Xem mẫu

  1. 432 VAI TRÒ CỦA VĂN HÓA TRONG PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG ĐẤT NƯỚC HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH T hực tiễn phát triển đất nước trong thời kỳ đổi mới đã khẳng định vị thế quan trọng của văn hóa trong chiến lược phát triển quốc gia. Văn hóa không chỉ giới hạn tầm vóc của mình trong chiều sâu những phẩm giá tinh thần mà còn là nguồn lực trực tiếp cho sự phát triển đất nước. Nếu như trước đây, văn hóa được xem là lĩnh vực tinh thần thuần túy, phi sản xuất thì ngày nay, sự phát triển của một số ngành Văn hóa đã bổ sung những nhận thức mới về vị trí, vai trò, chức năng của văn hóa trong phát triển. Văn hóa không chỉ là nền tảng tinh thần của xã hội, văn hóa còn là mục tiêu, là nguồn lực nội sinh, là động lực đột phá cho phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập quốc tế. Văn hóa không chỉ là những giá trị tinh thần cổ vũ cho các kế hoạch phát triển mà văn hóa đã hiện diện và thẩm thấu vào các hoạt động của đời sống xã hội, trực tiếp tham gia vào quá trình ổn định và phát triển của các lĩnh vực, từ kinh tế đến chính trị, xã hội. 1. Quan điểm của Đảng về vị trí, vai trò của văn hóa trong phát triển bền vững đất nước Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng đã luôn quan tâm đến vấn đề xây dựng, phát triển văn hóa. Trên cơ sở quán triệt sâu sắc các quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển văn hóa vào hoàn cảnh lịch sử cụ thể của đất nước, Văn kiện các kỳ đại hội Đảng đã nhất quán khẳng định tầm quan trọng của văn hóa trong sự nghiệp cách mạng. Đặc biệt trong thời kỳ đổi mới, nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn về vai trò của văn hóa trong phát triển đã được làm sáng tỏ, trở thành những định hướng chính trị quan trọng để xây dựng, phát triển văn hóa dân tộc nói riêng, phát triển nhanh và bền vững đất nước nói chung. Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII “Về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc” đã khẳng định: “Văn hóa là nền tảng
  2. Phần thứ hai: THAM LUẬN CỦA CÁC BAN, BỘ, NGÀNH, MẶT TRẬN TỔ QUỐC VIỆT NAM... 433 tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội”1. “Các nhân tố văn hóa phải gắn kết chặt chẽ với đời sống và hoạt động xã hội trên mọi phương diện chính trị, kinh tế, xã hội, luật pháp, kỷ cương,... biến thành nguồn lực nội sinh quan trọng nhất của phát triển”2. Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc là điều kiện để thực hiện lý tưởng cao đẹp của dân tộc ta là xây dựng một nước Việt Nam giàu mạnh, văn minh, con người được ấm no, hạnh phúc. Kết luận của Hội nghị Trung ương 10 khóa IX đã khẳng định những tư tưởng cơ bản của Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII và bổ sung một nhận định mới phản ánh bước phát triển về tư duy lý luận của Đảng: “Bảo đảm sự gắn kết giữa nhiệm vụ phát triển kinh tế là trung tâm, xây dựng, chỉnh đốn Đảng là then chốt với không ngừng nâng cao văn hóa - nền tảng tinh thần của xã hội; tạo nên sự phát triển đồng bộ của ba lĩnh vực trên chính là điều kiện quyết định bảo đảm cho sự phát triển toàn diện và bền vững đất nước”3. Nghị quyết số 33-NQ/TW Hội nghị Trung ương 9 khóa XI “Về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước” tiếp tục nhấn mạnh đến mối quan hệ biện chứng giữa văn hóa và phát triển bền vững đất nước: “Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, là mục tiêu, động lực phát triển bền vững đất nước. Văn hóa phải được đặt ngang hàng với kinh tế, chính trị, xã hội”4 và “Xây dựng nền văn hóa và con người Việt Nam phát triển toàn diện, hướng đến chân - thiện - mỹ, thấm nhuần tinh thần dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học. Văn hóa thực sự trở thành nền tảng tinh thần vững chắc của xã hội, là sức mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm sự phát triển bền vững và bảo vệ vững chắc Tổ quốc vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”5. Như vậy, trong Nghị quyết này, những nhiệm vụ đặt ra để phát triển văn hóa, con người không chỉ tập trung vào các nội dung liên quan đến lĩnh vực hoạt động văn hóa cơ bản mà còn mở rộng tới các lĩnh vực khác trong tổng thể đời sống xã hội, đó là xây dựng văn hóa trong chính trị và trong kinh tế, phát huy sức mạnh nội sinh của văn hóa trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Nếu văn hóa thấm sâu vào trong đời sống chính trị và đời sống kinh tế thì tất yếu tạo nên sự lành mạnh trong đời sống văn hóa - xã hội. Rõ ràng, Nghị quyết số 33 của Hội nghị Trung ương 9 khóa XI đã kế thừa quan điểm của Chủ _______________ 1, 2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998, tr.55. 3. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004, t.63, tr.390. 4, 5. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành Trung ương khóa XI, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2014, tr.48, 46-47.
