- Trang Chủ
- Kinh tế học
- Vai trò của doanh nghiệp tư nhân đối với sự phát triển kinh tế ở Hải Phòng hiện nay
Xem mẫu
- PHÁT TRIỂN KINH TẾ TƯ NHÅN Ở HÂI PHÒNG - VÇN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN 403
VAI TRÒ CỦA DOANH NGHIỆP TƯ NHÅN ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN
KINH TẾ Ở HÂI PHÒNG HIỆN NAY
ThS. Đinh Thị Tiệp
Khoa Lý luận chính trị, Trường Đại học Hải Phòng
Tóm tắt: Hải Phòng là thành phố cảng quan trọng trung tâm công nghiệp, cảng biển lớn nhất
phía Bắc Việt Nam, đồng thời cũng là trung tâm kinh tế, văn hóa, y tế, giáo dục, khoa học,
thương mại và công nghệ của Vùng duyên hải Bắc Bộ. UBND thành phố đặt ra mục tiêu tiếp
tục phát triển kinh tế tư nhân tại thành phố Hải Phòng theo hướng lành mạnh, hiệu quả, bền
vững, thực sự trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế, góp phần đưa kinh tế- xã hội
thành phố phát triển nhanh, bền vững, tạo sự phát triển đột phá, tạo thêm việc làm, cải thiện
đời sống nhân dân, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh, góp
phần xây dựng Hải Phòng trở thành thành phố Cảng xanh, văn minh, hiện đại.
Đồng thời, nâng cao chất lượng hiệu quả kinh doanh trong khu vực kinh tế tư nhân, xây
dựng doanh nghiệp thành phố Hải Phòng có năng lực cạnh tranh, phát triển bền vững, xây
dựng và phát triển các tập đoàn kinh tế tư nhân có tiềm lực mạnh, có khả năng cạnh tranh
trên thị trường trong và ngoài nước; nhiều doanh nghiệp tham gia mạng sản xuất chuỗi
giá trị khu vực và toàn cầu.
Từ khóa: doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp tư nhân ở Hải Phòng, phát triển, vai trò
ROLE OF PRIVATE ENTERPRISES FOR THE ECONOMIC DEVELOPMENT
IN HAI PHONG TODAY
Abstract: Hai Phong is an important port city, the industrial center and the largest seaport in
the North of Vietnam, and is also the economic, cultural, medical, educational, scientific,
commercial and technological center of Northern coastal region. The City People's
Committee sets the goal of continuing to develop the private economy in Hai Phong city in the
direction of being healthy, effective, sustainable and truly becoming an important driving
force of the economy, contributing to the city's socio-economic development in a fast and
sustainable manner, creating a breakthrough development, creating more jobs, improving the
people's life, implementing social progress and justice, and ensuring national defense.
security, contributing to building Hai Phong into a green, civilized and modern Port city.
At the same time, improving the quality of business efficiency in the private sector,
building businesses in Hai Phong city with competitiveness, sustainable development,
building and developing private economic groups have strong potentials, can compete on
domestic and foreign markets; Many businesses join the regional and global value chain
production network
Keywords: private enterprise, private enterprise in Hai Phong, development, role
- 404 KINH TẾ TƯ NHÅN Ở HÂI PHÒNG - THỰC TRÄNG VÀ GIÂI PHÁP
1. ĐẶT VÇN ĐỀ
Hải Phòng ngày nay là một trong năm thành phố trực thuộc Trung ương - là đô thị loại 1
cấp quốc gia; lớn thứ hai Miền Bắc, thứ ba toàn quốc, gồm 7 quận nội thành và 8 huyện ngoại
thành. Đồng thời, Hải Phòng cũng là trung tâm kinh tế, văn hóa, y tế, giáo dục, khoa học,
thương mại và công nghệ của Vùng duyên hải Bắc Bộ. Với lợi thế về vị trí địa lý, lợi thế về
nguồn nhân lực, lợi thế về hệ thống hạ tầng kỹ thuật, là địa phương duy nhất miền Bắc hội tụ
đủ 5 loại hình giao thông: Đường bộ, đường sắt, đường biển, đường thủy nội địa và đường
hàng không. Lợi thế này đã giúp thành phố Cảng không chỉ đóng vai trò trung tâm kinh tế của
khu vực đồng bằng sông Hồng, vùng Duyên hải Bắc bộ mà còn là nhịp cầu thông thương với
cả các nước trong khu vực. Trong những năm vừa qua Hải Phòng luôn phấn đấu phát huy
những lợi thế của mình để sớm trở thành thành phố cảng xanh, văn minh, hiện đại.
