Xem mẫu
- Chủ Tịch Hồ Chí Minh – anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân
văn hóa thế giới, vị lãnh tụ kính yêu của cả dân tộc Việt Nam.
Người đã gắn bó cả cuộc đời mình cho sự nghiệp cách mạng
nước nhà, cả cuộc đời vì nước vì dân. Có thể nói ít có ai có tấm
lòng yêu nước thương dân vô bờ bến như Người. Đối với sự
nghiệp cách mạng nước nhà, Người có công lao vô cùng to lớn và
đã đi vào lịch sử dân tộc với những trang sử hào hùng, chói lọi
nhất. Từ thưở thiếu thời cho đến lúc trút hơi thở cuối cùng Người
luôn trăn trở cho vận mệnh quốc gia, dân tộc. Nỗi lo lắng làm sao
để cho nước nhà được độc lâp, nhân dân được sống trong sung
sướng tự do, ai cũng có cơm ăn áo mặc luôn canh cánh bên
Người.a
Nguyễn Aí Quốc tên khai sinh là Nguyễn Sinh Cung, sinh ngày 19
tháng 5 năm 1890 tại Làng Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ
An. Cha của Người là cụ Nguyễn Sinh Sắc (1863-1929) đỗ Phó
Bảng, bị ép ra làm quan, sau bị cách chức, chuyến sang làm nghề
thầy thuốc. Mẹ của Người là bà Hoàng Thị Loan (1868-1900), một
phụ nữ có học, đảm đang, chăm lo cho chồng con hết mực. Sinh
ra trong một gia đình nhà nho yêu nước, trên quê hương Nghệ
Tĩnh giàu truyền thống đấu tranh cách mạng lại lớn lên trong cảnh
nước mất nhà tan nên Người sớm có tinh thần yêu nước. Người rất
khâm phục tấm lòng yêu nước và tinh thần đấu tranh của các bậc
tiền bối như: Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Phan Đình Phùng…
nhưng lại không tán thành với con đường cứu nước của các cụ.
Xuất phát từ lòng yêu nước và trên cơ sở rút kinh nghiệm thất bại
của các thế hệ cách mạng tiến bối. Nguyễn Aí Quốc đã quyết tâm
ra đi tìm con đường cứu nước mới hữu hiệu hơn.
Ngày 5/6/1911 tại Bến cảng Nhà Rồng chàng thanh niên Nguyễn
Aí Quốc lấy tên là Nguyễn Tất Thành đã tạm rời xa gia đình, xa Tổ
quốc để bắt đầu cuộc hành trình của mình.
Tuy nhiên khác với những thanh niên cùng trang lứa đều chọn
Nhật Bản làm nơi dừng chân thì Nguyễn Aí Quốc lại hướng tầm
nhìn của mình về các nước phương Tây, trong đó có Pháp. Sỡ dĩ
Người chọn phương Tây làm nơi đến vì Người muốn tìm hiểu xem
nước Pháp và các nước khác làm thế nào để trở về giúp đỡ đồng
bào mình, hơn nữa Người cũng muốn biết nước Pháp là một tên
đế quốc như thế nào mà lại sang xâm lược nước ta và theo người
muốn đánh thắng giặc Pháp xâm lược thì cần phải tìm hiểu rõ về
chúng, “ biết địch biết ta trăm trận trăm thắng “ chính vì lý do đó
mà người đã quyết định sang phương Tây, sang nước Pháp.
- Người đã làm phụ bếp trên con tàu Latouche Treville của Pháp
lênh đênh trên biển cả bắt đầu chuyến hành trình tìm đường cứu
nước, giải phóng dân tộc của mình.
Trong những năm đầu hoạt động cách mạng cho đến 1930.
