Xem mẫu

Trần Quốc Hưng

Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ

108(08): 35 - 40

VAI TRÒ CỦA VÁCH RỪNG ĐỐI VỚI KHẢ NĂNG PHỤC HỒI RỪNG
Ở KHU VỰC SAU CANH TÁC NƯƠNG RẪY TẠI KHU BẢO TỒN LOÀI
VÀ SINH CẢNH VƯỢN CAO VÍT, TRÙNG KHÁNH, CAO BẰNG
Trần Quốc Hưng
Trường Đại học Nông Lâm – ĐH Thái Nguyên

TÓM TẮT
Nghiên cứu đã chỉ ra rằng các loài cây tái sinh hạt trong hai ô tiêu chuẩn nghiên cứu trên diện tích
đất rừng sau nương bãi tại lũng Đảy thuộc vùng lõi khu bảo tồn đều có nguồn gốc tại vách rừng
xung quanh khu vực đó. Nhìn chung loài cây tại vách rừng phong phú, trong đó chủ yếu là các loài
ưu sáng mọc nhanh. Loài cây tái sinh hạt được đánh giá là phát tán nhờ gió và nhờ chim thú ăn
mang đi; 2 loài có số lượng cây tái sinh nhiều nhất là cây Thích Bắc bộ (Acer tonkinensis) và
Dướng (Broussonetia papyrifera), Khả năng tự gieo giống của các loài cây tự nhiên trong khu vực
lũng Đảy là rất cao và có đầy đủ tiềm năng để đáp ứng cho nhu cầu phục hồi rừng tại chỗ. Tuy
nhiên hiện nay do khu vực bỏ hóa sau nương rẫy này ưu thế là cỏ tranh và cỏ lông vì vậy đây cũng
có thể là một hạn chế ảnh hưởng đến khả năng tái sinh hạt của các loài cây trong khu vực.
Từ khóa: Tái sinh, vách rừng, phục hồi rừng, khu bảo tồn, gieo giống

MỞ ĐẦU*
Tái sinh rừng là một quá trình sinh học mang
đặc thù của hệ sinh thái rừng [3]. Đó là sự
xuất hiện thế hệ những cây con của những
loài cây gỗ ở những nơi còn hoàn cảnh rừng
như dưới tán rừng, khoảng trống trong rừng,
trên đất rừng sau khi khai thác hoặc sau khi
làm nương rẫy các cây con sẽ thay thế các cây
già cỗi. Theo nghĩa hẹp, tái sinh rừng là quá
trình phục hồi lại thành phần cơ bản của rừng,
chủ yếu là tầng cây gỗ và có vai trò quan
trọng đối với sự phát triển của rừng trong
tương lai, đảm bảo cho nguồn tài nguyên rừng
có khả năng tái sản xuất mở rộng [4].
Khu bảo tồn loài và sinh cảnh Vượn Cao Vít
huyện Trùng Khánh tỉnh Cao Bằng từ năm
2002 đến nay đã thực hiện các hoạt động bảo
tồn hướng tới sự ổn định và bảo vệ loài vượn
này bằng cách tập trung giảm các tác động
của các mối đe dọa chính đến sự suy thoái
môi trường sống [1]. Duy trì và phục hồi hệ
sinh thái rừng nhằm đảm bảo nguồn thức ăn
cũng như nơi cư trú là nhiệm vụ được đặt lên
hàng đầu. Các nghiên cứu về tái sinh và phục
hồi rừng trên núi đá vôi tại khu vực hiện nay
còn ít (Các quy luật tái sinh, sinh trưởng,
*

