Xem mẫu

  1. PHÁT TRIỂN KINH TẾ TƯ NHÂN Ở HẢI PHÒNG - VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN 129 VAI TRÒ CỦA KINH TẾ TƯ NHÂN TRONG NỀN KINH TẾ NƯỚC TA HIỆN NAY ThS. Nguyễn Thị Lan Minh Khoa Lý luận Chính trị, Trường Đại học Hải Phòng Tóm tắt: Kinh tế tư nhân hiện nay đang đóng vai trò ngày càng quan trọng, đóng góp không nhỏ vào sự phát triển chung của nền kinh quốc dân. Cùng với sự thừa nhận và mở rộng hành lang pháp lý cho khu vực kinh tế tư nhân, Đảng ta đã đưa ra nhiều quan điểm, chính sách phát triển kinh tế tư nhân kể từ khi đổi mới đến nay. Để đạt được mục tiêu đặt ra cũng như tạo điều kiện thuận lợi cho khu vực kinh tế tư nhân trở thành một động lực quan trọng trong phát triển kinh tế, cần thực hiện đồng bộ các giải pháp đến từ nhiều phía. Từ khóa: kinh tế, kinh tế tư nhân, vai trò, động lực THE ROLE OF PRIVATE ECONOMIC SECTOR IN THE VIETNAMESE CONTEMPORARY ECONOMY Abstract: The private economy has played an increasingly important role, contributed significantly to the development of the national economy. Communist Party has admited and widen legal corridor for the private sector, made many points and policies for private economy development since the renovation untill now. In order to achieve the set goals and create favorable conditions for the private sector to become an important driving force in economic development, it is necessary to synchronize solutions from many sides. Keywords: economy, private economy, role, motivation 1. ĐẶT VẤN ĐỀ Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, việc phát triển kinh tế tư nhân là một nhân tố không chỉ bảo đảm cho việc duy trì tốc độ tăng trưởng GDP cao, tạo nguồn thu cho ngân sách nhà nước mà còn tham gia vào giải quyết hàng loạt những vấn đề xã hội như: tạo việc làm, xóa đói, giảm nghèo, phát triển nguồn nhân lực,… Trong bối cảnh ngân sách nhà nước gặp khó khăn, cùng với đó là xu hướng suy giảm của dòng vốn ngoại thì những chính sách khuyến khích khu vực tư nhân tham gia đầu tư là rất cần thiết. 2. NỘI DUNG 2.1. Lý luận chung về kinh tế tư nhân Hiểu một cách khái quát chung, kinh tế tư nhân là khu vực kinh tế nằm ngoài quốc doanh (ngoài khu vực kinh tế nhà nước), bao gồm các doanh nghiệp trong và ngoài nước, trong đó tư nhân nắm trên 50% vốn đầu tư. Kinh tế tư nhân là tất cả các cơ sở sản xuất kinh doanh không dựa trên sở hữu nhà nước về các yếu tố của quá trình sản xuất.