Nguyễn Aí Quốc đã có vai trò rất lớn đối với sự nghiệp cách mạng
nước nhà. Vai trò đó được thể hiện ở các mặt sau đây:
Trước hết, khi rời Tổ Quốc. Người đã đi đến rất nhiều nước trên
thế giới ở cả Châu Âu, Châu Mỹ, Châu Phi nhưng ở đâu Người
cũng hòa mình với cuộc sống của những người dân lao động cho
nên Người rất thấu hiểu nỗi khổ của họ. Những chuyến đi đó giúp
Người rút ra một kết luận rằng: Trên thế giới này, ở đâu bọn đế
quốc thực dân cũng đều độc ác, ở đâu những người lao động cũng
đều bị áp bức bóc lột dã man; trên thế giới này con người có nhiều
màu da khác nhau, nhưng chung quy chỉ có hai hạng người: hạng
người bị bóc lột và hạng người đi bóc lột.
Năm 1917, Người từ Anh trở lại Pháp, chọn Pari làm điểm dừng
chân hoạt động. Tại đây, hoạt động đầu tiên của Người là đấu
tranh đòi cho binh lính và thợ thuyền Việt Nam được sớm hồi
hương trở về với gia đình.
Năm 1919, Người gia nhập Đảng Xã Hội Pháp, một đảng tiến bộ
chủ trương chống lại các chính sách áp bức bóc lột của thực dân
Pháp ở các nước thuộc địa. Tháng 6 năm 1919, nhân dịp các nước
thắng trận trong Chiến tranh thế giới thứ nhất họp Hội nghị
Vecsxai ở Pháp, Nguyễn Aí Quốc thay mặt nhóm người Việt Nam
yêu nước tại Pháp gửi tới Hội nghị Bản yêu sách của nhân dân
Việt Nam để tố cáo chính sách của thực dân Pháp và đòi chính
phủ Pháp phải thực hiện các quyền tự do, dân chủ và quyền bình
đẳng của dân tộc Việt Nam.
Bản yêu sách gồm 8 điểm như sau:
1. Tổng ân xá tất cả những người bản xứ bị án tù chính trị.
2. Cải cách nền pháp lý Đông Dương bằng cách để người bản xứ
cũng được quyền hưởng những quyền bảo đảm về mặt pháp luật
như người Âu châu. Xóa bỏ hoàn toàn các tòa án đặc biệt dùng
làm công cụ để khủng bố và áp bức bộ phận trung thực nhất trong
nhân dân An Nam.
3. Tự do báo chí và tự do ngôn luận.
4. Tự do lập hội và hội họp.
5. Tự do cư trú ở nước ngoài và tự do xuất dương.
6. Tự do học tập, thành lập các trường kĩ thuật và chuyên nghiệp
ở tất cả các tỉnh cho người bản xứ
7. Thay chế độ ra các sắc lệnh bằng chế độ ra các đạo luật.
8 .Có đại biểu thường trực của người bản xứ do người bản xứ bầu
ra tại Nghị viện Pháp để giúp cho Nghị viện biết được những
nguyện vọng của người bản xứ.
- Những yêu sách nói trên không được chấp nhận, nhưng nó đã có ý
nghĩa rất lớn. Đó là đòn tấn công trực diện đầu tiên của nhà cách
mạng trẻ tuổi Nguyễn Aí Quốc vào bọn trùm đế quốc và nó đã có
tiếng vang lớn đối với nhân dân Việt Nam, nhân dân Pháp và nhân
dân các nước thuộc địa Pháp. Một bài học lớn đã được rút ra: “Chỉ
có giải phóng giai cấp vô sản thì mới giải phóng được dân tộc; cả
hai cuộc giải phóng này chỉ có thể là sự nghiệp của chủ nghĩa
cộng sản và của cách mạng thế giới”.