Tel: 0912 450 173; Email: hunglanduong@yahoo.de

những nhân tố ảnh hưởng tới tái sinh...) [2].
Vì vậy để bảo tồn được sinh cảnh của loài
Vượn quý hiếm trên, cần nghiên cứu tái sinh,
thành phần các loài thực vật và tác động của
hoàn cảnh sống tới tái sinh, sinh trưởng của
thực vật nhằm khôi phục, phát triển hệ sinh
thái rừng tại khu vực nhất là đối với các diện
tích rừng trước đây đã bị khai phá làm nương
bãi, để làm cơ sở cho công tác bảo tồn có ý
nghĩa lớn này.
MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU
Đánh giá vai trò của vách rừng đối với khả
năng phục hồi rừng khu vực sau canh tác
nương rẫy tại khu bảo tồn loài và sinh cảnh
vượn Cao Vít thông qua khả năng gieo giống
và hình thức gieo giống của vách rừng từ đó
làm cơ sở khoa học cho việc đề xuất giải pháp
lâm sinh thúc đẩy nhanh quá trình diễn thế và
nâng cao chất lượng của rừng phục hồi.
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng và địa điểm nghiên cứu
Là các vách rừng xung quanh khu vực phục
hồi sau canh tác tại lũng Đảy thuộc vùng lõi
của khu bảo tồn. Đây là khu vực với diện tích
hơn 3ha được sử dụng canh tác nương rẫy rất
mạnh trước đây, tuy nhiên từ khi thành lập
khu bảo tồn (2007) đến nay việc tác động đốt
35

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

Trần Quốc Hưng

Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ

nương làm rẫy trong những lũng này đã hạn
chế tiến tới xóa bỏ tuy nhiên có thể nhận thấy
khả năng phục hồi rừng còn khá chậm.
Cách tiến hành đo đếm vách rừng và thu
thập số liệu
Nghiên cứu được tiến hành tại 5 địa điểm
vách rừng tại khu vực lũng Đảy, đó là những
khu vực xung quanh 2 ô tiêu chuẩn (OTC) lập
để nghiên cứu tái sinh phục hồi sau canh tác;
trong đó OTC 1 là khu vực nương rẫy đã bỏ
hóa 3 năm, OTC 2 khu vực nương rẫy đã bỏ
hóa 5 năm.
(1). Vách rừng 1 bên phải OTC số 1; (2).
Vách rừng 2 trên đỉnh OTC 1
(3). Vách rừng 3 Phía trên bên phải OTC số 2
và phía trên bên trái OTC 1; (4). Vách rừng 4
Phía trên bên trái OTC số 2; (5). Vách rừng 5
phía dưới bên trái OTC 2
- Xác định khoảng cách từ OTC tới các khu
vực đo đếm. Lập tuyến đo đếm.
- Đo những cây có D1.3 từ 20cm trở lên, vì
đây là các cây đã có khả năng ra hoa quả. Xác
định tên loài cây gồm tên Việt Nam, tên địa
phương. Đo khoảng cách trung bình từ vách
rừng tới vị trí OTC nghiên cứu tái sinh gần
nhất. Đo tọa độ, đai cao bằng GPS 60CSx.

Xác định tổ thành loài trong các vách rừng
Tổ thành loài cây trong nghiên cứu vách rừng
được tính theo từng địa điểm vách rừng riêng
và theo hệ số tổ thành loài đơn giản chỉ dựa
vào số loài cây mẹ là chính, vì đây là các cây
quyết định nên cấu trúc rừng:
Công thức: a =n/N x 10
a là hệ số tổ thành của loài a
n là số cây mẹ của loài A
N là số tổng số cây có trong khu vực (địa
điểm nghiên cứu vách rừng) nghiên cứu
10 hệ số phần mười.

Đánh giá vai trò của vách rừng tới khả
năng phục hồi rừng
So sánh khả năng tái sinh của các loài cây,
tiến hành so sánh tổ thành loài cây mẹ và cây