Kinh tế tư nhân được đánh giá sẽ là một trong những động lực quan trọng đối với
tăng trưởng kinh tế tại Việt Nam trong những năm tới Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp
hành Trung ương Đảng khóa XII đã ban hành Nghị quyết số 10-NQ/TW ngày 03/6/2017
“Về phát triển kinh tế tư nhân trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa”. Có thể nói đây là đòn bẩy hết sức quan trọng nhằm củng cố,
phát triển kinh tế tư nhân Việt Nam nói chung và Hải Phòng nói riêng.
Việt Nam hiện có khoảng 600 nghìn doanh nghiệp, trong đó có trên 500 nghìn doanh
nghiệp tư nhân. Trong số này có tới hơn 96% là doanh nghiệp nhỏ và vừa, 2% doanh
nghiệp quy mô vừa và 2% doanh nghiệp lớn. Doanh nghiệp tư nhân tạo ra khoảng 1,2 triệu
việc làm, đóng góp hơn 40% GDP mỗi năm. Phát triển doanh nghiệp tư nhân là nhân tố
không chỉ bảo đảm cho việc duy trì tốc độ tăng trưởng GDP, tạo nguồn thu cho ngân sách
nhà nước mà còn tham gia vào giải quyết hàng loạt những vấn đề xã hội như: Tạo việc
làm, xóa đói giảm nghèo, phát triển nguồn nhân lực…
Hải Phòng hiện nay có thành phố có 27.834 doanh nghiệp, trong đó đa phần là các
doanh nghiệp nhỏ, vừa và 37.500 hộ kinh doanh cá thể đang hoạt động. Năm 2017, thu nội
địa của thành phố đạt gần 22.000 tỷ đồng, trong đó các doanh nghiệp đóng góp gần 16.000
tỷ đồng, chiếm gần 73%. Hải Phòng coi thúc đẩy khởi nghiệp và đổi mới sáng tạo, coi phát
triển doanh nghiệp là then chốt trong phát triển kinh tế- xã hội của thành phố.
2. NỘI DUNG
2.1. Doanh nghiệp tư nhân và vai trò của doanh nghiệp tư nhân trong sự phát triển
kinh tế Việt Nam
Doanh nghiệp tư nhân là loại hình doanh nghiệp do một cá nhân làm chủ và phải
chịu trách nhiệm toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt động của doanh nghiệp.
2.1.1. Đặc điểm của doanh nghiệp tư nhân
- Doanh nghiệp tư nhân do một cá nhân làm chủ.
Doanh nghiệp tư nhân không xuất hiện sự góp vốn giống như các công ty nhiều chủ
sở hữu, nguồn vốn của doanh nghiệp tư nhân chủ yếu xuất phát từ tài sản của một cá nhân
duy nhất.
- PHÁT TRIỂN KINH TẾ TƯ NHÅN Ở HÂI PHÒNG - VÇN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN 405
- Về quan hệ sở hữu vốn trong Doanh nghiệp
Nguồn vốn ban đầu của Doanh nghiệp tư nhân xuất phát từ tài sản của chủ Doanh
nghiệp. Trong quá trình hoạt động chủ Doanh nghiệp có quyền tăng hoặc giảm số vốn đầu
tư, chỉ phải khai báo với cơ quan kinh doanh khi giảm số vốn xuống dưới mức đăng ký. Vì
vậy, không có giới hạn nào giữa phần vốn và tài sản đưa vào kinh doanh của doanh nghiệp
tư nhân và phần còn lại thuộc quyền sở hữu của Doanh nghiệp. Điều đó có nghĩa không có
sự tách bạch tài sản của chủ Doanh nghiệp tư nhân với tài sản của doanh nghiệp tư nhân đó.
