Xem mẫu
- VAI TRÒ CỦA GIÁO VIÊN TRONG SỬ DỤNG
VÀ SẢN XUẤT TÀI NGUYÊN GIÁO DỤC MỞ
TS. Đậu Mạnh Hoàn1
1. BỐI CẢNH NỀN GIÁO DỤC ĐẠI HỌC VIỆT NAM
Giáo dục đại học Việt Nam luôn được Nhà nước quan tâm, đặc biệt
trong những năm gần đây. Tuy nhiên trong thực tế còn nhiều vấn đề bất
cập và cần phải giải quyết trước những yêu cầu đổi mới của đất nước
và sự phát triển về giáo dục thế giới. Quá trình toàn cầu hóa đã diễn ra
như một xu thế tất yếu trên thế giới, vì vậy công cuộc đổi mới giáo dục
đào tạo ở Việt Nam đòi hỏi phải thực sự bắt kịp với môi trường quốc
tế. Những thực trạng chính của nền giáo dục đại học Việt Nam đã được
nhiều tác giả phân tích (Nguyễn Thị Mỹ Hạnh, 2009; Vũ Minh Giang,
2013; PGS.TS. Phạm Văn Quyết, 2017) bao gồm các vấn đề cơ bản sau:
Vấn đề thứ nhất đó là nhiều trường đại học ở Việt Nam vẫn chưa
xác định được mục tiêu cụ thể, lâu dài để có chiến lược đào tạo sinh
viên. Do đó cũng chưa có giải pháp để đào tạo sinh viên một cách toàn
diện và theo kịp các nước trên thế giới. Thứ hai là về chương trình đào
tạo. Hiện nay, chương trình giáo dục đại học ở Việt Nam vẫn chưa thực
sự phát huy hiệu quả. Các trường thực hiện theo khung chương trình
của Bộ Giáo dục và Đào tạo một cách cứng nhắc, chưa chủ động biên
soạn chương trình của mình một cách linh hoạt, chương trình giáo dục
tương đối khép kín, các trường đại học cũng chưa có được chương trình
đặc thù mang thế mạnh riêng của mình. Chính điều này đã không phát
huy được thế mạnh của các trường đại học. Các chương trình đào tạo
1 Trung tâm Học liệu, Đại học Quảng Bình.
- PHẦN 1. TIẾP CẬN GIÁO DỤC MỞ VÀ TÀI NGUYÊN GIÁO DỤC MỞ 91
mang tính kiến thức cụ thể, không được cập nhật liên tục và dẫn đến lạc
hậu, chậm đổi mới.
Vấn đề thứ ba là về phương pháp giảng dạy. Hiện nay giảng viên
chủ yếu sử dụng phương pháp thuyết trình theo truyền thống. Nguyên
nhân là người giảng viên phải truyền đạt hết nội dung giáo trình cho
sinh viên theo số tiết mà Bộ Giáo dục và Đào tạo đã quy định. Quá trình
dạy và học phải bám theo chương trình. Giảng viên phải mất thời gian
và công sức để thực hiện các yêu cầu từ chương trình nên người dạy,
người học đều không còn đủ thời gian và sự quan tâm đúng mức cho
việc trau dồi tri thức, phương pháp, kỹ năng, và cập nhật tri thức mới.
Đây cũng chính là nguyên nhân dẫn đến kết quả của việc dạy và học
không gắn chặt với thực tiễn. Sự đổi mới về phương pháp giảng dạy
trong các trường đại học hiện nay chỉ mang tính hình thức thông qua
phương tiện kỹ thuật dạy học như: máy chiếu, phần mềm ứng dụng…v.v,
mà vấn đề mục tiêu giáo dục phải được đổi mới để mang tính sáng tạo
hơn, tinh thần trách nhiệm hơn thì vẫn chưa được chú trọng.
Một trong những vấn đề cần quan tâm của các trường đại học là về
phương pháp kiểm tra, đánh giá. Việc kiểm tra, đánh giá ở các trường
đại học chủ yếu được thực hiện thông qua 2 kỳ thi, vì vậy thường không
phát huy được tinh thần tự học, tự nghiên cứu của sinh viên, kết quả
mang tính hình thức và đối phó. Kết quả giáo dục còn yếu kém và bất
cập về chất lượng giáo dục, quan tâm số lượng nhiều hơn chất lượng,
nhiều yêu cầu phát triển của đất nước giáo dục chưa đáp ứng được, vị
thế giáo dục chưa thực sự là quốc sách hàng đầu.
Vấn đề thứ năm là đầu tư cho nguồn lực con người chưa thực sự
hợp lý, chưa đáp ứng kịp thời các xu thế trên thế giới. Đây là nhân tố
quan trọng hàng đầu và là nhân tố quyết định sự thành bại trong giáo
dục và đào tạo. Con người ở đây chính là tất cả đội ngũ quản lý các cấp
và những người trực tiếp thực hiện nhiệm vụ giảng dạy ở các cơ sở.