  2. 130 LÝ LUẬN CHUNG VỀ KINH TẾ TƯ NHÂN Ở VIỆT NAM Hiểu ở cấp độ hẹp, kinh tế tư nhân là khu vực kinh tế gắn liền với loại hình sở hữu tư nhân, bao gồm kinh tế cá thể, tiểu chủ và kinh tế tư bản tư nhân dựa trên sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất. Kinh tế tư nhân tồn tại dưới các hình thức như: doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần và các hộ kinh doanh cá thể. Về lĩnh vực sản xuất kinh doanh: Kinh tế tư nhân bao gồm những hộ gia đình, doanh nghiệp tư nhân tham gia vào các hoạt động sản xuất kinh doanh như nông nghiệp, công nghiệp, giao thông vận tải, xây dựng, chế biến nông lâm sản, đánh bắt và chế biến thuỷ sản, thương mại và dịch vụ du lịch. Về mô hình tổ chức: Kinh tế tư nhân gồm các hộ kinh doanh cá thể và các doanh nghiệp tư nhân (công ty Trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, công ty hợp danh). N goài ra gồm cả phần đầu tư của tư nhân vào khu vực kinh tế nhà nước, doanh nghiệp nhà nước, các tổ chức kinh tế thuộc nhà nước, kinh tế tập thể (hợp tác xã), kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Đặc trưng mang tính bản chất của những doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân là họ sử dụng nguồn vốn của chính họ và có quyền được hưởng thành quả lao động mà họ làm ra. N guyên tắc hoạt động của các doanh nghiệp tư nhân được khái quát thành nguyên tắc “bốn tự” là: tự bỏ vốn, tự tổ chức, tự làm chủ trong dinh doanh và tự bù lỗ. 2.2. Quan điểm, chủ trương của Đảng về phát triển kinh tế tư nhân kể từ khi đổi mới đến nay Từ khi thực hiện đường lối đổi mới, Đảng ta có chủ trương nhất quán là phát triển kinh tế nhiều thành phần. Đảng ta đã khẳng định: Kinh tế tư nhân là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế quốc dân. Phát triển kinh tế tư nhân là vấn đề chiến lược lâu dài trong phát triển nền kinh tế nhiều thành phần định hướng xã hội chủ nghĩa, góp phần quan trọng thực hiện thắng lợi nhiệm vụ trung tâm là phát triển kinh tế, công nghiệp hóa, hiện đại hóa, nâng cao nội lực của đất nước trong hội nhập kinh tế quốc tế. Bắt đầu từ Đại hội VI (12-1986), nền kinh tế nhiều thành phần đã được thừa nhận chính thức trong văn kiện Đảng. Đại hội VI khẳng định “Cần sửa đổi, bổ sung và công bố rộng rãi chính sách nhất quán đối với các thành phần kinh tế... Xóa bỏ những thành kiến thiên lệch...” [3, tr58]. Ở Văn kiện Đại hội VI, trong khi khẳng định cần phải: “Củng cố thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa bao gồm cả khu vực quốc doanh và khu vực tập thể một cách toàn diện” thì Đảng ta cũng đã nhận ra sự cần thiết: “Bằng những biện pháp thích hợp, sử dụng mọi khả năng của các thành phần kinh tế khác trong sự liên kết chặt chẽ và dưới sự chỉ đạo của thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa”[5, tr41]. Tuy nhiên lúc này, kinh tế tư nhân vẫn được coi là đối tượng phải “cải tạo”, bằng những hình thức và bước đi thích hợp, tránh chủ quan nóng vội: “cần có chính sách sử dụng và cải tạo đúng đắn các thành phần kinh tế khác” [5, tr53]. Tiếp tục tư tưởng của Đại hội VI, Đại hội VII (6-1991) Đảng ta đã đưa ra quan điểm rõ ràng hơn về việc khuyến khích và tạo điều kiện cho kinh tế tư nhân phát triển. Văn kiện Đại hội VII khẳng định: “Kinh tế tư nhân được phát triển, đặc biệt trong lĩnh vực sản xuất,