- Quan hệ sở hữu quyết định quan hệ quản lý
Doanh nghiệp tư nhân chỉ có một chủ sở hữu, vì vậy chủ Doanh nghiệp tư nhân có
toàn quyền quyết định trong tổ chức cũng như quá trình hoạt động kinh doanh của Doanh
nghiệp tư nhân. Chủ Doanh nghiệp tư nhân là người đại diện theo pháp luật của Doanh
nghiệp tư nhân.
- Về phân phối lợi nhuận
Về vấn đề chia lợi nhuận không đặt ra với Doanh nghiệp tư nhân bởi Doanh nghiệp
tư nhân chỉ có một chủ sở hữu, toàn bộ lợi nhuận trong quá trình hoạt động kinh doanh sẽ
thuộc về chủ Doanh nghiệp. Tuy nhiên, điều đó cũng đồng nghĩa khi có rủi ro chủ Doanh
nghiệp tư nhân sẽ tự mình chịu toàn bộ rủi ro trong quá trình kinh doanh.
- Doanh nghiệp tư nhân không có tư cách pháp nhân
Một pháp nhân phải có tài sản riêng, tức là phải có sự tách bạch giữa tài sản của pháp
nhân đó với những người tạo ra pháp nhân. Doanh nghiệp tư nhân không có sự độc lập về
tài sản vì tài sản của Doanh nghiệp tư nhân không có sự độc lạp trong quan hệ với tài sản
của chủ Doanh nghiệp tư nhân.
- Chủ Doanh nghiệp tư nhân phải chịu trách nhiệm vô hạn trước mọi khoản nợ trong
quá trình hoạt động của doanh nghiệp tư nhân
Do không có sự độc lập về tài sản, người chịu trách nhiệm trước mọi rủi ro của
doanh nghiệp sẽ phải chịu trách nhiệm vô hạn. Doanh nghiệp tư nhân không chỉ chịu trách
nhiệm về hoạt động kinh doanh của Doanh nghiệp trong phạm vi vốn đầu tư đã đăng kí mà
phải chịu bằng toàn bộ tài sản trong trường hợp vốn đã đăng ký không đủ
2.1.2. Vai trò của doanh nghiệp tư nhân trong sự phát triển kinh tế Việt Nam
Kinh tế tư nhân tồn tại dưới các hình thức như: doanh nghiệp tư nhân, công ty trách
nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần (không có hoặc có vốn nhà nước dưới 50%) và các hộ kinh
doanh cá thể. Cụ thể, kinh tế tư nhân liên tục duy trì tốc độ tăng trưởng khá, chiếm tỉ trọng
39 đến 40% GDP thu hút khoảng 85% lực lượng lao động của nền kinh tế, góp phần quan
trọng trong huy động các nguồn lực xã hội và thể hiện vai trò ngày càng quan trọng trong
nền kinh tế. Đặc biệt, khu vực doanh nghiệp của kinh tế tư nhân cho thấy xu thế đóng góp
ngày càng tăng trong tỷ trọng GDP, từ 6,9% năm 2010 lên khoảng 8,2% năm 2017.