Ngoài ra, quản lý nhà nước trong giáo dục còn nhiều yếu kém, bất cập,
chậm đổi mới. Hệ thống giáo dục thiếu đồng bộ, chưa liên thông và mất
cân đối. Giáo dục chậm đổi mới, chưa theo kịp sự đổi mới trên các lĩnh
vực khác của đất nước, chưa hội nhập với quốc tế, khoa học giáo dục
- 92 XÂY DỰNG VÀ KHAI THÁC TÀI NGUYÊN GIÁO DỤC MỞ
chưa được quan tâm đúng mức, chất lượng nghiên cứu khoa học giáo
dục còn thấp.
Bối cảnh giáo dục đó đã tác động rất lớn đến sự phát triển của tài
nguyên giáo dục mở hiện nay. Bên cạnh những thuận lợi là Đảng và
Nhà nước ta đã quan tâm đến giáo dục, nền giáo dục đang từng ngày
đổi mới, hệ thống giáo dục và các trường đại học cũng đã từng bước đổi
mới, hòa nhập và phát triển. Công nghệ dạy học, ứng dụng khoa học
kỹ thuật được chú trọng và đầu tư, cơ sở vật chất được nâng cao. Công
nghệ thông tin đã thâm nhập vào mọi lĩnh vực của xã hội trong đó có
giáo dục. Các nhà quản lý đã thấy được xu thế phát triển về giáo dục
trên thế giới để cập nhật và đáp ứng kịp thời các yêu cầu của giáo dục.
Nhận thức và yêu cầu của người học ngày một nâng cao, trình độ giáo
viên giảng dạy cũng được bồi dưỡng để đáp ứng kịp thời các yêu cầu
đổi mới giáo dục. Và đặc biệt nhiều đơn vị giáo dục đã nhận ra vai trò
quan trọng của tài nguyên giáo dục mở trong công cuộc phục vụ hoạt
động dạy và học tại đơn vị mình và đã có những chính sách ban đầu để
nắm bắt và phát huy hết tiềm lực của tài nguyên giáo dục mở, đây cũng
chính là động lực để tài nguyên giáo dục mở tại Việt Nam phát triển.
Những khó khăn đối với tài nguyên giáo dục mở trong bối cảnh
hiện nay đó là sự quan tâm của ngành giáo dục bằng các chính sách
cũng như giải pháp cụ thể đến các trường đại học là chưa có. Các trường
chưa chủ động xây dựng các chính sách và giải pháp cụ thể của mình
đồng thời đề xuất lên Bộ Giáo dục và Đào tạo để thực hiện các giải pháp
đó. Cho đến thời điểm này các nước trên thế giới đã có nhiều chính
sách và giải pháp thực hiện để phát triển về tài nguyên giáo dục mở thì
chúng ta vẫn chỉ mới thâm nhập và tìm hướng đi đúng cho sự phát triển
này mà thiếu sự chủ trì của các cơ quan trong ngành giáo dục. Đội ngũ
quản lý nhiều đơn vị giáo dục còn chưa quan tâm, chưa chú trọng đến
tài nguyên giáo dục mở, và thực tế một số lượng không nhỏ giáo viên
thậm chí còn chưa biết đến tài nguyên giáo dục mở là gì. Vấn đề chậm
tiếp cận các xu thế mới trong giáo dục chính là cản trở lớn nhất để tài
nguyên giáo dục mở phát triển. Việc dạy học theo chương trình định sẵn
và ít cập nhật cũng ảnh hưởng đến sự phát triển của tài nguyên giáo dục
mở. Các trường đại học khó mạnh dạn để thay đổi chương trình phù hợp
- PHẦN 1. TIẾP CẬN GIÁO DỤC MỞ VÀ TÀI NGUYÊN GIÁO DỤC MỞ 93
với nhu cầu thực tiễn. Các trường đại học chưa có mục tiêu giáo dục
liên quan đến sự tồn tại cũng như phát triển về tài nguyên giáo dục mở.
Rất ít giáo viên nắm bắt và khai thác tài nguyên giáo dục mở vào quá
trình dạy học do đó đối tượng sinh viên cũng khó tiếp cận với những tri
thức mới qua tài nguyên giáo dục mở.