  3. PHÁT TRIỂN KINH TẾ TƯ NHÂN Ở HẢI PHÒNG - VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN 131 theo sự quản lý, hướng dẫn của N hà nước” [5, tr 333] và “Mọi người được tự do kinh doanh theo pháp luật, được bảo hộ quyền sở hữu và thu nhập hợp pháp” [5, tr374]. N hư vậy, từ chỗ coi kinh tế tư bản tư nhân là một thành phần kinh tế “tàn dư” của chế độ xã hội cũ, có thể sử dụng nhưng cần “cải tạo” bằng những bước đi thích hợp, Đại hội VII đã thực sự coi kinh tế tư nhân là một thành phần kinh tế độc lập, có tiềm năng phát triển và đóng góp cho sự phát triển kinh tế đất nước nói chung. Chính vì thế, Hội nghị Trung ương 2 khóa VII đã nêu chủ trương: “Bổ sung và sửa đổi thể chế nhằm bảo đảm cho tập thể, cá thể và tư nhân được phát triển không hạn chế về quy mô và địa bàn hoạt động trong những lĩnh vực mà pháp luật không cấm; được tự lựa chọn hình thức kinh doanh, kể cả liên doanh với nước ngoài theo những điều kiện do luật định” [1, tr. 542 - 543]. Đại hội VIII (6-1996) tiếp tục khẳng định “thực hiện nhất quán, lâu dài chính sách này, khuyến khích mọi doanh nghiệp, cá nhân trong và ngoài nước khai thác các tiềm năng, ra sức đầu tư phát triển, yên tâm làm ăn lâu dài, hợp pháp, có lợi cho quốc kế dân sinh, đối xử bình đẳng với mọi thành phần kinh tế trước pháp luật, không phân biệt sở hữu và hình thức tổ chức kinh doanh”[6, tr. 622 - 623]. Văn kiện Đại hội VIII khẳng định việc đối xử bình đẳng với mọi thành phần kinh tế, đồng thời cần tạo điều kiện kinh tế và pháp lý thuận lợi để các nhà kinh doanh tư nhân yên tâm đầu tư làm ăn lâu dài. Trong Văn kiện Đại hội IX (1-2001), Đảng ta khẳng định về vị trí, vai trò của kinh tế tư bản tư nhân là thành phần kinh tế có vị trí quan trọng lâu dài trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN : “Kinh tế tư bản tư nhân được khuyến khích phát triển không hạn chế về quy mô trong những ngành, nghề, lĩnh vực và địa bàn mà pháp luật không cấm” [7, tr149]. Đến Đại hội IX, quan điểm của Đảng ta đã có bước nhìn nhận mới: “Tạo môi trường kinh doanh thuận lợi về chính sách, pháp lý để kinh tế tư bản tư nhân phát triển trên những hướng ưu tiên của N hà nước, kể cả đầu tư ra nước ngoài; chuyển thành doanh nghiệp cổ phần, bán cổ phần cho người lao động; liên doanh liên kết với nhau với kinh tế tập thể và kinh tế nhà nước” [2, tr11]. Cụ thể hóa quan điểm của Đại hội IX, Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khóa IX (năm 2002) thông qua N ghị quyết “Về tiếp tục đổi mới cơ chế, chính sách, khuyến khích, tạo điều kiện phát triển kinh tế tư nhân”. Đây là lần đầu tiên kể từ khi đổi mới, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương có một nghị quyết chuyên đề về kinh tế tư nhân. N ghị quyết tiếp tục khẳng định: Kinh tế tư nhân là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế quốc dân. Phát triển kinh tế tư nhân là vấn đề chiến lược lâu dài trong phát triển nền kinh tế nhiều thành phần định hướng XHCN . Trên cơ sở nhận định về thực trạng kinh tế tư nhân, N ghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khóa IX thống nhất chủ trương và đề ra các giải pháp cụ thể nhằm tạo môi trường kinh doanh thuận lợi về chính sách, pháp lý và tâm lý xã hội để các doanh nghiệp của tư nhân phát triển rộng rãi trong những ngành, nghề sản xuất, kinh doanh mà pháp luật không cấm, không hạn chế về quy mô, nhất là trên những định hướng ưu tiên của N hà nước. Đại hội X (4-2006) của Đảng tiếp tục xác định vị trí và định hướng phát triển các thành phần kinh tế chủ yếu. Trong đó, kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, là lực lượng