Thứ hai, Nguyễn Aí Quốc là người đã tìm ra con đường cứu nước
đúng đắn cho dân tộc Việt Nam:
Sau nhiều năm bôn ba hải ngoại tìm đường cứu nước, bắt đầu từ
1911. Tháng 7 năm 1920. Nguyễn Aí Quốc đọc được Bản sơ thảo
lần thứ nhất Luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa của
Lênin đăng trên báo Nhân đạo - cơ quan Trung ương của Đảng
Cộng sản Pháp. Người vui mừng đến phát khóc lên và muốn nói to
lên như đang nói trước đông đảo quần chúng: “Hỡi đồng bào bị
đọa đày đau khổ ! Đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con
đường giải phóng chúng ta” . Nguyễn Aí Quốc đã tìm thấy con
đường cứu nước giải phóng dân tộc. Người khẳng định: “Chỉ có
chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các
dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách
nô lệ”. Từ đó Nguyễn Aí Quốc hoàn toàn tin vào Lênin, tin vào
Quốc tế thứ ba.
Quyết tâm đó của Nguyễn Aí Quốc càng được khẳng định rõ ràng
khi tại Đại hội lần thứ 18 của Đảng Xã hội Pháp họp ở Tua vào
cuối tháng 12 năm 1920 Người đã bỏ phiếu tán thành việc gia
nhập Quốc tế thứ III và tham gia sáng lập Đảng Cộng sản Pháp.
Hành động đó của Nguyễn Aí Quốc là sự kiện đánh dấu bước
ngoặt lớn trong hoạt động cũng như tư tưởng chính trị của Người,
từ lập trường yêu nước chuyển sang lập trường cộng sản. Sự kiện
đó cũng mở ra cho cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam một
giai đoạn phát triển mới, “giai đoạn gắn phong trào cách mạng
Việt Nam với phong trào công nhân quốc tế, đưa nhân dân Việt
Nam đi theo con đường mà chính Người đã trải qua, từ chủ nghĩa
yêu nước đến với chủ nghĩa Mác-Lênin và đi theo con đường cách
mạng vô sản”, nó đánh dấu bước mở đường giải quyết cuộc
khủng hoảng về đường lối giải phóng dân tộc ở Việt Nam.
Sau này, chính Người đã thừa nhận: “Lúc đầu chính là chủ nghĩa
yêu nước, chứ không phải là chủ nghĩa cộng sản đã làm tôi tin
theo Lênin, tin theo Quốc tế thứ III. Từng bước một trong cuộc đấu
tranh, vừa nghiên cứu lí luận Mác – Lênin, vừa làm công tác thực
tế, dần dần tôi hiểu rằng chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng
sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người
- lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ”.
Thứ Ba, Nguyễn Aí Quốc là người đã tích cực chuẩn bị tiền đề về
chính trị, tư tưởng và tổ chức cách mạng cho sự ra đời của chính
đảng vô sản ở Việt Nam :
Sau khi đã tìm được con đường cứu nước đúng đắn cho dân tộc
thông qua việc tiếp nhận chủ nghĩa Mác – Lênin và trở thành
người cộng sản, từ 1921 trở đi Nguyễn Aí Quốc vừa hăng say hoạt
động cách mạng, vừa học tập nghiên cứu lý luận để bổ sung và
hoàn thiện tư tưởng cứu nước của mình, đồng thời tích cực tìm
mọi cách để truyền bá chủ nghĩa Mác – Lênin vào Việt Nam nhằm
chuẩn bị tiền đề về chính trị, tư tưởng cho việc thành lập chính
đảng vô sản ở Việt Nam.
Trong điều kiện chính sách thống trị của Thực dân Pháp hết sức
hà khắc, chúng tìm cách bưng bít mọi tư tưởng cách mạng tiến bộ
trên thế giới thêm vào đó trình độ học vấn của nhân dân ta trong
giai đoạn này còn thấp. Nguyễn Aí Quốc đã phải suy nghĩ, tìm tòi
những hình thức thích hợp để từng bước truyền bá chủ nghĩa Mác
–Lênin vào phong trào cách mạng Việt Nam. Người đã vận dụng
những nguyên lý cơ bản của học thuyết này thành những vấn đề
chính trị, đường lối, đạo đức để truyền bá vào Việt Nam .