Một rào cản không nhỏ nữa là vấn đề nhận thức về bản quyền và
sự chia sẽ trong tài nguyên giáo dục của giảng viên còn rất hạn chế,
rào cản này cũng ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển của tài nguyên
giáo dục mở. Trình độ ngoại ngữ của giáo viên chưa cao cũng là một
trong những khó khăn trước mắt trong việc khai thác và phát triển học
liệu mở. Cũng trên bối cảnh đó các chính sách đầu tư về đội ngũ giáo
viên giảng dạy đang còn hạn chế, trong đó có chính sách đào tạo đội
ngũ giáo viên hiểu biết thực sự về tài nguyên giáo dục mở để đào tạo
lại những thế hệ sau về khai thác và sử dụng cũng như phát triển về tài
nguyên giáo dục mở. Chính những khó khăn trên đã ảnh hưởng không
nhỏ đến sự phát triển ban đầu cũng như phát triển bền vững của tài
nguyên giáo dục mở tại Việt Nam.
2. VAI TRÒ CỦA GIÁO VIÊN ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN CỦA TÀI NGUYÊN GIÁO DỤC MỞ
TẠI VIỆT NAM
Thuật ngữ Tài nguyên Giáo dục Mở (OER: Open Educational
Resources) đã được chính thức giới thiệu lần đầu tiên vào năm 2002 tại
một diễn đàn về tác động của chương trình học mở cho giáo dục đại học
ở các nước đang phát triển (Vietnam Open Educational Resources). Tâm
điểm của phong trào hướng tới tài nguyên giáo dục mở là ý tưởng đơn
giản và mạnh mẽ rằng kiến thức của thế giới là một lợi ích công cộng
thông qua hệ thống công nghệ nói chung và mạng toàn cầu nói riêng để
cung cấp các cơ hội cho mọi người chia sẻ, sử dụng và sử dụng lại kiến
thức. OER là những phần của kiến thức đó bao gồm các thành phần cơ
bản của giáo dục - nội dung và các công cụ cho việc giảng dạy, học tập và
nghiên cứu (Atkins, D.E., Brown, J.S., & Hammond, A.L, 2007).
Kể từ đó đến nay, OER đã được công nhận là tài liệu giáo dục và
các tài nguyên được chia sẻ công khai và tự do cho tất cả mọi người sử
dụng. OER được coi là một phương tiện chia sẻ các nguồn lực độc đáo
- 94 XÂY DỰNG VÀ KHAI THÁC TÀI NGUYÊN GIÁO DỤC MỞ
và thú vị, nó mang lại nhiều cơ hội và lợi ích cho những đối tượng tiếp
cận nó. OER áp dụng các nguyên tắc công khai - đặc biệt là quyền tự
do sử dụng kho dữ liệu số đã được tích lũy và qua đó người dùng có thể
nghiên cứu và điều chỉnh để mang lại lợi ích mới mà không hạn chế khả
năng người khác sử dụng chúng (OECD, 2007). Sự phát triển của OER
ngày càng gia tăng, một trong các yếu tố giúp OER có thể phát triển
nhanh chóng và bền vững đó chính là vai trò của giáo viên trong quá
trình sử dụng, khai thác cũng như truyền cảm hứng đối với người học
trong quá trình giảng dạy thông qua OER.
Trong giáo dục, sự thành công của bất kỳ hoạt động nào cũng đều
phụ thuộc vào đội ngũ con người, đặc biệt là vai trò của giáo viên tham
gia vào hoạt động đó. Đối với việc phát triển tài nguyên giáo dục mở
cũng vậy, đội ngũ giáo viên có vai trò vô cùng quan trọng trong việc
khai thác, sử dụng, tạo ra sản phẩm mới cũng như tuyên truyền một
cách sâu rộng đến mọi người. Sản phẩm của ngành giáo dục tác động
đến mọi hoạt động kinh tế xã hội, do đó vai trò của người giáo viên sẽ
đóng góp đáng kể cho tri thức xã hội và kết quả này cũng tác động trở
lại giúp cho nền giáo dục phát triển tốt hơn. Bản thân người giáo viên
luôn học tập, nghiên cứu, tìm tòi và học hỏi để không ngừng nâng cao
trình độ, họ nắm bắt tiếp cận với khoa học công nghệ, khai thác sử dụng
cũng như phát triển các công cụ học tập mới qua đó tạo ra các tài liệu
giảng dạy hữu ích. Khoa học công nghệ trở thành công cụ hỗ trợ đắc
lực trong các sáng kiến dạy học giúp giáo viên đạt được mục tiêu dạy
học cũng như nhiều mục tiêu khác, đồng thời tạo nên sự gắn kết giữa lý
thuyết và thực tiễn. Trong thực tế tầm quan trọng của OER cũng được
bắt nguồn từ các nguồn lực thực tế mà chúng được xem là nền tảng cho
xã hội tri thức và nền kinh tế. Vì vậy, điều quan trọng là giáo viên và
sinh viên đã tác động vào các công cụ và công nghệ làm cho tài nguyên
giáo dục mở tiếp tục phát triển mạnh hơn.