  3. 434 KỶ YẾU HỘI NGHỊ VĂN HÓA TOÀN QUỐC TRIỂN KHAI THỰC HIỆN NGHỊ QUYẾT... tịch Hồ Chí Minh về văn hóa, như Người đã khẳng định từ năm 1946: “Trong công cuộc kiến thiết nước nhà, có bốn vấn đề cần chú ý, cùng phải coi là quan trọng ngang nhau: chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa”1. Văn kiện Đại hội XIII của Đảng xác định giá trị văn hóa, sức mạnh con người Việt Nam là nguồn lực nội sinh quan trọng góp phần làm nên sức mạnh tổng hợp quốc gia: “Phát triển toàn diện, đồng bộ các lĩnh vực văn hóa, môi trường văn hóa, đời sống văn hóa phong phú, đa dạng, văn minh, lành mạnh; vừa phát huy những giá trị tốt đẹp của dân tộc, vừa tiếp thu tinh hoa văn hóa của nhân loại để văn hóa thực sự là nền tảng tinh thần, nguồn lực nội sinh và động lực đột phá cho phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập quốc tế”2. Phát huy giá trị văn hóa, sức mạnh con người Việt Nam được xác định vừa là nhiệm vụ trọng tâm, vừa là khâu đột phá có ý nghĩa chiến lược để đẩy mạnh quá trình phát triển nhanh và bền vững đất nước trong thời gian tới. Văn kiện Đại hội XIII lần đầu tiên nêu yêu cầu phát huy sức mạnh mềm văn hóa Việt Nam: “Khẩn trương triển khai phát triển có trọng tâm, trọng điểm ngành công nghiệp văn hóa và dịch vụ văn hóa trên cơ sở xác định và phát huy sức mạnh mềm của văn hóa Việt Nam, vận dụng có hiệu quả các giá trị, tinh hoa và thành tựu mới của văn hóa, khoa học, kỹ thuật, công nghệ của thế giới. Gắn phát triển văn hóa với phát triển du lịch, đưa du lịch thành một ngành kinh tế mũi nhọn, đồng thời bảo vệ, gìn giữ tài nguyên văn hóa cho các thế hệ mai sau”3. Như vậy, từ việc tổng kết thực tiễn, Đảng ta đã phát triển lý luận về phát triển văn hóa, xây dựng con người trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội gắn với yêu cầu, nhiệm vụ của từng giai đoạn cách mạng. Càng bước vào đẩy mạnh phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, tích cực chủ động hội nhập sâu rộng vào đời sống quốc tế, vai trò của phát triển văn hóa, xây dựng con người càng nổi lên như một mục tiêu, một nhiệm vụ trọng tâm của chiến lược phát triển đất nước. Trong bài viết “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam”, đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã khẳng định “Chúng ta coi văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, sức mạnh nội sinh, động lực phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc; xác định phát triển văn hóa đồng bộ, hài hòa với tăng trưởng kinh tế và tiến bộ, công bằng xã hội là một định hướng căn bản của quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam”4. _______________ 1. Báo Cứu quốc, số ra ngày 8/10/1945. 2, 3. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t.I, tr.47, 145-146. 4. https://nhandan.vn/tin-tuc-su-kien/mot-so-van-de-ly-luan-va-thuc-tien-ve-chu-nghia-xa-hoi-va- con-duong-di-len-chu-nghia-xa-hoi-o-viet-nam-646305/.
