bao gói, chuyển giao thông tin; vừa bảo vệ thiết thực bản quyền tác giả đối với các tác phẩm mà các cá nhân, tổ chức sở hữu. Cần nâng cao nhận thức cho cán bộ thư viện về sở hữu trí tuệ trong hoạt động thông tin – thư viện nói chung và xây dựng Trung tâm Tri thức số nói riêng. Cán bộ thư viện cần phải nắm vững và hiểu rõ những điều được làm và không được làm trong quá trình thu thập, tạo lập và khai thác kho dữ liệu số. Bản thân việc số hoá tài liệu không vi phạm bản quyền, việc vi phạm hay không phụ thuộc vào mục đích sử dụng và phạm vi sử dụng. Do đó,
  13. VẤN ĐỀ BẢN QUYỀN TRONG XÂY DỰNG Trung tâm Tri thức số 403 thư viện cần xác định rõ việc xây dựng Trung tâm Tri thức số chỉ nhằm một mục đích duy nhất là phục vụ cho việc giảng dạy, học tập và nghiên cứu khoa học. Tuyệt đối không sử dụng cho bất kỳ mục đích thương mại nào làm ảnh hưởng đến lợi ích kinh tế của người nắm giữ bản quyền. Tuyệt đối không được cung cấp và phục vụ sản phẩm, dịch vụ số hóa loại tài liệu được bảo hộ theo luật bản quyền trên mạng Internet. Khi tiến hành số hóa tài liệu, thư viện cần xác định được trạng thái bản quyền của tác phẩm và phương thức sử dụng tác phẩm. Đối với tài liệu mà thư viện được tặng bởi người có quyền tác giả, thì thư viện có thể tiến hành số hoá, tuy nhiên cần phải yêu cầu người tặng cung cấp cho mình quyền được số hoá tài liệu (có thể bằng một bản chuyển nhượng có ghi “quyền sử dụng tác phẩm với bất kỳ mục đích chung của thư viện, dưới bất kỳ phương tiện nào”). Đối với các tài liệu khác, thư viện có thể dùng phương thức “sử dụng hợp lý” để cung cấp cho người sử dụng dịch vụ đọc bản số hóa trong hệ thống mạng nội bộ. Mặc dù pháp luật về Quyền tác giả của Việt Nam chưa trao cho thư viện đặc quyền này, nhưng phương thức sử dụng này sẽ không dẫn đến tranh chấp Quyền tác giả do dịch vụ này chỉ cho phép người sử dụng đọc các tác phẩm có bản quyền trên các máy trạm của thư viện, không cho phép tải xuống và in ấn. KẾT LUẬN Ngày nay, cùng với sự phát triển của khoa học công nghệ, Trung tâm Tri thức số đang ngày càng phát triển mạnh mẽ trên thế giới nói chung và ở Việt Nam nói riêng. Trong khoảng một vài năm trở lại đây, nhiều Trung tâm Tri thức số trên thế giới đã được xây dựng, góp phần tạo ra các sản phẩm thông tin có giá trị, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của người dùng tin. Trung tâm Tri thức số ra đời đã làm thay đổi cơ bản phương thức hoạt động của thư viện từ truyền thống sang hiện đại, làm cho hoạt động thông tin thư viện trở nên sinh động và hiệu quả hơn, làm thay đổi cách nhìn nhận của xã hội đối với công tác thông tin thư viện. Xây dựng Trung tâm Tri thức số là xu thế tất yếu và là mục tiêu phát triển của các thư viện ở Việt Nam. Tuy nhiên, để đảm
  14. PHÁT TRIỂN MÔ HÌNH TRUNG TÂM TRI THỨC SỐ CHO CÁC THƯ VIỆN VIỆT NAM 404 bảo tính hợp pháp cũng như quyền lợi của tác giả khi sử dụng các tác phẩm để số hóa, các thư viện cần quan tâm và thực thi tốt vấn đề bản quyền trong hoạt động thông tin - thư viện. Để làm được điều đó đòi hỏi các thư viện phải có nhận thức đúng đắn cũng như nắm vững các nội dung liên quan vấn đề bản quyền trong Trung tâm Tri thức số. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Bùi Loan Thuỳ, Bùi Thu Hằng (2011), Thực hiện quyền sở hữu trí tuệ và quyền tác giả trong hoạt động thông tin - thư viện, Tạp chí Thư viện, Số1 (27), tr. 16-23. 2. Cục Bản quyền tác giả (2010), Các quy định pháp luật Việt Nam và quốc tế về quyền tác giả và quyền liên quan. 3. Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2006), Nghị định 100/2006/NĐ-CP ngày 21/9/2006 Quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Bộ luật Dân sự, Luật Sở hữu trí tuệ về quyền tác giả và quyền liên quan, Hà Nội. 4. Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2006), Nghị định 100/2006/NĐ-CP ban hành ngày 21/9/2006 Quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ và quản lý nhà nước về sở hữu trí tuệ, Hà Nội. 5. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2005), Luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam số 50/2005/QH11 ban hành ngày 29/11/2005. 6. Besek, June M. (2003), Copyright Isues Relevant to the Creation of a Digital Archive: A preliminary Assessment, Council on Library anf Information Resources and the Library of Congress. 7. IFLA, Copyright Issues for Libraries, https://www.ifla.org/copyright-issues- for-libraries, 20/2/2018. 8. Sullivan, Micalee, The Digital Archive and Copyright Headaches,  http:// www.gradhacker.org/2011/06/01/the-digital-archive-and-copyright- headaches/, 20/2/2018. 9. Wang, Wen-chun, Lai, Wen-chi, A Study on the Application of Expert System for Digital Archivers related Copyright Problem Solving, Info Share Tech Law Office, Taipei. 10. WIPO, Berne Convention for the Protection of Literary and Artistic Works, http://www.wipo.int/treaties/en/ip/berne/.
nguon tai.lieu . vn