Mối quan hệ giáo viên - sinh viên - học liệu cho thấy sự tác động
trực tiếp từ giảng viên đến học liệu và gián tiếp qua sinh viên cũng
làm thay đổi quá trình phát triển của học liệu. Trong nghiên cứu của
Hylén (2009), đã chỉ ra rằng nhiều trường đại học đã sử dụng giảng viên
của mình để sản xuất tài liệu của họ và qua đó phát triển người dùng.
- PHẦN 1. TIẾP CẬN GIÁO DỤC MỞ VÀ TÀI NGUYÊN GIÁO DỤC MỞ 95
Nghiên cứu đã chỉ ra giáo viên là người khai thác và sử dụng chính của
bất kỳ nội dung hoặc tài nguyên giáo dục nào, giáo viên là nhân tố quan
trọng, cốt lõi để thúc đẩy và tạo điều kiện cho quá trình thích ứng và
khai thác sử dụng tài nguyên giáo dục mở.
Trong thời gian gần đây hàng nghìn khóa học miễn phí dưới dạng
tài nguyên giáo dục mở đã được các trường đại học có uy tín trên thế
giới tổ chức. Vì vậy, người giáo viên sẽ cần phải cân nhắc và giúp các
học sinh so sánh được các chương trình học với nhau để có sự chọn
lựa và sử dụng. Theo đó, số lượng OER đang gia tăng một cách nhanh
chóng và không ngừng phát triển. Phong trào OER đang tạo ra những
tiến bộ đáng kể trong các hoạt động giáo dục nhưng nhiều người không
biết ai là người thực sự sản xuất và tái sử dụng tất cả các OER đó.
Quá trình tạo ra sản phẩm tài nguyên giáo dục mở có thể được thực
hiện từ nhiều hướng, tài nguyên giáo dục mở có thể được tạo ra bởi các
cá nhân hay cộng đồng hoặc từ các hệ thống giáo dục chuyển xuống
tuy nhiên chất lượng của chúng vẫn hoàn toàn do người giáo viên quyết
định. Giáo viên trực tiếp khai thác sử dụng nguồn tài nguyên này nên
vai trò của giáo viên như một công cụ đánh giá các tài liệu được gia tăng
hàng ngày để phục vụ việc giảng dạy và học tập. Quá trình này trở thành
chìa khóa để xem xét một tài nguyên có đáp ứng được mục tiêu giáo dục
hay không, tài nguyên này có được công nhận và phát triển thành tài
nguyên giáo dục mở hay không. Vì vậy, giáo viên là công cụ để tạo nên
sự thành công của OER bởi vì chính họ đảm bảo cho việc sử dụng OER
để giảng dạy và hoàn thành các nhiệm vụ học tập khác. Việc sử dụng
OER đã thực sự tăng thêm tiềm năng giáo dục và nâng cao hiệu quả quá
trình học tập, giảng dạy. Qua đó làm cho việc dạy học có ý nghĩa hơn,
đa dạng hơn, chẳng hạn như làm thay đổi các hoạt động giáo dục so với
quá trình học tập truyền thống, phát triển văn hoá nghiên cứu độc lập
cho sinh viên, giúp giáo viên tiếp cận với tri thức mới phục vụ giảng
dạy và học tập. Mặt khác vai trò của giáo viên là vô cùng quan trọng cho
phong trào sử dụng và phát triển của OER. Việc mở rộng tiếp cận cũng
như tuyên truyền sử dụng OER nằm trong tay của giáo viên, vì phần lớn
trong số họ được mong đợi sử dụng OER cho mục đích phục vụ các nội
dung giảng dạy khác nhau. Hàng ngày, giáo viên cũng có nhu cầu sản
xuất OER để phục vụ cho việc giảng dạy và học tập (Perraton, H. 2010).
- 96 XÂY DỰNG VÀ KHAI THÁC TÀI NGUYÊN GIÁO DỤC MỞ
Một vấn đề đặt ra là thế hệ giáo viên hiện tại và tương lai đã có
kiến thức, kinh nghiệm sử dụng và sản xuất OER hay chưa? Từ thực tế
hiện nay cho thấy chỉ có một số ít giáo viên có kinh nghiệm tốt để có
thể phân tích và giới thiệu các OER hữu ích cho sinh viên, trong khi đó
đa số giáo viên đang giảng dạy trực tiếp lại không quen thuộc với OER.
Nguyên nhân chính đó là OER ra đời và phát triển theo phong trào tự
hỗ trợ của các cá nhân với mục đích tạo ra các cơ hội học tập mới thông
qua các công cụ và hệ thống khoa học công nghệ. Bên cạnh đó, chưa có
một cơ chế, thể chế hóa các nội dung để thúc đẩy OER phát triển trong
cộng đồng giảng dạy. Vì vậy, cần có những nỗ lực, những giải pháp để
giúp giáo viên hiểu, nhận ra tầm quan trọng của OER, đào tạo họ sử
dụng và sản xuất OER.