  4. 132 LÝ LUẬN CHUNG VỀ KINH TẾ TƯ NHÂN Ở VIỆT NAM vật chất quan trọng để N hà nước định hướng và điều tiết nền kinh tế đất nước, tạo môi trường và điều kiện thúc đNy các thành phần kinh tế cùng phát triển. Kinh tế tư nhân có vai trò quan trọng, là một trong những động lực của nền kinh tế. Lần đầu tiên, vấn đề đảng viên làm kinh tế tư nhân được Đảng ta chính thức nêu ra và có quy định cụ thể. Hội nghị Trung ương 3 khóa X đã thảo luận và thông qua “Quy định đảng viên làm kinh tế tư nhân”. Quy định này cho thấy Đảng ta rất thận trọng nhưng cũng đã mở đường cho đảng viên được kinh doanh hợp pháp. Cho phép đảng viên làm kinh tế tư nhân chính là huy động, phát huy tiềm năng của mọi người dân, trong đó có đội ngũ đảng viên, tạo động lực để thúc đNy phát triển kinh tế - xã hội. Tại Đại hội X, Đảng có những khẳng định mới về vai trò của kinh tế tư nhân khi coi kinh tế tư nhân là bộ phận cấu thành không thể thiếu, có vị trí quan trọng đặc biệt và ý nghĩa chiến lược trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đồng thời, khuyến khích thành phần kinh tế này phát triển mạnh mẽ hơn nữa trong những năm tiếp theo của công cuộc đổi mới đất nước. Đại hội XI (01/2011) của Đảng tiếp tục xác định phải hoàn thiện cơ chế, chính sách để phát triển mạnh kinh tế tư nhân trở thành một trong những động lực của nền kinh tế. Có thể thấy, quan niệm coi kinh tế tư nhân là “một trong những động lực của nền kinh tế” trong hai kỳ Đại hội X và XI phản ánh bước tiến mới trong tư duy của Đảng về vị trí, vai trò của kinh tế tư nhân trong nền kinh tế nước ta. Đại hội XII (01/2016) so với các kỳ đại hội trước là sự khẳng định mạnh mẽ, dứt khoát hơn của Đảng khi coi kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng của nền kinh tế. Văn kiện Đại hội XII nhấn mạnh việc: “Hoàn thiện cơ chế, chính sách khuyến khích, tạo thuận lợi phát triển mạnh kinh tế tư nhân ở hầu hết các ngành và lĩnh vực kinh tế, trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế. Hoàn thiện chính sách hỗ trợ phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa, doanh nghiệp khởi nghiệp. Khuyến khích hình thành các tập đoàn kinh tế tư nhân đa sở hữu và tư nhân góp vốn vào các tập đoàn kinh tế nhà nước” [4, tr. 107 - 108]. Hội nghị lần thứ 5 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII tiếp tục xác định rõ việc phát triển mạnh khu vực kinh tế tư nhân Việt N am cả về số lượng, chất lượng, thực sự là một động lực quan trọng trong phát triển kinh tế. 2.3. Vai trò của kinh tế tư nhân và giải pháp nhằm phát triển kinh tế tư nhân trong giai đoạn hiện nay Việc nhận thức đúng vị trí, vai trò của kinh tế tư nhân trong chính sách phát triển nền kinh tế nhiều thành phần của Đảng ta nên kinh tế tư nhân đã không ngừng lớn mạnh, trở thành một trong những nhân tố chính tạo nên sự tăng trưởng kinh tế nhanh. Khu vực kinh tế tư nhân đã góp phần xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp, thúc đNy lực lượng sản xuất phát triển. Khu vực kinh tế tư nhân phát triển làm cho các quan hệ sở hữu của nền kinh tế nước ta trở nên đa dạng hơn. Sự biến đổi của quan hệ sản xuất sẽ kéo theo sự biến đổi của quan hệ sản xuất trong quản lý và phân phối làm cho quan hệ sản xuất trở nên linh hoạt, phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất vốn còn thấp và phát triển không đều giữa các vùng, các ngành trong cả nước ngay sau khi đổi mới.