* Thời gian ở Pháp:
Từ 1921 Nguyễn Aí Quốc dựa vào sự giúp đỡ của Đảng cộng sản
Pháp đã cùng với một số người yêu nước của các thuộc địa Pháp
sáng lập Hội liên hiệp thuộc địa ở Pari để đoàn kết các lực lượng
cách mạng chống chủ nghĩa thực dân và thông qua tổ chức này
để đem chủ nghĩa Mác – Lênin đến với với các dân tộc thuộc địa.
Hội quyết định sáng lập ra tờ báo Le Paria ( Báo Người cùng khổ)
làm cơ quan ngôn luận của mình và ra số đầu tiên vào ngày
1/4/1922, tờ báo Người cùng khổ do Nguyễn Aí Quốc chủ biên
kiêm chủ bút đã vạch trần chính sách đàn áp, bóc lột dã man của
Chủ nghĩa đế quốc nói chung và đế quốc Pháp nói riêng, đồng
thời thức tỉnh các dân tộc bị áp bức nổi dậy đấu tranh tự giải
phóng.
Ngoài việc thành lập Hội liên hiệp thuộc địa và xuất bản báo
Người cùng khổ, Nguyễn Aí Quốc còn tích cực tổ chức các buổi
diễn thuyết và viết nhiều bài đăng trên các báo Nhân đạo, Đời
sống công nhân, tập san Thư tín quốc tế…và viết cuốn sách nổi
tiếng Bản án chế độ thực dân Pháp (xuất bản 1925). Mặc dù nhà
cầm quyền Pháp tìm mọi cách ngăn chặn, cấm đoán nhưng các
sách báo đó vẫn được bí mật chuyển về Việt Nam đúng vào lúc
phong trào cách mạng Việt Nam đang phát triển mạnh, đặc biệt
bước đầu xuất hiện những xu hướng cộng sản. Nhờ đó nhân dân
- ta, trước hết là những người tiểu tư sản trí thức yêu nước, tiến bộ
ngày càng hiểu hơn bản chất của chủ nghĩa đế quốc nói chung và
đế quốc Pháp nói riêng, hiểu được Cách mạng tháng Mười Nga và
hướng về chủ nghĩa Mác – Lênin.
Bên cạnh đó, với tư cách là trưởng tiểu ban Đông Dương của
Đảng cộng sản Pháp, Nguyễn Aí Quốc cũng đã góp phần quan
trọng vào việc tố cáo tội ác của chủ nghĩa thực dân Pháp ở các
nước thuộc địa, đồng thời tiến hành tuyên truyền chủ nghĩa Mác –
Lênin, xây dựng mối quan hệ gắn bó giữa những người cộng sản
và nhân dân lao động Pháp với các nước thuộc địa và phụ thuộc.
* Thời gian ở Liên Xô:
Tháng 6/1923 Nguyễn Aí Quốc bí mật rời khỏi nước Pháp và sang
Liên Xô. Tháng 10/1923 Nguyễn Aí Quốc tham dự Hội nghị Quốc
tế Nông dân lần thứ I ở Liên Xô và được bầu vào Ban chấp hành,
tiếp đó Người vừa hoạt động vừa nghiên cứu, học tập, làm việc ở
trụ sở Quốc tế cộng sản (Bộ phương Đông), viết bài cho báo Sự
thật, tạp chí Thư tín quốc tế và một số sách báo khác…Đặc biệt
từ ngày 17/6 đến ngày 8/7/1924, Người đã tham dự Đại hội lần thứ
V của quốc tế cộng sản. Tại Đại hội này Người đã trình bày lập
trường, quan điểm của mình về vị trí chiến lược của cách mạng
các nước thuộc địa; về mối quan hệ giữa phong trào công nhân ở
các nước đế quốc vói phong trào cách mạng ở các nước thuộc
địa; về vai trò và sức mạnh to lớn của giai cấp nông dân ở các
nước thuộc địa. Bản tham luận của Người đã gây chú ý dư luận tại
Đại hội, góp phần đưa cách mạng Việt Nam ngày càng gắn bó
chặt chẻ và trở thành một bộ phận khăng khít của phong trào cách
mạng vô sản thế giới.