  4. Phần thứ hai: THAM LUẬN CỦA CÁC BAN, BỘ, NGÀNH, MẶT TRẬN TỔ QUỐC VIỆT NAM... 435 2. Thực tiễn phát huy vai trò của văn hóa trong phát triển bền vững đất nước 2.1. Thành tựu Trong 35 năm đổi mới đất nước, sự phát triển tư duy lý luận của Đảng về vị trí, vai trò của văn hóa trong phát triển cùng với sự tác động của các yếu tố bên trong và bên ngoài đã tạo nên sự chuyển động trong xây dựng, phát triển nền văn hóa dân tộc. Các giá trị văn hóa đã thẩm thấu vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, hình thành các chuẩn mực trong phát triển kinh tế, chính trị, xã hội. Thực tiễn phong phú và sinh động đã chứng minh tầm quan trọng của văn hóa trong phát triển. Văn hóa trong chính trị là việc xác lập và thực hành các giá trị văn hóa (chân, thiện, mỹ) trong bộ máy tổ chức và hoạt động chính trị, đặc biệt là trong hoạt động lãnh đạo và quản lý. Văn hóa trong chính trị trước hết thể hiện ở cương lĩnh, đường lối, chủ trương của đảng cầm quyền. Bên cạnh đó, văn hóa trong chính trị còn biểu hiện tập trung ở việc xây dựng tư tưởng đạo đức, lối sống và môi trường văn hóa lành mạnh trong các tổ chức đảng, nhà nước, trong các đoàn thể chính trị - xã hội, trong đội ngũ cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức. Hơn nữa, xây dựng văn hóa trong chính trị đã được triển khai gắn với việc đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh và thực hiện nghiêm các nghị quyết, quy định, quy chế, chỉ thị của Đảng về xây dựng, chỉnh đốn Đảng; về phát huy vai trò nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu. Trong thời gian qua, Trung ương đã ban hành nhiều văn bản góp phần cụ thể hóa chủ trương xây dựng văn hóa trong chính trị1. Chính phủ chủ động hơn trong xây dựng Chính phủ kiến tạo, liêm chính, hành động phục vụ nhân dân. Việc xây dựng và thực hiện quy hoạch cán bộ, quy chế văn hóa công sở, cải cách thủ tục hành chính, đề án văn hóa công vụ, quy tắc ứng xử của cán bộ, công chức, viên chức, người lao động trong các cơ quan nhà nước... chính là những khía cạnh cụ thể của văn hóa trong chính trị. Cuộc đấu tranh chống suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, đấu tranh chống tiêu cực, tham nhũng, lãng phí, quan liêu, đề cao trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu... _______________ 1. Đó là: Chỉ thị số 05-CT/TW ngày 15/5/2016 của Bộ Chính trị “Về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”; Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII “Về tăng cường xây dựng chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ”; Quy định số 55-QĐ/TW ngày 19/12/2016 của Bộ Chính trị “Về một số việc cần làm ngay để tăng cường vai trò nêu gương của cán bộ, đảng viên”; Nghị quyết số 35-NQ/TW ngày 22/10/2018 của Bộ Chính trị “Về tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới”; Quy định số 08-QĐi/TW ngày 25/10/2018 của Ban Chấp hành Trung ương “Quy định trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, trước hết là Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban Bí thư, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương”; Quyết định 1847/QĐ-TTg ngày 27/12/2018 của Thủ tướng Chính phủ “Về việc Phê duyệt Đề án Văn hóa công vụ”; Quy định số 37-QĐ/TW ngày 25/10/2021 của Ban Chấp hành Trung ương, “Về những điều đảng viên không được làm” (thay thế Quy định số 47-QĐ/TW ngày 1/11/2011).
  5. 436 KỶ YẾU HỘI NGHỊ VĂN HÓA TOÀN QUỐC TRIỂN KHAI THỰC HIỆN NGHỊ QUYẾT... có chuyển biến tích cực. Bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, trình độ chuyên môn, ý thức phục vụ nhân dân của cán bộ, đảng viên từng bước được nâng lên. Chuẩn mực văn hóa chính trị từng bước được hình thành. Văn hóa trong kinh tế là quá trình xây dựng và thực hành các giá trị văn hóa trong tổ chức và cá nhân tham gia hoạt động kinh tế nhằm nâng cao tính sáng tạo, tính nhân văn trong kinh tế, khắc phục những mặt trái do kinh tế thị trường tạo ra. Văn hóa trong kinh tế là khẳng định cái đúng (chân), cái tốt (thiện), cái đẹp (mỹ) của sự phát triển kinh tế, chú trọng các giá trị khoa học, pháp lý và giá trị đạo lý trong hoạt động kinh tế, phấn đấu làm giàu vì sự phồn vinh của đất nước, vì sự tiến bộ và công bằng xã hội, nâng cao năng lực sáng tạo và cạnh tranh, đề cao tinh thần chia sẻ, trách nhiệm xã hội và đạo đức nghề nghiệp. Văn hóa trong kinh tế được biểu hiện ở tư duy chiến lược về phát triển kinh tế quốc gia, về đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế trên nền tảng khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo; thể hiện trong đường lối phát triển kinh tế, trong văn hóa doanh nghiệp, văn hóa doanh nhân và sự tham gia của người dân vào hoạt động kinh tế1. Thủ tướng Chính phủ đã ban hành các quyết định lấy ngày 10/11 hằng năm là Ngày Văn hóa doanh nghiệp Việt Nam, ngày 13/10 hằng năm là Ngày Doanh nhân Việt Nam và phát động “Cuộc vận động xây dựng văn hóa doanh