108(08): 35 - 40

tái sinh hạt được điều tra trong hai OTC (theo
nghiên cứu về đánh giá khả năng tái sinh sau
canh tác) đã lập căn cứ trên các yếu tố chính:
- Tổ thành cây tái sinh xuất hiện trên OTC so
sánh với cây có trong vách rừng.
- Tỷ lệ chất lượng tái sinh (%)
- Đặc điểm phát tán hạt của loài cây có cây
con tái sinh
Trong khi so sánh chỉ sử dụng các cây tái sinh
có nguồn gốc từ hạt để so sánh, vì các cây này
mới liên qua tới nguồn gốc của hạt giống phát
tán từ vách rừng. Không sử dụng các loài cây
có nguồn gốc tái sinh từ chồi vì có thể chúng
là các cây đã có xuất xứ tại chỗ từ lâu.
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU

Thành phần loài cây chính (cây mẹ) trong
vách rừng xung quanh khu vực cần đánh
giá khả năng phục hồi rừng
Một số đặc điểm khu vực điều tra vách rừng
Khu vực nghiên cứu thuộc các sườn núi thấp
có độ cao trên 700m so với mặt biển, nơi cao
nhất có độ cao 750m, có độ dốc lớn trên 400
và tỷ lệ đá lộ đầu rất cao trên 85%, có những
nơi có tỷ lệ đá lộ đầu tới 92%, địa hình tương
đối khó khăn có nhiều vách núi dựng đứng,
khó khăn trong việc điều tra; Độ tàn che trung
bình đạt 0,62, ở đây chủ yếu là các loài thực
vật điển hình của núi đá vôi; các cây mẹ trong
vách rừng điều tra đều là những cây trưởng
thành có đường kính bình quân 24,4 cm;
chiều cao bình quân 12,4cm, trong đó khu
vực 1 có đường kính bình quân cao nhất 34,6
cm và chiều cao vút ngọn cao nhất 14,3 cm.
Khu vực 3 là nơi có độ dốc không lớn lắm
(400), độ cao trung bình (750m), có tỷ lệ đá lộ
đầu (82%), địa hình ít bị chia cắt, không có
vách núi đá trong tuyến điều tra vách rừng do
đó số loài tập trung lớn ở khu vực này. Khu
vực 4 có số loài tập trung ít nhất 21 loài, có
chiều cao trung bình thấp nhất, do khu vực này
địa hình chia cắt, có vách đá dựng đứng, số
liệu cụ thể được thể hiện tại bảng 1 và 2.

36

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

Trần Quốc Hưng

Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ

108(08): 35 - 40

Bảng 1. Các yếu tố chính khu vực điều tra vách rừng
Độ
dốc
(độ)
40
45
40
40
45

Khu vực
vách
rừng
1
2
3
4
5
TB

Độ cao
tương
đối (m)
700
740
750
730
710

Tỷ lệ đá
lộ đầu
(%)
85
92
82
80
85

Hướng
phơi
Đông Bắc
Đông Bắc
Đông Bắc
Bắc
Bắc

Độ tàn
che
(1/10)
0.6
0.6
0.8
0.5
0.6
0.62

D1.3
(cm)

Hvn
(m)

34.6
21.6
21.8
23.5
20.8
24.4

14.3
13
12.7
10.7
11
12.4

Khoảng cách
đến OTC gần
nhất (m)
120 (OTC 2)
166 (OTC 2)
316 (OTC 1)
107 (OTC 1)
78 (OTC 1)

Thành phần loài cây mẹ trong vách rừng xung quanh khu vực nghiên cứu
- Thành phần các loài cây mẹ có trong các khu vực vách rừng
Bảng 2. Thành phần các loài cây trong vách rừng khu vực nghiên cứu
Khu vực
vách rừng