Có thể nói thời gian hoạt động ở Liên Xô là thời gian mà Nguyễn
Aí Quốc tiếp tục phát triển và hoàn chỉnh thêm tư tưởng về cách
mạng giải phóng dân tộc, thông qua nghiên cứu thực tiễn và học
tập trong các sách báo mác xít. Nội dung tư tưởng chính trị của
Người trong những năm 20 bao gồm những điểm chủ yếu như
sau:
1. Người chỉ rõ bản chất của chủ nghĩa thực dân là “ăn cướp” và
“giết người’’. Vì vậy, chủ nghĩa thực dân là kẻ thù chung của các
dân tộc thuộc địa, của giai cấp công nhân và nhân dân lao động
trên thế giới.
2. Cách mạng dân tộc là một bộ phận của cách mạng vô sản thế
giới. Cách mạng giải phóng dân tộc phải thực hiện đoàn kết và
liên minh với các lực lượng cách mạng quốc tế. Phải gắn liền sự
nghiệp giải phóng dân tộc với giải phóng nhân dân lao động và
giai cấp công nhân. Người nói: “Chỉ có giải phóng giai cấp vô sản
- thì mới giải phóng được dân tộc, cả hai cuộc giải phóng này chỉ có
thể là sự nghiệp của chủ nghĩa cộng sản và cách mạng thế giới”.
Người cho rằng cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa và cách
mạng vô sản ở chính quốc có mối quan hệ khăng khít biện chứng
với nhau, nhưng không phụ thuộc vào nhau. Cách mạng giải
phóng dân tộc có thể bùng nổ và giành thắng lợi trước cách mạng
vô sản ở chính quốc. Ở đây Nguyễn Aí Quốc muốn nhấn mạnh tới
vai trò tích cực chủ động của các dân tộc thuộc địa trong cuộc
đấu tranh giải phóng khỏi ách áp bức của chủ nghĩa thực dân.
3. Ở một nước nông nghiệp lạc hậu, nông dân lại là lực lượng
đông đảo nhất trong xã hội, bị đế quốc, phong kiến áp bức bóc lột
nặng nề. Vì vậy, cách mạng giải phóng dân tộc muốn giành được
thắng lợi cần phải thu phục, lôi cuốn được nông dân đi theo, cần
phải xây dựng khối liên minh công nông làm động lực của cách
mạng. Đồng thời trên cơ sở liên minh công nông phải thu hút, tập
hợp được sự tham gia rộng rải của đông đảo các giai tầng xã hội
khác vào trận tuyến đấu tranh của dân tộc.
4. Cách mạng muốn giành được thắng lợi, trước hết phải có đảng
cách mạng nắm vai trò lãnh đạo. Đảng muốn vững, phải đi theo
học thuyết Mác – Lênin. Đảng phải có đội ngũ cán bộ sẵn sàng hy
sinh chiến đấu vì mục đích của đảng, vì lợi ích và sự tồn vong của
dân tộc, vì lý tưởng giải phóng giai cấp công nhân và nhân loại.
5. Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng nhân dân, chứ không
phải việc của một vài người. Vì vậy cần phải tập hợp, giác ngộ và
từng bước tổ chức quần chúng đấu tranh từ thấp đến cao. Đây là
quan điểm cơ bản đầu tiên của Nguyễn Aí Quốc về nghệ thuật
vận động quần chúng tiến hành đấu tranh cách mạng.
Những quan điểm, tư tưởng cách mạng nói trên của Nguyễn Aí
Quốc được thể hiện trong các tác phẩm của Người, cùng với các
tài liệu khác đã được bí mật chuyển về trong nước, đến với các
tầng lớp nhân dân Việt Nam, tạo ra một xung lực mới, như một
cơn gió lạ thổi bùng lên ngọn lửa cách mạng mới, một chất men
kích thích phong trào dân tộc phát triển và nhanh chóng chuyển
mình theo xu hướng cách mạng mới của thời đại. Cũng từ đây,
nhũng gười yêu nước Việt Nam bắt đầu hướng về Nguyễn Aí
Quốc, một lãnh tụ cách mạng thiên tài đang như ngọn hải đăng
chỉ đường dẫn lối đưa toàn thể dân tộc và nhân dân đi tới độc lập,
tự do.