nghiệp Việt Nam” trong cộng đồng doanh nghiệp và toàn xã hội. Hội Văn hóa doanh nghiệp đã ra đời và được thành lập ở 63 tỉnh, thành. Nhận thức về xây dựng văn hóa doanh nghiệp, văn hóa doanh nhân từng bước định hình ở một số đơn vị kinh tế và phát huy tác dụng. Nhiều doanh nghiệp trong xây dựng chiến lược phát triển đã đưa ra triết lý kinh doanh, giá trị văn hóa cốt lõi, quy tắc văn hóa ứng xử, quy chế văn hóa doanh nghiệp, bảo đảm cho doanh nghiệp phát triển bền vững; quan tâm hơn đến quyền lợi vật chất và tinh thần của người lao động. Nhiều hoạt động tôn vinh doanh nghiệp, doanh nhân tiêu biểu có đức, có tài đóng góp vào phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, địa phương được tổ chức. Điều này đã khích lệ, cổ vũ các doanh nghiệp, doanh nhân tích cực sản xuất, kinh doanh, chấp hành tốt chính sách, pháp luật, tham gia các hoạt động thiện nguyện vì cộng đồng. Văn hóa với tư cách là hệ giá trị đã thẩm thấu vào các hoạt động xã hội, gia tăng sự cố kết cộng đồng, khơi dậy ý chí, sức mạnh của con người Việt Nam. Phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” đã khơi dậy được nhiều giá trị nhân văn trong cộng đồng, có ảnh hưởng lan tỏa rộng khắp đến đời sống văn hóa của cả nước, được mọi tầng lớp nhân dân tham gia hưởng ứng mạnh mẽ, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội. Việc tham gia vào phong trào xã hội rộng lớn này đã góp phần làm giảm tỷ lệ hộ nghèo, tăng tỷ lệ hộ khá, giàu theo tiêu chí mới. Tổng kết _______________ 1. PGS.TS. Phạm Duy Đức, PGS.TS. Vũ Thị Phương Hậu (Đồng chủ biên): Văn hóa trong chính trị và văn hóa trong kinh tế ở Việt Nam, một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2019, tr.15.
  6. Phần thứ hai: THAM LUẬN CỦA CÁC BAN, BỘ, NGÀNH, MẶT TRẬN TỔ QUỐC VIỆT NAM... 437 20 năm thực hiện phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” cho thấy, đời sống văn hóa vật chất và tinh thần của nhân dân được cải thiện và nâng cao, việc thực hiện nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang có chuyển biến tích cực, nhiều tấm gương người tốt, việc tốt được tôn vinh và nhân rộng,... Trong bối cảnh đại dịch COVID-19 diễn biến phức tạp, đã xuất hiện nhiều tấm gương người tốt, việc tốt, nhiều giá trị văn hóa đạo đức mới gắn kết cộng đồng. Đội ngũ y, bác sĩ, các chiến sĩ trong lực lượng vũ trang cùng đông đảo cán bộ và nhân dân đã không quản hiểm nguy xung phong lên tuyến đầu chống dịch. Nhiều người trong số họ đã hy sinh vì nghĩa cả. Chủ nghĩa anh hùng được thắp sáng ở những con người bình dị. Hơn bao giờ hết, trong hoàn cảnh khó khăn, tinh thần đoàn kết, tương thân, tương ái, bao dung, lá lành đùm lá rách được khơi dậy, biến thành sức mạnh vật chất to lớn. Ngay khi Đảng, Chính phủ, Mặt trận Tổ quốc kêu gọi các đơn vị, tổ chức, cá nhân ủng hộ cho quỹ vắc xin, quỹ phòng chống COVID-19 là ngay lập tức, đồng bào, chiến sĩ cả nước, kiều bào Việt Nam hiện đang sinh sống ở nước ngoài không tiếc công sức, tiền của hưởng ứng nhiệt thành, chung tay khắc phục khủng hoảng do dịch bệnh gây ra. Có thể nhận thấy, văn hóa trong xã hội hiện đại không chỉ đảm nhiệm vai trò là hệ giá trị thẩm thấu, điều tiết các hoạt động chính trị, kinh tế, xã hội, mà văn hóa còn là nguồn lực trực tiếp cho sự phát triển đất nước. Theo thống kê của Cục Di sản văn hóa, tính đến cuối năm 2020, Việt Nam có 28 di sản văn hóa được UNESCO ghi danh, trong đó có 8 di sản văn hóa và thiên nhiên, 13 di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại và di sản văn hóa phi vật thể cần bảo vệ khẩn cấp, 7 di sản tư liệu; 3.560 di tích được xếp hạng cấp quốc gia (119 di tích cấp quốc gia đặc biệt); 215 bảo vật quốc gia; 364 di sản văn hóa phi vật thể được đưa vào Danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia1. Hệ thống di sản văn hóa phong phú này chính là những tài nguyên quý giá, là nguồn lực để phát triển du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn như tinh thần Nghị quyết số 08 của Bộ Chính trị2. Theo thống kê của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, trước khi đại dịch COVID-19 xuất hiện, trong giai đoạn 2015-2019, doanh thu của ngành du lịch Việt Nam hằng năm đều có sự tăng trưởng. Năm 2015, ngành du lịch đóng góp 6,33% GDP, năm 2016 là 6,96% GDP, năm 2017 là 7,91% GDP...3. Cùng với việc đóng góp vào phát triển kinh tế du lịch, sự xuất hiện của các ngành công nghiệp văn hóa như điện ảnh, nghệ thuật biểu diễn, quảng cáo, thiết kế _______________ 1. Báo cáo số 883/BC-DSVH ngày 15/12/2020 của Cục Di sản văn hóa. 2. Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 16/1/2017 của Bộ Chính trị “Về phát triển du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn”. 3. Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch: Báo cáo sơ kết 5 năm thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI “Về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước”.