Thứ nhất, doanh nghiệp tư nhân góp phần khơi dậy một bộ phận quan trọng tiềm
năng của đất nước, tăng nguồn nội lực, tham gia phát triển nền kinh tế quốc dân. Các
doanh nghiệp này góp phần xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp thúc đẩy lực lượng sản
- 406 KINH TẾ TƯ NHÅN Ở HÂI PHÒNG - THỰC TRÄNG VÀ GIÂI PHÁP
xuất phát triển. Doanh nghiệp tư nhân phát triển làm cho các quan hệ sở hữu của nền kinh
tế trở nên đa dạng hơn. Sự biến đổi của quan hệ sản xuất đã kéo theo sự biến đổi của quan
hệ quản lý và phân phối làm cho quan hệ sản xuất trở nên linh hoạt, phù hợp với trình độ
phát triển. Nhờ vậy đã khơi dậy và phát huy tiềm năng về vốn, đất đai, lao động, kinh
nghiệm sản xuất của toàn xã hội. Doanh nghiệp tư nhân phát triển đã góp phần quan trọng
trong việc huy động nguồn vốn nhàn rỗi của xã hội và sử dụng tối ưu các nguồn lực. Môi
trường kinh doanh ngày càng thuận lợi đã tạo điều kiện cho việc huy động các nguồn lực,
trong đó có nguồn vốn trong cộng đồng trở nên dễ dàng và linh hoạt hơn.
Thứ hai, doanh nghiệp tư nhân đã đóng góp đáng kể vào nguồn thu ngân sách nhà
nước. Mặc dù đóng góp vào ngân sách của khu vực doanh nghiệp ngoài nhà nước tuy còn
nhỏ (chưa tới 10%) nhưng đang có xu hướng tăng lên. So với đóng góp vào ngân sách Trung
ương thì đóng góp của doanh nghiệp tư nhân vào nguồn thu ngân sách địa phương lớn hơn
nhiều. Ngoài đóng góp vào nguồn thu ngân sách, các doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư
nhân còn có sự đóng góp đáng kể vào việc xây dựng các công trình văn hóa, trường học, thể
dục thể thao, đường sá, cầu cống, nhà tình nghĩa và các công trình phúc lợi khác.
Thứ ba, doanh nghiệp tư nhân đã có những đóng góp quan trọng vào việc thúc đẩy
tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế quốc dân. Nhìn chung, tốc độ tăng trưởng
GDP của doanh nghiệp tư nhân đều đặn và xấp xỉ với tốc độ tăng GDP của toàn bộ nền
kinh tế. Sự phát triển nhanh của doanh nghiệp tư nhân đã góp phần không nhỏ vào việc
thúc đẩy tăng trưởng nền kinh tế của cả nước.
Thứ tư, doanh nghiệp tư nhân phát triển góp phần thu hút số lượng lớn lao động cũng
như góp phần đào tạo nguồn nhân lực mới cho thị trường lao động. Hiện nay ở nước ta,
khu vực kinh tế tư nhân chỉ giải quyết việc làm được cho khoảng 45 triệu lao động (bao
gồm cả khu vực doanh nghiệp và hộ kinh doanh cá thể), trong đó khu vực doanh nghiệp
của tư nhân tạo việc làm cho khoảng 9 triệu lao động, chiếm 61,2% tổng số lao động làm
việc trong khu vực doanh nghiệp của nền kinh tế. Mỗi năm các doanh nghiệp này tạo thêm
khoảng trên 500 nghìn việc làm mới (giai đoạn 2011- 2017).
Thứ năm, doanh nghiệp tư nhân góp phần thúc đẩy đất nước hội nhập kinh tế quốc
tế. Một số doanh nghiệp thuộc khu vực tư nhân trở thành những tập đoàn kinh tế lớn và có
khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế cũng như tham gia vào các hợp đồng kinh
doanh với nhiều đối tác lớn của các nước phát triển. Thông qua hình thức liên doanh, liên
kết, các doanh nghiệp tư nhân đã thúc đẩy quá trình hội nhập kinh tế của nền kinh tế, đặc
biệt là trong việc nhận chuyển giao các công nghệ tiên tiến, phù hợp với Việt Nam cũng
như mở rộng thị trường, đặc biệt là đối với một số sản phẩm có ưu thế, sản phẩm đặc trưng
của Việt Nam ra thị trường thế giới. Với sự năng động của mình, doanh nghiệp tư nhân
cho thấy sự vượt trội so với khu vực doanh nghiệp nhà nước ở khía cạnh này.