*Thời gian ở Trung Quốc:
Sau một thời gian ở Liên Xô để học tập và nghiên cứu kinh nghiệm
xây dựng đảng kiểu mới, Nguyễn Aí Quốc đã lên đường về tới
Quảng Châu. Vào cuối 1924 Nguyễn Aí Quốc đã tiếp xúc với các
- nhà cách mạng Việt Nam ở đây, nhất là nhũng thanh niên hăng hái
trong tổ chức Tâm tâm xã để tiến tới thành lập Hội Việt Nam cách
mạng thanh niên (6/1925) với nhóm Cộng sản đoàn làm nòng cốt
rồi truyền bá chủ nghĩa Mác – Lênin vào Việt Nam chuẩn bị cho
việc thành lập chính đảng của giai cấp công nhân Việt Nam,
Người sáng lập tuần báo Thanh niên làm cơ quan tuyên truyền
của Hội.
Có thể nói rằng Nguyễn Aí Quốc là người đã nhìn thấy yêu cầu
cấp bách của cách mạng Việt Nam lúc này là cần phải có tổ chức
để chuẩn bị cho những bước sắp đến. Tuy nhiên tổ chức này chưa
phải là Đảng cộng sản mà trên cơ sở nhóm Cộng sản đoàn bao
gồm những thành viên tích cực và trung kiên của Tâm tâm xã đễ
thành lập một tổ chức cách mạng có tính chất quần chúng rông rãi
hơn đó là Hội Việt Nam cách mạng thanh niên.
Sau khi đưa những thanh niên yêu nước Việt Nam vào Hội Việt
Nam cách mạng thanh niên, Nguyễn Aí Quốc đã trực tiếp mở
nhiều khóa huấn luyện chính trị nhằm đào tạo đội ngũ cán bộ cốt
cán cho cách mạng Việt Nam. Từ 1924 – 1927 đã đào tạo được 75
hội viên. Một số được cử đi học ở trường Đại học Phương Đông
(Liên Xô), một số đi học ở các trường quân sự ở Trung Quốc, Liên
Xô…,còn phần lớn trở về nước hoạt động. Trong đó Người vừa tổ
chức lớp học, vừa biên soạn tài liệu giảng dạy, vừa là giáo viên
trực tiếp truyền đạt những nội dung học tập. Các bài giảng của
Nguyễn Aí Quốc về sau được tập hợp trong cuốn Đường cách
mệnh (1927).
Đây là tài liệu nhằm chuẩn bị cho những người yêu nước Việt Nam
những quan điểm cơ bản về chiến lược và sách lược của cách
mạng giải phóng dân tộc Việt Nam.
Trong tác phẩm này, Nguyễn Aí Quốc đã vạch ra những phương
hướng cơ bản về chiến lược và sách lược của cách mạng giải
phóng dân tộc ở Việt Nam, mở đường cho sự du nhập của chủ
nghĩa Mác – Lênin và sự hình thành chính đảng vô sản ở trong
nước.
Từ tác phẩm toát ra một yêu cầu cấp thiết hành động. Ba tư tưởng
cơ bản được nêu lên: cách mạng là sự nghiệp của quần chúng
đông đảo nên phải động viên, tổ chức và lãnh đạo quần chúng
nhân dân vùng dậy đánh đổ các giai cấp áp bức, bóc lột; cách
mạng phải có đảng của chủ nghĩa Mác – Lênin lãnh đạo; cách
mạng trong nước cần phải đoàn kết với giai cấp vô sản thế giới và
là một bộ phận của cách mạng thế giới. Mục đích của cuốn sách
là để nói cho đồng bào ta biết rõ: “Vì sao chúng ta muốn sống thì
phải cách mệnh – Vì sao cách mệnh là việc chung cả dân chúng
chứ không phải việc riêng của một hai ngừơi. Đem lịch sử cách
mệnh các nước làm gương cho chúng ta soi. Đem phong trào thế
- giới nói cho đồng bào ta rõ Ai là bạn ta ? Ai là thù ta ? Cách mệnh
thì phải làm thế nào ?