  7. 438 KỶ YẾU HỘI NGHỊ VĂN HÓA TOÀN QUỐC TRIỂN KHAI THỰC HIỆN NGHỊ QUYẾT... mỹ thuật, phần mềm trò chơi giải trí,... cũng mang lại doanh thu đáng kể cho các đơn vị, tổ chức và cá nhân tham gia vào những ngành nghề khá mới này và đóng góp vào sự tăng trưởng của nền kinh tế quốc dân. Chiến lược phát triển các ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn 2030 đã xác định “Các ngành công nghiệp văn hóa là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế quốc dân” và doanh thu đến năm 2020 của các ngành công nghiệp văn hóa đóng góp khoảng 3% GDP. So với các nước trong khu vực và trên thế giới, công nghiệp văn hóa của Việt Nam còn khá non trẻ. Chính vì vậy, việc đóng góp 3% GDP cũng là con số đáng ghi nhận và hứa hẹn những tiềm năng trong tương lai. Đồng thời, sự phát triển của các ngành công nghiệp văn hóa cũng mang lại công ăn việc làm cho nhiều lao động, góp phần bảo đảm an sinh xã hội. 2.2. Hạn chế Bên cạnh những thành tựu đáng ghi nhận, việc phát huy vai trò của văn hóa đối với sự phát triển đất nước cũng còn bộc lộ nhiều hạn chế. Thứ nhất, không ít các cấp ủy đảng, chính quyền và xã hội chưa nhận thức đầy đủ về vai trò của văn hóa trong phát triển. Đúng như Văn kiện Đại hội XIII của Đảng đã thẳng thắn chỉ rõ: “Văn hóa chưa được quan tâm tương xứng với kinh tế và chính trị, chưa thật sự trở thành nguồn lực, động lực nội sinh của sự phát triển bền vững đất nước. Vai trò của văn hóa trong xây dựng con người chưa được xác định đúng tầm, còn có chiều hướng coi trọng chức năng giải trí đơn thuần”1. Thứ hai, công tác lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý văn hóa còn nhiều lúng túng, chậm trễ trong việc thể chế hóa quan điểm, chủ trương của Đảng về văn hóa. Nghị quyết của Đảng đã xác định rất rõ vị trí, vai trò của văn hóa trong phát triển. Những quan điểm, nhiệm vụ về phát triển văn hóa đã được làm rõ trong Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII, Nghị quyết Hội nghị Trung ương 9 khóa XI,... Tuy nhiên, việc thể chế hóa quan điểm, chủ trương của Đảng thành hệ thống luật pháp, chính sách, chiến lược và các kế hoạch cụ thể còn chậm trễ. Vì thiếu hành lang pháp lý và cơ chế thực hiện nên dẫn đến những lúng túng trong chỉ đạo thực tiễn, những yếu kém trong triển khai. Thứ ba, đầu tư cho văn hóa chưa đúng mức, còn dàn trải, hiệu quả chưa cao. Theo quy định của Luật Ngân sách nhà nước năm 2015 thì nguồn ngân sách nhà nước hằng năm được Quốc hội giao về các địa phương và hội đồng nhân dân cấp tỉnh sẽ phân bổ, do đó Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch không nắm bắt được số liệu chính xác về tổng chi ngân sách dành cho văn hóa của từng địa phương. Kết luận số 30-KL/TW ngày 20/7/2004 của Hội nghị lần thứ mười Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX đã xác định phấn đấu đến năm 2010, ít nhất đầu tư cho văn hóa _______________ 1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t.I, tr.84.