  5. PHÁT TRIỂN KINH TẾ TƯ NHÂN Ở HẢI PHÒNG - VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN 133 Khu vực kinh tế tư nhân góp phần thu hút vốn nhàn rỗi của xã hội và sử dụng tối ưu các nguồn lực của địa phương. Vì việc thành lập các doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân không đòi hỏi quá nhiều về vốn, mặt khác kinh tế tư nhân thường có quy mô vừa và nhỏ lại được phân tán ở hầu hết các địa phương nên khả năng sử dụng các tiềm lực về lao động, kinh nghiệm sản xuất và các ngành nghề truyền thống dễ dàng hơn. Khu vực kinh tế tư nhân dã đóng góp không nhỏ vào nguồn thu ngân sách nhà nước. Theo Bộ Kế hoach- Đầu tư, đóng góp vào ngân sách N hà nước của khu vực doanh nghiệp năm 2017 đạt 954.100 tỷ đồng, tăng 11% so với năm 2016. Đáng chú ý, doanh nghiệp ngoài nhà nước đóng góp nhiều nhất cho ngân sách nhà nước với 407.600 tỷ đồng, tăng 22% so với năm 2016; khu vực doanh nghiệp nhà nước đóng góp 280.500 tỷ đồng; khu vực FDI (doanh nghiệp tư nhân có vốn đầu tư nước ngoài) chỉ đóng góp 265.000 tỷ đồng. Khu vực kinh tế tư nhân đã có đóng góp quan trọng trong việc tăng trưởng kinh tế quốc dân. Theo bộ Kế hoạch- Đầu tư khu vực doanh nghiệp đóng góp lớn nhất vào quy mô phát triển của nền kinh tế, chiếm 60% GDP (là tổng sản phNm quốc nội- là giá trị thị trường của tất cả hàng hóa và dịch vụ cuối cùng được sản xuất ra trong phạm vi một lãnh thổ nhất định trong một thời kỳ nhất định) của toàn bộ nền kinh tế Khu vực tư nhân phát triển góp phần thu hút 1 bộ phận lớn lực lượng lao động và đào tạo nguồn nhân lực lao động mới cho thị trường lao động. Theo Bộ Thông tin và truyền thông, hầu hết các lao động đang làm việc phần lớn trong khu vực kinh tế tư nhân (chiếm tỉ lệ 85,8%); lao động làm việc trong khu vực “kinh tế N hà nước” chiếm 10,5%; còn khu vực “Có vốn đầu tư nước ngoài” chiếm một tỷ lệ rất nhỏ (3,1%). Kinh tế tư nhân đã có nhiều đóng góp vào nền kinh tế nhiều sáng kiến, đổi mới và sự đột phá được xuất phát từ những doanh nghiệp tư nhân. Hiệu quả sử dụng vốn đầu tư của khu vực kinh tế tư nhân cao hơn 1,2 lần so với mức bình quân của nền kinh tế và hơn 1,9 lần so với khu vực nhà nước. Vai trò của kinh tế tư nhân càng trở nên quan trọng hơn khi mà khoa học và công nghệ đã và đang trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Bên cạnh những đóng góp của thành phần kinh tế tư nhân thì thành phần kinh tế này cũng còn nhiều hạn chế. N ghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khóa IX chỉ ra những hạn chế, yếu kém của kinh tế tư nhân nước ta là: phần lớn có quy mô nhỏ, vốn ít, công nghệ sản xuất lạc hậu, trình độ quản lý yếu kém, hiệu quả và sức cạnh tranh yếu, ít đầu tư vào lĩnh vực sản xuất; còn có nhiều khó khăn, vướng mắc về vốn, về mặt bằng sản xuất, kinh doanh, về môi trường pháp lý và môi trường tâm lý xã hội. Tốc độ tăng trưởng của kinh tế tư nhân đang có xu hướng giảm, từ 11,93%/năm (2003-2010) xuống 7,54%/năm (2011-2015). Kinh tế tư nhân chưa đáp ứng được vai trò động lực quan trọng của nền kinh tế. Trình độ quản trị, năng lực tài chính, chất lượng sản phNm, cạnh tranh yếu; khả năng liên kết và tham gia chuỗi giá trị còn nhiều hạn chế; tình trạng gian lận thương mại, cạnh tranh không lành mạnh vẫn phổ biến. Mặt khác kinh tế nước ta đặt mục tiêu phấn đấu có ít nhất 1 triệu doanh nghiệp (năm 2020), hơn 1,5 triệu doanh nghiệp (năm 2025) và có ít nhất 2 triệu doanh nghiệp (năm 2030). Tốc độ tăng trưởng của kinh tế tư nhân cao hơn tốc độ tăng trưởng chung của nền kinh tế. Phấn đấu