Tổng
số cây

1

25

2

42

3

83

4

21

5

28

Tổng

199

Tổng số loài
16 loài (Nghiến, Dâu da xoan, Thích, Kháo vàng, Tì bà lá to, Dẻ, Thông đỏ,
Xoan nhừ, Mạy puôn, Dướng, Rầy hoài, Côm, Trường sâng, Lăng khi, Khảo
mi, Sếu 4 nhị)
13 loài (Nanh chuột, Thích, Thông, Chay, Nhãn rừng, Dẻ, Mạy puôn, Kháo
vàng, Trường sâng, Trai lí, Sếu hôi, Thôi chanh, Dâu da xoan)
19 loài (Dướng, Mạy puôn, Trường sâng, Vàng anh, Thích, Thôi ba, Chay,
Nhọc, Móc, Nhãn rừng, Sồi đá, Trai lí, Kháo, Thổ mật tù, Dương đào (TQ),
Hu đay, Dâu da xoan, Mò lá tròn, Dẻ)
13 loài (Bình linh, Chay, Kháo vàng, Lá nến, Mạy puôn, Muồng quả tròn,
Nghiến, Nhãn rừng, Sau sau, Thích, Thôi ba, Tông dù, Trai lí)
10 loài (Lá nến, Sảng lông, Du, Nhọc, Mạy puôn, Dâu da xoan, Thích, Kháo
vàng, Dẻ)
38 loài trên 5 khu vực

- Công thức tổ thành loài trong vách rừng theo từng khu vực
Công thức tổ thành loài trong vách rừng ở từng khu vực nghiên cứu được thể hiện ở bảng sau:
Bảng 3. Công thức tổ thành vách rừng tại khu vực nghiên cứu
Khu vực vách rừng
1
2
3
4
5

Công thức tổ thành
2 Dâu da xoan + 0.8 Sếu hôi + 0.8 Nghiến - 0.4 Xoan nhừ 5.8LK
3.26 Mạy puôn + 2.79 Thích + 0.7 Trai – 0.47 Nhãn rừng 2.79LK
4.1 Mạy puôn + 2.3 Dướng + 0.7 Thích - 0.4 Móc 2.5 LK
2.3 Sau sau + 1.43 Thích + 0.95 Mạy puôn + 0.95 Muồng - 0.48 Tông dù 0.48 Trai 3.33 LK
2.86 Mạy puôn + 1.79 Dướng + 1.79 Thích + 0.71 Sảng lông + 0.71 Lá nến +
0.71 Dẻ - 0.36 Dâu da xoan 1.07 LK

Qua công thức tổ thành tại 5 khu vực vách rừng cho thấy số loài cây mẹ chủ yếu gồm các loài:
Mạy puôn (Cephalomappa sinensis), Dâu da xoan (Spondias lakonensis), Dướng (Broussonetia
papyrifera), Thích (Acer tonkinensis), Sếu (Celtis timorensis), Nhãn rừng (Dimocarpus fumatus
ssp. indochinensis), Móc (Caryota bacsonensis), Sau sau (Liquidambar formosana), Nghiến
(Excentrodendron tonkinense), Trai lí (Garcinia paucinervis), Tông dù (Toona sinensis).
37

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

Trần Quốc Hưng

Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ

108(08): 35 - 40

Bảng 4. Thành phần loài và tổ thành của cây tái sinh có nguồn gốc từ hạt tại 2 OTC
STT

Loài

OTC1
Số cây

OTC 2

Hệ số tổ thành

Số cây

Hệ số tổ thành

1

Thích

-

-

31

6.71

2

Thôi chanh

1

0.067

3

0.65

3
4

Lát trắng
Móc

129

8.66

5
4

1.08
0.87

5

Sếu

-

-

1

0.21

6

Xung sao

-

-

1

0.21

7

Dướng

15

1.007

1

0.21

8

Boọc bịp

1

0.067

-

-

9
10

Sung lá lệch
Kháo vàng

1
1

0.067
0.067

-

-

11

Sóc đỏ

1

0.067

-

-

(Số liệu nghiên cứu tái sinh phục hồi sau canh tác nương rẫy tại lũng Đảy năm 2012)