  8. Phần thứ hai: THAM LUẬN CỦA CÁC BAN, BỘ, NGÀNH, MẶT TRẬN TỔ QUỐC VIỆT NAM... 439 đạt 1,8% tổng chi ngân sách. Tuy nhiên, theo số liệu mà Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch tổng hợp từ các tỉnh, thành phố trong cả nước, đến năm 2019, tỷ lệ chi cho các hoạt động văn hóa, thể thao và du lịch đạt 1,72% tổng chi ngân sách nhà nước cấp về các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. Như vậy, sau gần 10 năm, nhưng tổng chi ngân sách cho lĩnh vực văn hóa vẫn chưa đạt được mục tiêu của năm 2010. Điều này cũng tương tự như tổng chi ngân sách nhà nước cho lĩnh vực giáo dục - đào tạo, chưa đạt 20% như Nghị quyết của Đảng đã đề ra. Bên cạnh chi ngân sách, kinh phí đầu tư cho lĩnh vực văn hóa còn được phân bổ từ nguồn vốn đầu tư của Chương trình mục tiêu quốc gia về văn hóa các năm 2014- 2015 và Chương trình mục tiêu phát triển văn hóa giai đoạn 2016-2020. Các chương trình này có tính chất “vốn mồi” để thúc đẩy phát triển kinh tế du lịch và nâng cao đời sống văn hóa của nhân dân, nhất là đồng bào tại các vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới, hải đảo. Tuy nhiên, trong những năm gần đây, kinh phí của chương trình ngày càng hạn hẹp nên vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển văn hóa của các địa phương. Chính vì việc đầu tư chưa đúng mức và dàn trải nên hệ thống thiết chế văn hóa và cơ sở vật chất - kỹ thuật cho hoạt động văn hóa còn thiếu và yếu. Rất nhiều địa phương, hệ thống thiết chế văn hóa ở trong tình trạng xuống cấp, thiếu đồng bộ, hiệu quả sử dụng thấp. Chênh lệch về hưởng thụ văn hóa giữa các vùng, miền còn lớn; đời sống văn hóa ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa còn nhiều khó khăn. Thứ tư, việc phát huy vai trò của văn hóa đối với sự phát triển chưa mang lại hiệu quả như mong muốn. Tại Hội nghị văn hóa toàn quốc tổ chức ngày 24/11/1946 tại Hà Nội, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đặt vấn đề phát huy vai trò của văn hóa đối với sự phát triển quốc gia: Phải làm thế nào cho văn hóa vào sâu trong tâm lý của quốc dân, nghĩa là văn hóa phải sửa đổi được tham nhũng, lười biếng, phù hoa, xa xỉ. Văn hóa phải làm thế nào cho ai cũng có lý tưởng tự chủ, độc lập, tự do. Đồng thời văn hóa phải làm thế nào cho quốc dân có tinh thần vì nước quên mình, vì lợi ích chung mà quên lợi ích mình. Văn hóa phải làm thế nào cho mỗi người dân Việt Nam từ già đến trẻ, cả đàn ông và đàn bà, ai cũng hiểu cái nhiệm vụ của mình và biết hưởng cái hạnh phúc của mình nên được hưởng. Văn hóa phải soi đường cho quốc dân đi. Từ đó đến nay, vai trò của văn hóa vẫn tiếp tục được làm sâu sắc thêm nhưng trong thực tế, văn hóa vẫn chưa thực sự phát huy được hết vai trò của mình. Tình trạng suy thoái tư tưởng, đạo đức, lối sống trong xã hội, trong một bộ phận cán bộ, đảng viên vẫn diễn ra ngày càng nghiêm trọng, nhức nhối. Chính sự suy thoái tư tưởng, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên này đã làm suy giảm niềm tin xã hội đối với sự lãnh đạo của Đảng, đe dọa đến sự tồn vong của chế độ. Bên cạnh đó, việc xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh chưa được quan tâm đúng mức. Chính vì vậy, nhiều lúc, nhiều nơi đã diễn ra tình trạng “ô nhiễm”
  9. 440 KỶ YẾU HỘI NGHỊ VĂN HÓA TOÀN QUỐC TRIỂN KHAI THỰC HIỆN NGHỊ QUYẾT... môi trường văn hóa. Khi môi trường văn hóa bị ô nhiễm, cái xấu, cái ác sẽ hoành hành. Điều này không chỉ phương hại đến mục tiêu xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc mà còn là rào cản trong phát triển bền vững đất nước. Sự đóng góp của văn hóa đối với phát triển kinh tế, chính trị, xã hội cũng chỉ giới hạn trong những phạm vi nhất định. Những giá trị văn hóa chưa thực sự thẩm thấu và điều tiết các lĩnh vực của đời sống xã hội. Tính chất vượt trước, “soi đường” của văn hóa cho phát triển chưa rõ nét. 3. Giải pháp phát huy vai trò của văn hóa trong phát triển bền vững đất nước Đứng trước yêu cầu xây dựng và phát triển đất nước trong giai đoạn cách mạng mới, giai đoạn chứa đựng nhiều dấu mốc lịch sử trọng đại, giai đoạn cả nước tập trung thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng với nhiều quan điểm, chủ trương lớn, mang tính đột phá để đưa đất nước ngày càng phát triển, trong bối cảnh quốc tế vừa có những thời cơ, vừa có