Để đào tạo nên đội ngũ giáo viên có năng lực và kỹ năng khai thác sử
dụng các công nghệ mới thì đòi hỏi các nhà lãnh đạo các cấp trong ngành
giáo dục phải nỗ lực hết sức bằng các hình thức khác nhau. Các trường
đại học, đặc biệt là các trường đại học sư phạm phải là những đơn vị dẫn
đầu về sự thay đổi bằng cách cung cấp cho giáo viên các chương trình
giảng dạy để làm giàu kỹ năng cho giáo viên. Phải đào tạo thế hệ giáo
viên hiện nay thành những người sử dụng thực sự và là những nhà sản
xuất của OER bằng cách cung cấp dịch vụ đào tạo với các hình thức khác
nhau. Việc đào tạo này sẽ trao quyền cho giáo viên sử dụng và sản xuất
OER, mặt khác nó sẽ hỗ trợ vận động OER phát triển và thay đổi để đáp
ứng được yêu cầu của giáo viên và như vậy nó giúp OER vượt qua được
những thách thức và phát triển bền vững. Quá trình đào tạo và tiếp cận
về OER sẽ mang lại nhiều lợi ích cho giáo viên, đào tạo sẽ giúp giáo viên
học cách sử dụng OER theo tình trạng giấy phép, và qua đó nhận thấy
rằng có một cộng đồng nhưng người khai thác sử dụng nguồn tài nguyên
giáo dục mở phong phú và đa dạng, tạo ra những thích nghi mới và làm
mới OER thông qua Internet và các dịch vụ số (Rossini, C, 2010). Đào
tạo này cho phép giáo viên xem các chương trình học mở như một phần
của một thế giới rộng lớn tri thức nhân loại.
Như vậy, có thể nói rằng giáo viên và OER tương tác lẫn nhau, hỗ trợ
cho nhau và cùng phát triển, mỗi đối tượng xem như là một nửa chỉnh
thể làm nên sự duy trì và phát triển tài nguyên giáo dục mở. Chính vì vậy
- PHẦN 1. TIẾP CẬN GIÁO DỤC MỞ VÀ TÀI NGUYÊN GIÁO DỤC MỞ 97
đào tạo giáo viên để sử dụng và sản xuất OER là một cách tiếp cận đúng
hướng để thúc đẩy sự phát triển của OER.
3. GIẢI PHÁP CHO VIỆC ĐÀO TẠO GIÁO VIÊN SỬ DỤNG VÀ SẢN XUẤT OER
Để đào tạo được đội ngũ giáo viên thành người sử dụng thực tế
đồng thời là nhà sản xuất ra tài nguyên giáo dục mở thì cần rất nhiều
nỗ lực của các cấp thuộc ngành giáo dục với các mức độ khác nhau. Ở
mức độ nền tảng đó là phải có một cơ chế đào tạo cần thiết để các giáo
viên hiện tại và tương lai nắm bắt và có kỹ năng sử dụng và sản xuất
OER. Theo Đỗ Văn Hùng (2016) “có 73% người được hỏi cho rằng vai
trò của các trường đại học sẽ ảnh hưởng đến sự thành công của OER”
(tr.98). Do đó các trường đại học phải nhận thấy rằng việc đào tạo cho
OER là một phần không thể tách rời của các chương trình đào tạo giáo
viên. Thực tiễn cho thấy nếu muốn bất kỳ công nghệ nào thành công
trong giáo dục thì đào tạo giáo viên là khách hàng đầu tiên cần biết và
nắm lấy nó. Bởi vì chỉ có giáo viên mới có thẩm quyền và có thể đảm
bảo cho việc sử dụng công nghệ mới như OER có hiệu quả.
Vấn đề ở đây là việc cung cấp các nội dung để đào tạo OER cho
giáo viên không phải là một nhiệm vụ dễ dàng. Lý do OER là sáng kiến
của một số tổ chức độc lập với hoạt động của các trường đại học, bên
cạnh đó văn hoá truyền thống của các tổ chức giáo dục đại học và cao
đẳng là chưa khuyến khích việc tạo ra, chia sẻ và tái sử dụng kiểu OER.
Vì vậy, cần xây dựng mô hình liên kết ba bên liên quan đó là các tổ chức
phát triển phong trào OER; các trường đại học và giáo viên để thống
nhất chương trình đào tạo giáo viên cho OER.