Vai trò của vách rừng tới khả năng phục
hồi rừng sau canh tác nương rẫy
So sánh thành phần loài cây tái sinh hạt tại
2 OTC nghiên cứu về tái sinh phục hồi sau
nương rẫy với các cây mẹ trong vách rừng
Kết quả nghiên cứu tái sinh tại 2 OTC thiết
lập trong khu vực nghiên cứu đã cho biết số
loài cũng như công thức tổ thành của loài tái
sinh từ hạt tại khu vực nghiên cứu đó, kết quả
cụ thể được thể hiện tại bảng 4.
So sánh bảng 4 với bảng 3 và 2 cho thấy tổ
thành tái sinh có nguồn gốc từ hạt của 2 OTC
là tương đối đồng nhất với tổ thành cây mẹ tại
vách rừng xung quanh OTC. Trong đó Thích
(Acer tonkinensis) và Móc (Caryota
bacsonensis) là hai loài có hệ số tổ thành cao
nhất, sau đó là Dướng (Broussonetia
papyrifera),
Lát
trắng
(Acrocarpus
fracinioides), đây là những loài ưa sáng mọc
nhanh, có khả năng tái sinh mạnh. Những loài
này có mặt hầu hết ở vách rừng xung quanh 2
OTC (khu vực nghiên cứu tái sinh phục hồi
sau nương rẫy).
Đánh giá khả năng phát tán hạt giống của
một số loài chính xuất hiện tại khu vực
nghiên cứu
Qua nghiên cứu đặc điểm sinh thái của các
loài cây tái sinh chính tại khu vực nghiên cứu
có thể chia ra làm 2 nhóm quả chính.

Cây có hạt nhẹ và có cánh để phát tán gồm 4
loài: Thích (Acer tonkinensis), Lát trắng
(Acrocarpus
fracinioides),
Xung
sao
(Boniodendron minius) và Boọc bịp
(Radermachera boniana). Những cây này có
hình thức phát tán chủ yếu nhờ gió, do có hạt
nhỏ nhẹ có cánh nên có thể phát tán rộng nhất
trong khu vực. Trong đó OTC 2 có số lượng
cây Thích (Acer tonkinensis) khá lớn 31 cây
điều đó phù hợp thành phần cây mẹ ở vách
rừng xung quanh OTC 2.
Cây có quả nhỏ không cánh gồm 7 loài: Thôi
chanh (Euodia bodiniera), Sếu (Celtis
tetrandra), Sóc đỏ (Clochidion rubrum), Kháo
vàng (Machilus odoratissima), Sung lá lệch
(Ficus cyrtophylla), Dướng (Broussonetia
papyrifera), Móc (Caryota bacsonensis).
Trong đó những cây có quả là nguồn thức ăn
của các loài chim, thú trong khu vực gồm Móc
(Caryota bacsonensis), Dướng (Broussonetia
papyrifera), Sung lá lệch (Ficus cyrtophylla)
và Sếu (Celtis tetrandra). Chính vì vậy nhờ
chim, thú mà hạt của những cây này có thể
phát tán mạnh trong khu vực này, cung cấp
nguồn hạt giống tại chỗ.
Trong các loài cây tái sinh tại khu vực nghiên
cứu, Móc (Caryota bacsonensis) là cây tái
sinh mạnh nhất vì nguồn cây mẹ có ngay tại
OTC, loài Thích (Acer tonkinensis) là loài cây