những thách thức, vấn đề phát triển văn hóa cần phải được chú trọng cả về tầm nhìn, về ưu tiên đầu tư các nguồn lực để xứng đáng với vai trò, vị trí và tầm quan trọng của lĩnh vực này. Muốn vậy, cần chú ý các vấn đề sau: Một là, tiếp tục nâng cao nhận thức của các cấp, các ngành, của toàn xã hội về vị trí, vai trò của văn hóa đối với sự phát triển con người, xã hội, đối với sự phát triển quốc gia. Phát triển văn hóa, xây dựng con người phải được chú trọng tương xứng, hài hòa với phát triển kinh tế - xã hội. Văn hóa phải giữ vai trò điều tiết, định hướng sự phát triển đất nước trong bối cảnh kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế bằng mục tiêu nhân văn, hệ thống giá trị, chuẩn mực văn hóa. Cần phải đổi mới việc giáo dục lý luận chính trị, tư tưởng, giáo dục văn hóa, thẩm mỹ trong xã hội; tăng cường tuyên truyền, nâng cao nhận thức theo hướng thiết thực, hiệu quả, tôn trọng đối thoại, phản biện xã hội. Trong việc nâng cao nhận thức của xã hội về văn hóa, cần phát huy tốt hơn nữa vai trò của các ban, bộ, ngành, đặc biệt là vai trò của Ban Tuyên giáo Trung ương, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh. Với tư cách là trung tâm quốc gia đào tạo, bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo, quản lý trung, cao cấp, cán bộ khoa học lý luận chính trị của Đảng, Nhà nước và các đoàn thể chính trị - xã hội, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh có vai trò quan trọng trong việc trang bị các vấn đề lý luận và thực tiễn về vị trí của văn hóa trong phát triển cho cán bộ trung, cao cấp của Đảng, Nhà nước và hệ thống chính trị. Vì xét cho đến cùng, “cán bộ là cái gốc của mọi công việc”, “muôn việc thành công hoặc thất bại, đều do cán bộ tốt hoặc kém”1.. Hai là, đẩy mạnh thể chế hóa quan điểm, đường lối của Đảng về vấn đề phát huy sức mạnh văn hóa, con người Việt Nam thành hệ thống luật pháp, thành các chiến _______________ 1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, t.5, tr.309, 280.
  10. Phần thứ hai: THAM LUẬN CỦA CÁC BAN, BỘ, NGÀNH, MẶT TRẬN TỔ QUỐC VIỆT NAM... 441 lược, các chương trình, các kế hoạch cụ thể. Hệ thống quan điểm, đường lối của Đảng về vấn đề văn hóa, con người ngày càng được hoàn thiện. Công việc trọng tâm hiện nay là triển khai hệ thống, quan điểm này trong đời sống thực tiễn. Muốn vậy, đòi hỏi phải có sự vào cuộc, sự phối hợp chặt chẽ của các ban, bộ, ngành chứ không đơn thuần chỉ là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch. Trước hết, Chiến lược phát triển văn hóa Việt Nam đến 2030, cũng như các chiến lược phát triển khác phải thể hiện được sứ mệnh lớn lao của văn hóa như tinh thần các văn kiện của Đảng đã khẳng định. Các chiến lược, kế hoạch phát triển văn hóa phải được đặt trong mối quan hệ với các chiến lược, kế hoạch phát triển của các lĩnh vực khác, đặt trong sự phát triển tổng thể của quốc gia. Hệ thống luật pháp về văn hóa cũng cần được rà soát để tiến tới xây dựng hoặc điều chỉnh, bổ sung cập nhật với tình hình mới. Ba là, giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa bảo tồn và phát huy các di sản văn hóa truyền thống. Văn hóa Việt Nam là tổng thể các giá trị vật chất và tinh thần mà cha ông đã sáng tạo trong suốt chiều dài lịch sử dân tộc. Đó là kết quả của quá trình tương tác với môi trường tự nhiên, môi trường xã hội cũng như giao lưu, tiếp biến với nhiều nền văn hóa trên thế giới. Chính vì vậy, bảo tồn và phát huy các di sản văn hóa không chỉ là vấn đề đạo lý mà là một tất yếu khách quan. Bảo tồn tốt để làm cơ sở cho việc khai thác, phát huy hiệu quả giá trị di sản văn hóa và ngược lại, phát huy tốt di sản văn hóa sẽ tạo nguồn lực để bảo tồn tốt. Hơn thế, việc bảo tồn và phát huy di sản văn hóa không chỉ có ý nghĩa đối với sự phát triển của lĩnh vực văn hóa, mà còn là nguồn lực để thúc đẩy các lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội và công tác đối ngoại. Di sản văn hóa chính là yếu tố cấu thành sức mạnh mềm văn hóa Việt Nam. Bốn là, tập trung nguồn lực phát triển có trọng tâm, trọng điểm một số lĩnh vực văn hóa. Văn hóa là một lĩnh vực phong phú, rộng lớn nhưng cũng hết sức tinh tế, nhạy cảm. Chính vì vậy, công tác quản lý văn hóa, cụ thể là tập trung nguồn lực phát triển văn hóa cũng cần phải có những nhận thức, những kế hoạch hành