Các nội dung cốt lõi của giải pháp mà ba bên cần thống nhất thực
hiện đó là thiết kế chương trình mà có thể áp dụng cho nhiều đối tượng
khác nhau. Xây dựng các đề án đào tạo thiết thực về OER theo các
cấp độ khác nhau, xây dựng công cụ, kho tài nguyên giáo dục mở đa
phương tiện bằng tiếng Việt để học tập và giảng dạy trực tuyến đào tạo
giáo viên OER:
- 98 XÂY DỰNG VÀ KHAI THÁC TÀI NGUYÊN GIÁO DỤC MỞ
Các tổ chức
phong trào
OER
Đào tạo&
sử dụng
OER
Các trường Giáo viên
đại học
Hình 1. Mô hình liên kết ba bên
3.1. Mục tiêu
Đào tạo người sử dụng và sản xuất OER, xây dựng cộng đồng
để phát triển bền vững OER tại Việt Nam thông qua các kỹ năng sau
(Misra, Pradeep Kumar, 2012; ROER4D, 2014):
+ Giúp người giáo viên nắm được các nội dung và đối tượng của
phong trào OER như các nền tảng triết học và xã hội của OER, lịch sử
phát triển các phong trào OER, định nghĩa về các tài nguyên giáo dục
mở, giấy phép creative commons là gì,v.v...
+ Giúp người giáo viên nắm được xu hướng phát triển và thách
thức của phong trào OER như: người sử dụng và nhà sản xuất OER, các
rào cản và vấn đề phát triển bền vững, chi phí và chính sách, các vấn đề
kỹ thuật và công cụ liên quan đến khả năng tiếp cận để đóng góp cho
các hoạt động, các nguồn lực phát triển của OER.
+ Sử dụng và lợi ích của OER: Mục tiêu và lợi ích của việc sử dụng
OER là gì, OER có ý nghĩa thế nào cho giảng dạy và học tập, nâng cao
khả năng truy cập vào OER. Các điểm tương đồng trong việc sử dụng
tài liệu giảng dạy truyền thống và OER là gì? Sự khác biệt chính giữa
- PHẦN 1. TIẾP CẬN GIÁO DỤC MỞ VÀ TÀI NGUYÊN GIÁO DỤC MỞ 99
OER và các tài liệu trực tuyến khác. Tại sao nên sử dụng OER trong
quá trình giảng dạy.
+ Sản xuất OER: Nắm bắt được các công cụ và kỹ thuật của OER,
các loại giấy phép OER khác nhau, quy trình sản xuất nội dung giáo
dục mở, xuất bản và quảng bá OER để việc lưu thông rộng hơn, phát
triển hơn.
3.2. Nội dung
Đối với các tổ chức liên kết và phát triển phong trào OER (Misra,
Pradeep Kumar, 2012):
+ Xây dựng chương trình khung đào tạo giáo viên sử dụng và sản
xuất OER bao gồm cả nội dung giảng dạy và học tập.
+ Chuyển giao toàn bộ kiến thức cũng như kỹ năng sử dụng và sản
xuất OER cho các trường đại học.
+ Hỗ trợ cho các trường đại học đào tạo giáo viên thông qua việc
thúc đẩy dạy học sử dụng OER.
+ Tổ chức các các chương trình đào tạo, hội thảo, tập huấn, bồi
dưỡng để thúc đẩy OER.
+ Chia sẻ những kinh nghiệm và thực tiễn tốt nhất về OER cho các
trường đại học và giáo viên.
+ Tăng cường các nghiên cứu và triển khai những nghiên cứu dựa
trên OER trong các cơ sở giáo dục đào tạo giáo viên.
+ Xây dựng các nhóm chuyên gia có chuyên môn trong OER để hỗ
trợ cho các trường đại học.
+ Xây dựng các chương trình đào tạo OER bằng các hình thức
khác nhau, đặc biệt chú trọng đào tạo trực tuyến thông qua OER.
Đối với các trường đại học (Misra, Pradeep Kumar, 2012):
+ Cung cấp và xây dựng cơ sở hạ tầng, đầu tư kinh phí, xây dựng
cơ chế chính sách để sử dụng và phát triển OER.
+ Khuyến khích và hỗ trợ giáo viên, sinh viên sử dụng OER để
giảng dạy và thực hiện các nhiệm vụ học tập.
- 100 XÂY DỰNG VÀ KHAI THÁC TÀI NGUYÊN GIÁO DỤC MỞ
+ Mời các chuyên gia về OER để đào tạo giáo viên sử dụng OER.
Đào tạo giáo viên chủ chốt dạng chuyên gia để làm nòng cốt cho sự phát
triển OER tại đơn vị mình.
+ Tổ chức các chương trình đào tạo, tập huấn định kỳ cho giáo viên
về OER.
+ Phối hợp với các cơ sở giáo dục khác để thúc đẩy đào tạo OER
trong cộng đồng giảng dạy.