Hoạt động của Nguyễn Aí Quốc đã có tác dụng tích cực đến
phong trào cách mạng trong nước. Từ năm 1926 Hội Việt Nam
cách mạng thanh niên đã xây dựng nhiều cơ sở ở nhiều trung tâm
kinh tế, chính trị quan trọng, số lượng hội viên tăng lên nhanh từ
300 người (1928) lên đến 1700 người (1929). Đến đầu 1929 Hội
đã có cơ sở hầu khắp cả nước rồi các tổ chức đoàn thể quần
chúng của Hội cũng lần lượt ra đời. Đặc biệt phong trào vô sản
hóa của Hội từ 1928 trở đi đã góp phần thực hiện việc kết hợp chủ
nghĩa Mác – Leenin với phong trào công nhân và phong trào yêu
nước thúc đẩy nhanh tiến trình hình thành Đảng cộng sản ở Việt
Nam.
Đến giữa 1929 nhu cầu thành lập tổ chức cộng sản chín muồi,
Tân Việt cách mạng đảng có sự phân hóa và chuyển mình theo
khuynh hướng cộng sản. Trước yêu cầu bức thiết của cách mạng.
Tháng 3/1929 chi bộ cộng sản đầu tiên ở Việt Nam được thành
lập, để rồi từ tháng 6 – 9/1929 lần lượt 3 tổ chức cộng sản nối tiếp
nhau xuất hiện là: Đông Dương Cộng sản đảng, An Nam Cộng
sản đảng, Đông Dương Cộng sản liên đoàn taọ tiền đề trực tiếp
cho sự ra đời của chính đảng vô sản ở Việt Nam.
Thứ Tư, Nguyễn Aí Quốc là người có công lao to lớn trong việc
thành lập Đảng cộng sản Việt Nam:
Sự xuất hiện của 3 tổ chức cộng sản vào nữa sau 1929 ở Việt
Nam lúc bấy giờ là một xu thế tất yếu của cách mạng Việt Nam,
nhưng vì cả 3 tổ chức đều hoạt động riêng lẻ, công kích lẫn nhau,
tranh giành địa bàn lẫn nhau nên đã gây trở ngại lớn cho phong
trào cách mạng. Vì vậy, yêu cầu bức thiết của cách mạng Việt
Nam lúc này là phải có một Đảng cộng sản thống nhất trong cả
nước để lãnh đạo cách mạng.
Đúng vào thời điểm khó khăn phức tạp đó, lãnh tụ Nguyễn Aí
Quốc đã xuất hiện như một vị cứu tinh của cách mạng và phong
trào cộng sản Việt Nam.
Với tư cách là phái viên của Quốc tế cộng sản. Nguyễn Aí Quốc
có quyền quyết định mọi vấn đề của phong trào cách mạng Đông
Dương. Người quyết tâm thống nhất các lực lượng cộng sản ở
Việt Nam để thành lập một Đảng cộng sản duy nhất. Được sự ủy
nhiệm của Quốc tế cộng sản Nguyễn Aí Quốc đã triệu tập hội
nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản thành một Đảng cộng sản
duy nhất ở Việt Nam diễn ra từ ngày 03 – 07/02/1930 tại Hương
Cảng (Trung Quốc)
Hội nghị gồm có 5 đại biểu, hai đại biểu của Đông Dương Cộng
- sản đảng (Trịnh Đình Cửu, Nguyễn Đức Cảnh), hai đại biểu của
An Nam Cộng sản đảng (Châu Văn Liêm, Nguyễn Thiệu) và
Nguyễn Aí Quốc đại diện cho Quốc tế cộng sản chủ trì cuộc họp.