động vừa mang tầm chiến lược nhưng cũng phải hết sức cụ thể. Để phát huy sức mạnh văn hóa, năng động hóa nền văn hóa dân tộc nhưng đồng thời giảm thiểu sự phân tầng trong sáng tạo và hưởng thụ văn hóa của các tầng lớp nhân dân, cần phân định rõ những lĩnh vực văn hóa cần sự hỗ trợ, đầu tư của Nhà nước và những lĩnh vực có thể để cho thị trường điều tiết dưới sự định hướng của Nhà nước. Cần thực sự đổi mới nội dung, phương thức đầu tư phát triển văn hóa, khắc phục tình trạng đầu tư dàn trải, kém hiệu quả cũng như tình trạng buông lỏng sự lãnh đạo, quản lý lĩnh vực này. Năm là, phát triển ngành công nghiệp sáng tạo. Công nghiệp sáng tạo hay công nghiệp văn hóa là sự khẳng định mối quan hệ ngày càng sâu sắc giữa kinh tế và văn hóa. Việc phát triển ngành công nghiệp văn hóa từ khi có Chiến lược phát triển các ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam (2016) đến nay đã có những kết quả bước đầu. Hà Nội được UNESCO công nhận là thành phố sáng tạo (2019) là một minh chứng
  11. 442 KỶ YẾU HỘI NGHỊ VĂN HÓA TOÀN QUỐC TRIỂN KHAI THỰC HIỆN NGHỊ QUYẾT... cho thấy Việt Nam có khả năng khai thác nguồn lực văn hóa phục vụ cho sự phát triển của các địa phương và quốc gia. Để phát triển công nghiệp văn hóa, trước mắt, cần tập trung xây dựng các không gian sáng tạo, các thành phố sáng tạo để tạo môi trường thuận lợi cho sự ra đời các ý tưởng, hoạt động sáng tạo. Ở đó, văn hóa trở thành nguồn tài nguyên vô hạn để khai thác, phát triển thành các sản phẩm, các chuỗi giá trị. Bên cạnh đó, cần khẩn trương nghiên cứu, ban hành các chính sách khuyến khích phát triển công nghiệp văn hóa. Có lẽ phù hợp nhất trong bối cảnh hiện nay chính là Nhà nước sử dụng các phương pháp kinh tế để điều tiết sự phát triển của các ngành công nghiệp văn hóa. Văn hóa là một lĩnh vực trọng yếu của đời sống xã hội, có vị trí, vai trò hết sức quan trọng trong sự hoàn thiện nhân cách của mỗi cá nhân, sự vững chắc của mỗi cộng đồng và rộng hơn là sự phát triển của mỗi quốc gia. Sẽ không thể có một sự phát triển nhanh và bền vững nếu không phát huy được chính nội lực của quốc gia. Mà nội lực quan trọng nhất của mỗi một quốc gia chính là con người, là văn hóa của quốc gia đó. Các quan điểm của Đảng về vai trò của văn hóa, từ văn hóa là “nền tảng tinh thần”, là “mục tiêu”, là “động lực” đến văn hóa là “nguồn lực nội sinh”, là “động lực đột phá”, là “sức mạnh mềm” cho sự phát triển bền vững đất nước đã thể hiện sự đổi mới tư duy lý luận của Đảng về vai trò của văn hóa. Các quan điểm này đã tiếp cận được những quan điểm hiện đại, tiến bộ trên thế giới về vai trò của văn hóa, đồng thời cũng hoàn toàn phù hợp với chiều sâu văn hóa dân tộc và thực tế phát triển văn hóa Việt Nam. Vấn đề cấp thiết hiện nay chính là đưa Nghị quyết của Đảng vào cuộc sống, trở thành những chương trình hành động cụ thể, thiết thực của các cấp, các ngành. Có như vậy mới khơi dậy được sức mạnh của văn hóa, đóng góp vào sức mạnh tổng hợp quốc gia để phát triển đất nước cường thịnh, phồn vinh, hạnh phúc. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998. [2] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng thời kỳ đổi mới (Đại hội VI, VII, VIII, IX) Về văn hóa, xã hội, khoa học - kỹ thuật, giáo dục, đào tạo, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005. [3] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành Trung ương khóa XI, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2014. [4] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t.I, II. [5] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, t.5.
  12. Phần thứ hai: THAM LUẬN CỦA CÁC BAN, BỘ, NGÀNH, MẶT TRẬN TỔ QUỐC VIỆT NAM... 443 [6] Ban Tuyên giáo Trung ương: Báo cáo sơ kết 5 năm thực hiện Nghị quyết số 33-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương khóa XI “Về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước”. [7] Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch: Báo cáo sơ kết 5 năm thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI). [8] Cục Di sản Văn hóa: Báo cáo số 883/BC-DSVH ngày 15/12/2020. [9] PGS.TS. Phạm Duy Đức, PGS.TS. Vũ Thị Phương Hậu (Đồng chủ biên): Văn hóa trong chính trị và văn hóa trong kinh tế ở Việt Nam, một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2019.
nguon tai.lieu . vn