+ Chuyển đổi thư viện hoặc trung tâm học liệu thành kho tài nguyên
giáo dục mở, đặc biệt là xây dựng kho tài liệu về OER bằng tiếng Việt
để mọi đối tượng có thể sử dụng.
Đối với giáo viên (Misra, Pradeep Kumar, 2012):
+ Tham dự các chương trình đào tạo, cập nhật kiến thức, kỹ năng
về OER.
+ Tạo được sự liên kết giữa nội dung giáo dục của mình với OER,
sử dụng OER có sẵn để cải tiến quá trình dạy học của mình.
+ Thảo luận và thúc đẩy việc giảng dạy với các đồng nghiệp qua OER.
+ Sản xuất OER dựa trên nhu cầu thực tế.
+ Nghiên cứu các tác động giáo dục của OER đến dạy học.
+ Đào tạo những sinh viên của mình thành những người sử dụng
và sản xuất OER bằng nhiều hình thức khác nhau.
+ Xây dựng cộng đồng phát triển OER.
3.3. Cách thức triển khai
Các tổ chức liên kết phong trào OER đóng vai trò quan trọng cho
nhiệm vụ này. Bởi vì các tổ chức này sẽ hướng dẫn và tư vấn cho các
trường đại học và các giáo viên về những lợi ích của phong trào OER
trong dạy và học. Họ cũng là những người sẽ phát triển các chiến lược
và cung cấp các hướng dẫn, các chính sách thực tế để đưa OER vào các
chương trình giáo dục hiện tại.
Các đơn vị giáo dục và các tổ chức giáo dục đóng vai trò chủ đạo
về tiếp cận và sử dụng OER để giúp giáo viên tiếp cận cũng như sáng
- PHẦN 1. TIẾP CẬN GIÁO DỤC MỞ VÀ TÀI NGUYÊN GIÁO DỤC MỞ 101
tạo trong việc sử dụng OER phục vụ hoạt động giảng dạy. Các trường
đại học có nhiệm vụ tổ chức mạng lưới học tập, cung cấp các biện pháp
hỗ trợ để giáo viên tiếp cận các kỹ năng và phương pháp OER, khuyến
khích giáo viên đóng vai trò nòng cốt, tích cực trong việc sử dụng và
sản xuất OER. Các trường đại học đưa chương trình đào tạo nói trên vào
nội dung đào tạo sinh viên để khi ra trường tất cả các sinh viên đều có
thể sử dụng và phát triển OER.
Người giáo viên là trọng tâm của mọi hoạt động về OER do đó
giáo viên có nghĩa vụ phải tìm hiểu chính về phong trào OER và nguồn
gốc của nó; nghiên cứu làm thế nào để sử dụng và thực hiện các công
cụ OER, làm thế nào để giải quyết các vấn đề an toàn, an ninh và riêng
tư; và làm thế nào để sản xuất OER. Giáo viên sẽ nắm bắt mọi kiến thức
và kỹ năng của khóa học theo nội dung trên để từ đó làm chủ quá trình
hoạt động của mình và đào tạo lại các thế hệ sinh viên tiếp theo.
Bằng cách sử dụng nội dung đào tạo thông qua các mô-đun, các
trường đại học sẽ được yêu cầu mời các chuyên gia của OER để giảng
dạy, đào tạo trực tuyến cho giáo viên. Những chuyên gia đào tạo giáo
viên này sẽ đóng vai trò là giảng viên chính trong quá trình đào tạo
OER cho các thế hệ giáo viên tiếp theo của nội dung đã đề xuất. Ngoài
chương trình đào tạo này, các trường cũng sẽ được yêu cầu đưa giáo
viên hướng dẫn của họ đi tập huấn định kỳ ở các tổ chức giáo dục đang
sử dụng OER, chia sẻ và không ngừng học hỏi về OER.
3.4. Thời gian và phương pháp
Các phương pháp giảng dạy thông qua bài giảng, thảo luận, nghiên
cứu trường hợp sử dụng, chia sẻ, truyền thụ kinh nghiệm làm việc, thực
tế,…, sẽ được sử dụng trong quá trình đào tạo này. Các giáo viên sẽ
được dạy về các khía cạnh lý thuyết của OER. Sau khi tiếp thu kiến thức
lý thuyết, họ sẽ được giao nhiệm vụ thực tiễn, vận dụng vào thực tiễn.
Trong quá trình đào tạo, mỗi giáo viên sẽ phải tạo ra các sản phẩm OER
hữu ích và sử dụng nó trong khóa học.