38

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

Trần Quốc Hưng

Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ

có hạt nhỏ lại có cánh nên khả năng phát tán
giúp tái sinh mạnh, thông qua lượng cây tái
sinh tương đối lớn chỉ sau cây Móc (Caryota
bacsonensis). Loài Dướng (Broussonetia
papyrifera) số lượng cây tái sinh hạt nhỏ
nhưng lượng cây tái sinh chồi lớn.
Một số loài cây ở các vách rừng như Dâu da
xoan (Spondias lakonensis), Mạy puôn
(Cephalomappa
sinensis),
Sau
sau
(Liquidambar formosana), là những loài có
hệ số tổ thành cao nhưng chưa thấy xuất hiện
cây tái sinh. Điều này có thể do những
nguyên nhân sau: Mạy puôn (Cephalomappa
sinensis) cây thường mọc ở nơi có tỷ lệ đá lộ
đầu lớn; còn cây Dâu da xoan (Spondias
lakonensis) và Sau sau (Liquidambar
formosana), lượng hạt rơi tuy nhiều nhưng
khả năng bị các loài thú nhỏ như chuột, sóc
ăn hết số lượng hạt này.
Các cây tái sinh có nguồn gốc hạt đều là
những cây tiên phong ưa sáng sinh trưởng
nhanh. Nhưng chất lượng gỗ không tốt mà
chủ yếu tạo sinh cảnh, lấp đầy khoảng trống
sau canh tác nương rẫy của người dân tại khu
vực nghiên cứu, đồng thời chúng cũng tạo
nguồn thức ăn cho loài vượn Cao Vít.
KẾT LUẬN
Vách rừng khu vực nghiên cứu rất phong phú
và đa dạng về loài và số lượng cây mẹ. Kết
quả số lượng cây đã điều tra được trong 5
khu vực vách rừng gồm 199 cây thuộc 38
loài, trong đó chủ yếu là các loài ưu sáng mọc
nhanh. Đây cũng là nguồn hạt giống chính
phát tán xuống khu vực canh tác sau nương
rẫy tại đây, góp phần tái sinh phục hồi rừng
tại khu vực này.
Số lượng cây tái sinh có nguồn gốc từ hạt
đồng nhất với loài cây mẹ trong vách rừng
xung quanh.
Loài cây tái sinh hạt được đánh giá là phát tán
nhờ gió và nhờ chim thú ăn mang đi. Trong số

108(08): 35 - 40

các loài tái sinh, 2 loài được đánh giá phát tán
mạnh nhất là Thích (Acer tonkinensis) và
Dướng (Broussonetia papyrifera), riêng loài
Móc (Caryota bacsonensis) chủ yếu do nguồn
giống ngay trên diện tích đất sau canh tác nương
rẫy. Một số loài có tỷ lệ cao ở các vách rừng
nhưng chưa thấy tái sinh nguyên nhân là do hạt
của chúng có thể do bị chuột và sóc ăn khi rơi
xuống, như Dâu da xoan (Spondias lakonensis),
Sau sau (Liquidambar formosana)…
Khả năng tự gieo giống của các loài cây tự
nhiên trong khu vực lũng Đảy là rất cao và có
đầy đủ tiềm năng để đáp ứng cho nhu cầu
phục hồi rừng. Tuy nhiên hiện nay do khu
vực bỏ hóa sau nương rẫy này ưu thế là Cỏ
tranh và Cỏ lông vì vậy đây cũng có thể là
một hạn chế ảnh hưởng đến khả năng tái sinh
hạt của các loài cây trong khu vực. Điều này
cần xác định và chứng minh sau khi hoàn tất
nghiên cứu về khả năng tái sinh bằng các biện
pháp lâm sinh tại khu vực này.
Lời cảm ơn
Nghiên cứu này được hoàn thành với sự hỗ
trợ về tài chính của tổ chức Arcus, tổ chức
PRCF và Đại học Thái Nguyên.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trần Quốc Hưng (2009). Nghiên cứu biện pháp
phục hồi rừng tại khu vực phục hồi sinh cảnh cho
vượn Cao Vít, Trùng Khánh Cao Bằng. Báo cáo
cho tổ Động thực vật Quốc tế (FFI – Việt Nam),
34 trang.
2. Trần Quốc Hưng (2007). Bước đầu đánh giá tái
sinh rừng tại khu vực phục hồi sinh thái của khu
bảo tồn vượn Cao Vít, xã Ngọc Khê và Phong
Nậm, huyện Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng. Báo
cáo cho tổ Động thực vật Quốc tế (FFI – Việt
Nam), 27 trang.
3. Võ Đại Hải, Nguyễn Đình Quế và Phạm Ngọc
Thường (2004). Canh tác nương rẫy và phục hồi
rừng sau nương rẫy ở Việt Nam, Nxb Nghệ An.
4. Nguyễn Văn Thêm (2006). Lâm sinh học, Nxb
Nông nghiệp 2006

39

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

nguon tai.lieu . vn