  6. 134 LÝ LUẬN CHUNG VỀ KINH TẾ TƯ NHÂN Ở VIỆT NAM tăng tỷ trọng đóng góp của khu vực kinh tế tư nhân vào GDP để đạt khoảng 50% GDP (năm 2020), khoảng 55% GDP (năm 2025) và 60 - 65% GDP (năm 2030). Để đạt được mục tiêu đặt ra cũng như tạo điều kiện thuận lợi cho khu vực kinh tế tư nhân trở thành động lực quan trọng trong phát triển kinh tế, cần thực hiện đồng bộ các giải pháp sau: Thứ nhất, tiếp tục thay đổi nhận thức về kinh tế tư nhân. Cần có sự thống nhất nhận thức trong xã hội về khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi để phát triển kinh tế tư nhân. Xây dựng cơ chế, chính sách định hướng sự phát triển của kinh tế tư nhân; hoàn thiện hệ thống các văn bản pháp luật về kinh tế tư nhân. Sửa đổi một số cơ chế, chính sách về phát triển kinh tế tư nhân như chính sách đầu tư, tín dụng, chính sách về mặt bằng sản xuất, chính sách thuế, chính sách đào tạo, tiền lương, thu nhập và bảo hiểm xã hội... Phát huy thế mạnh và tiềm năng to lớn của kinh tế tư nhân trong phát triển kinh tế - xã hội phải đi đôi với khắc phục có hiệu quả những mặt trái, những tiêu cực phát sinh trong quá trình phát triển kinh tế tư nhân. Thứ hai, tạo lập môi trường đầu tư, kinh doanh thuận lợi cho phát triển kinh tế tư nhân. N hà nước cần đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, đNy nhanh quá trình cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng. Tiếp tục hoàn thiện cơ chế, chính sách thu hút đầu tư tư nhân vào hoạt động kinh tế tư nhân theo cơ chế thị trường. Không biến các chính sách hỗ trợ phát triển kinh tế tư nhân thành chính sách bao cấp, phục vụ "lợi ích nhóm" dưới mọi hình thức. Tạo điều kiện để kinh tế tư nhân đầu tư, phát triển sản xuất kinh doanh trong những ngành, lĩnh vực mà pháp luật không cấm, phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội quốc gia. ĐNy mạnh xã hội hóa, tạo điều kiện cho kinh tế tư nhân tham gia cung cấp dịch vụ công, tham gia vào quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Hỗ trợ kinh tế tư nhân tiếp cận, khai thác các cơ hội trong hội nhập quốc tế, mở rộng thị trường, đNy mạnh đầu tư và thương mại quốc tế. Tạo điều kiện để kinh tế tư nhân phát triển, nâng cao năng lực từng bước tham gia sâu, vững chắc vào chuỗi giá trị khu vực và toàn cầu. Thứ ba, hỗ trợ kinh tế tư nhân đổi mới sáng tạo, hiện đại hóa công nghệ và phát triển nguồn nhân lực, nâng cao năng suất lao động. Khuyến khích, hỗ trợ kinh tế tư nhân đầu tư vào các hoạt động nghiên cứu và phát triển. Chuyển giao công nghệ tiên tiến. Bảo đảm thực thi hiệu quả pháp luật về sở hữu trí tuệ. Phát triển các quỹ hỗ trợ đổi mới sáng tạo và ứng dụng công nghệ. Áp dụng chính sách thuế, hỗ trợ tài chính, tiếp cận các nguồn vốn ưu đãi phù hợp với hoạt động nghiên cứu, đổi mới, hiện đại hóa công nghệ. ĐNy mạnh thực hiện chiến lược quốc gia về phát triển nguồn nhân lực. N âng cao chất lượng giáo dục, đào tạo, đặc biệt là đào tạo nghề, đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao để đáp ứng đủ nhu cầu số lượng và chất lượng nhân lực cho phát triển kinh tế tư nhân. Tăng cường hợp tác, liên kết chặt chẽ giữa doanh nghiệp và cơ sở đào tạo. Phát triển đào tạo theo nhu cầu sử dụng của doanh nghiệp và thị trường. Chú trọng đào tạo, bồi dưỡng và phát triển đội ngũ doanh nhân có trình độ chuyên môn cao, kỹ năng quản lý hiện đại, đạo đức kinh doanh và tinh thần trách nhiệm cao.