Sau 5 ngày làm việc khẩn trương, với uy tín của Người và yêu cầu
của cách mạng Việt Nam, các đại biểu tham gia hội nghị đã nhất
trí tán thành việc hợp nhất Đông Dương Cộng sản đảng và An
Nam Cộng sản đảng thành Đảng Cộng sản Việt Nam, đồng thời
thông qua Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Chương trình
tóm tắt và Điều lệ tóm tắt của Đảng do Nguyễn Aí Quốc soạn
thảo.
Sau hội nghị hợp nhất đảng, ngày 24/02/1930 Đông Dương Cộng
sản Liên đoàn xin gia nhập vào Đảng Cộng sản Việt Nam và đã
được Ban chấp hành Trung Ương lâm thời đồng ý. Như vậy trên
thực tế đến ngày 24/02/1930 thì ba tổ chức cộng sản ở nước ta đã
được thống nhất thành Đảng Cộng sản Việt Nam.
Bản Chính cương vắn tắt và Sách lược vắn tắt của Đảng khẳng
định Đảng Cộng sản Việt Nam “ là đội tiên phong của vô sản giai
cấp”. Đảng chủ trương tiến hành “tư sản dân quyền cách mạng và
thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”.
Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam là kết quả của sự kết hợp
giữa chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng cách mạng tiên tiến của thời
đại với phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam…
Sự ra đời của Đảng ngày 3/2/1930 đã chấm dứt tình trạng khủng
hoảng đường lối cứu nước ở Việt Nam trong mấy chục năm qua.
Đây là khâu chuẩn bị quan trọng đầu tiên cho một thời kỳ đấu
tranh mới trong lịch sử dân tộc.
Như vậy Nguyễn Ái Quốc là người đã đứng ra triệu tập Hội nghị
hợp nhất các tổ chức cộng sản thành một đảng duy nhất lấy tên là
Đảng Cộng sản Việt Nam, nhưng cũng chính Nguyễn Aí Quốc là
người đã soạn thảo ra Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt,
Chương trình vắn tắt và Điều lệ vắn tắt của Đảng.
Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt do lãnh tụ Nguyễn Aí
Quốc khởi thảo và thông qua tại Hội nghị đã vạch ra phương
hướng phát triển cơ bản của cách mạng Việt Nam, từ cách mạng
giải phóng dân tộc tiến lên cách mạng XHCN. Đường lối đó là kết
quả của sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa chủ nghĩa yêu nước và
chủ nghĩa quốc tế vô sản, giữa tư tưởng của chủ nghĩa cộng sản
và thực tiễn cách mạng Việt Nam. Những văn kiện đó được xem là
cương lĩnh đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam, đặt nền móng
vững chắc cho con đường cách mạng của dân tộc dưới sự lãnh
đạo của Đảng.
- Như vậy, có thể nói rằng công lao của Nguyễn Aí Quốc đối với
cách mạng Việt Nam là rất lớn, nhất là giai đoạn trước năm 1930.
Nguyễn Aí Quốc là người đã tìm ra con đường cứu nước đúng đắn
cho dân tộc – con đường cách mạng vô sản; tích cực truyền bá
chủ nghĩa Mác – Lênin vào nước ta nhằm chuẩn bị mọi mặt về tư
tưởng chính trị cho việc thành lập chính đảng vô sản ở Việt Nam,
đặc biệt chính Người đã chủ trì Hội nghị hợp nhất các tổ chức
cộng sản ở Việt Nam để thành lập nên Đảng Cộng sản Việt Nam
đồng thời xác định đúng đắn đường lối cách mạng, thể hiện trong
Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Chương trình vắn tắt,
Điều lệ vắn tắt của Đảng do Người khởi thảo. Đó dược xem là
cương lĩnh cách mạng đúng đắn của Đảng có tác dụng chỉ đạo
xuyên suốt đường lối cách mạng Việt Nam, đưa cách mạng Việt
Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.
nguon tai.lieu . vn