Các khóa học có thể tổ chức tập trung tại chỗ hoặc cử chuyên gia
đến đào tạo hoặc tổ chức các khóa đào tạo trực tuyến. Thời gian tổ chức
- 102 XÂY DỰNG VÀ KHAI THÁC TÀI NGUYÊN GIÁO DỤC MỞ
các khóa đào tạo, bồi dưỡng, tập huấn, hội thảo một cách định kỳ theo
đặc thù của các đơn vị.
4. PHẦN KẾT LUẬN
Tài nguyên giáo dục mở ra đời và phát triển trên cơ sở mục đích
chính là sản xuất ra tài nguyên để phục vụ giáo dục, qua đó người học
tăng cường học tập, đặc biệt là hình thức tự học, tự nghiên cứu để phát
triển khả năng cá nhân cũng như các sản phẩm xã hội. Thành phần
chính của tài nguyên giáo dục mở là nội dung giáo dục, hoạt động cần
thiết là người hướng dẫn cung cấp nội dung đó và đồng ý làm cho nó
được tự do và công khai trong quá trình sử dụng.
Giáo viên chính là công cụ tốt nhất sử dụng và phát triển có hiệu
quả các công nghệ mới nổi như OER để giảng dạy và thực hiện các
nhiệm vụ giáo dục. Trong tương lai OER sẽ là phương tiện để giúp mọi
người trên toàn cầu đạt được những kiến thức và kỹ năng cần thiết phục
vụ vào mọi lĩnh vực giáo dục, chính trị, kinh tế và xã hội. Việc xây dựng
và triển khai các mô hình đào tạo giáo viên OER sẽ giúp các cơ quan
giáo dục, các trường đại học và các tổ chức xã hội phát huy vai trò của
giáo viên qua việc sử dụng và sản xuất OER, và chính những giáo viên
được đào tạo này cuối cùng sẽ đảm bảo tối đa lợi ích của phong trào
tiếp cận mở cho cá nhân và xã hội, làm thúc đẩy xã hội không ngừng
phát triển./.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Thị Mỹ Hạnh (2009), Thực trạng Giáo dục đào tạo đại học Việt
Nam. Trung tâm đánh giá và Kiểm định Chất lượng Giáo dục, Viện
Nghiên cứu Giáo dục. From http://text.123doc.org/document/1754787-
thuc-trang-giao-duc-dai-hoc-viet-nam-pot.htm.
2. GS.TSKH. Vũ Minh Giang (2013), Giáo dục Việt Nam trước đòi hỏi
đổi mới căn bản và toàn diện. Tạp chí Cộng Sản. Retrieved from https://
www.vnu.edu.vn/ttsk/inc/print.asp?N14938.
3. PGS.TS. Phạm Văn Quyết (2017). Những trăn trở cho đổi mới giáo dục đại
học Việt Nam. Báo điện tử Tầm nhìn. Retrieved from http://www.tamnhin.
net.vn/tran-tro-cho-doi-moi-giao-duc-dai-hoc-viet-nam-d1227.html.
- PHẦN 1. TIẾP CẬN GIÁO DỤC MỞ VÀ TÀI NGUYÊN GIÁO DỤC MỞ 103
4. Giới thiệu chương trình tài nguyên giáo dục mở Việt Nam VOER
(VIETNAM OPEN EDUCATIONAL RESOURCES). From http://voer.
edu.vn/content/gioi-thieu/.
5. Atkins, D.E., Brown, J.S., & Hammond, A.L. (2007). “A review of
the open educational resources (OER) movement: Achievements,
challenges, and new opportunities”. From http://www. hewlett.org/
uploads/files/ReviewoftheMovement.pdf
6. OECD. (2007). Giving Knowledge for Free-the Emergence of Open
Educational Resources. Paris: OECD.
7. Hylén, J. (2009). Mapping producers and users. In S. D’Antoni &
C. Savage (Eds.), Open Educational Resources Conversations in
Cyberspace (pp. 127-134). France: UNESCO Publications.
8. Perraton, H. (2010). Teacher education: the role of open and distance
learning. Vancouver, British Columbia: COL.
9. Rossini, C. (2010). The state and challenges of OER in Brazil: from
readers to writers? Berkman Center Research Publication No. 2010–01.
10. Đỗ Văn Hùng, Tổng quan về học liệu mở và nhận dạng các yếu tố tác
động đến việc xây dựng và chia sẽ học liệu mở trong các trường đại học
Việt Nam. Hội thảo: Xây dựng nền tảng học liệu mở cho giáo dục đại học
Việt Nam, tr98.
11. Misra, Pradeep Kumar. (2012). Training Teachers to Use and Produce
Open Educational Resources: A Win-Win Approach, Journal of
Educational Technology, v9 n2 p1-7 Jul-Sep 2012.
12. ROER4D. (2014). Teachers’ attitudes, motivations and conceptions of
quality and barriers to open educational resources in India.
nguon tai.lieu . vn