  7. PHÁT TRIỂN KINH TẾ TƯ NHÂN Ở HẢI PHÒNG - VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN 135 Thứ tư, nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước. Cần xây dựng khung pháp lý tạo điều kiện thuận lợi hơn, bình đẳng hơn cho các doanh nghiệp tư nhân phát triển. N âng cao năng lực xây dựng và tổ chức thực hiện có hiệu quả pháp luật, chính sách, tạo môi trường đầu tư kinh doanh thuận lợi, an toàn cho kinh tế tư nhân phát triển lành mạnh, đúng định hướng. Tăng cường hiệu quả công tác giám sát, kiểm tra, trách nhiệm giải trình của chính quyền địa phương các cấp đối với việc chấp hành chủ trương của Đảng, pháp luật của N hà nước về phát triển kinh tế tư nhân. Xử lý nghiêm minh các hành vi vi phạm pháp luật, không làm ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Đơn giản hóa, rút ngắn thời gian xử lý các thủ tục hành chính thành lập doanh nghiệp, đăng ký kinh doanh, cấp phép, thuế, giải quyết tranh chấp… Tăng cường cơ chế đối thoại có hiệu quả giữa cơ quan quản lý nhà nước với doanh nghiệp nhằm nắm bắt và xử lý kịp thời các vướng mắc liên quan đến phát triển kinh tế tư nhân. 3. KẾT LUẬN N ước ta đang ngày càng hội nhập sâu rộng cùng với nền kinh tế thế giới, tác động của cuộc cách mạng khoa học công nghệ trong thời đại ngày nay đến nền kinh tế đặc biệt là kinh tế tư nhân đặt ra nhiều vấn đề cả về chiến lược, chính sách, đầu tư, năng suất để có thể đNy nhanh quá trình tăng trưởng và phát triển của khu vực kinh tế tư nhân nói riêng và nền kinh tế quốc dân nói chung. Thấy được vị trí, vai trò của kinh tế tư nhân trong hệ thống kinh tế cả nước sẽ là cơ sở quan trọng để đưa ra những giải pháp phù hợp, kịp thời, phát huy tốt thế mạnh, tiềm lực của quốc gia, đóng góp tích cực vào chuỗi giá trị toàn cầu. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Đảng cộng sản Việt N am (1991) Văn kiện Đảng Toàn tập, N xb Chính trị quốc gia, Hà N ội. 2. Đảng cộng sản Việt N am (1991): Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, N xb Sự thật, Hà N ội. 3. Đảng cộng sản Việt N am (2010): “Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc thời kỳ đổi mới (khóa VI, VII, VIII, IX, X” (Phần I), N xb Chính trị quốc gia, Hà N ội. 4. Đảng cộng sản Việt N am (2016): Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà N ội. 5. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc thời kỳ đổi mới (khóa VI, VII, VIII, IX, X), Phần I. 6. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc thời kỳ đổi mới (khóa VI, VII, VIII, IX, X), Phần I. 7. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc thời kỳ đổi mới (khóa VI, VII, VIII, IX X), Phần II.
nguon tai.lieu . vn