Số lượng doanh nghiệp gia tăng mạnh từ 655.000 năm 2017 lên 730.000 vào năm
2018 và đạt 743.409 vào quý I năm 2019. Tổng vốn đăng ký mới tăng từ 1.295.911 tỷ
đồng vào năm 2017 lên 1.478.100 tỷ đồng vào năm 2018. Hàng năm, có hơn 1,1, triệu việc
làm mới được tạo ra. Riêng quý I năm 2019, có 375.500 tỷ đồng vốn đầu tư mới và gần
- PHÁT TRIỂN KINH TẾ TƯ NHÅN Ở HÂI PHÒNG - VÇN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN 407
320.000 việc làm mới đã được bổ sung vào nền kinh tế. Quy mô của nhiều doanh nghiệp
ngày càng mở rộng, một số doanh nghiệp đạt tổng tài sản đến hàng trăm nghìn tỷ đồng và
sử dụng hàng chục nghìn lao động. Tốc độ tăng trưởng của doanh nghiệp tư nhân (không
tính loại hình cá thể, hộ gia đình) đạt gần 12% vào năm 2017, cao hơn mức chung của nền
kinh tế cùng năm (6,8%)
Đáng chú ý là nhiều doanh nghiệp tư nhân đang điều chỉnh chiến lược đầu tư và kinh
doanh theo hướng bền vững hơn, gắn nhiều hơn với công nghệ và đổi mới sáng tạo thông
qua việc thiết lập trường đại học, viện/ trung tâm nghiên cứu và triển khai cũng như hoàn
thành được những công trình lớn, phức tạp trong một thời gian tương đối ngắn.
Mặc dù đã có thêm bước phát triển mới cả về số lượng và chất lượng nhưng doanh
nghiệp tư nhân ở Việt Nam vẫn chưa phát huy hết được tiềm năng của mình để thực sự
đóng vai trò là một động lực quan trọng của nền kinh tế.Số lượng doanh nghiệp tư nhân
thành lập nhiều nhưng khả năng trụ vững và phát triển hiệu quả còn thấp: số doanh nghiệp
ngừng hoạt động đã gia tăng từ 39.000 của năm 2017 lên 63.000 doanh nghiệp vào năm
2018. Do vậy, mục tiêu đến năm 2020 nước ta có một triệu doanh nghiệp khó hoàn thành
nếu không có giải pháp đột phá về cải thiện môi trường kinh doanh.Sự gia tăng số lượng
của doanh nghiệp tư nhân chưa gắn với sự đột phá về chất lượng phát triển. Trong vài năm
gần đây, nhóm doanh nghiệp tư nhân có giá trị sản lượng chiếm khoảng 8% GDP cả nước,
trong khi nhóm kinh tế hộ gia đình, cá thể chiếm khoảng 30%. Trong đó, nhóm hộ gia
đình, cá thể có tốc độ tăng trưởng thấp hơn mức trung bình cả nước.
Phần lớn (97%) doanh nghiệp tư nhân là các doanh nghiệp nhỏ và vừa, với khoảng
70% số doanh nghiệp đăng ký có quy mô dưới 10 lao động và vốn đăng ký dưới năm tỷ
đồng. Do vậy, dải phân bổ về quy mô của các doanh nghiệp khu vực kinh tế tư nhân đang
bị phân cực, với phần đông có quy mô nhỏ, một số ít với quy mô lớn. Sự thiếu các doanh
nghiệp có quy mô trung bình gây khó cho sự chuyên môn hóa và đầu tư vào công nghệ, vì
vậy, kìm giữ năng suất lao động. Nhóm số ít các doanh nghiệp lớn vẫn chưa tạo ra được
nhiều giá trị lan tỏa từ vị trí dẫn đầu, đặc biệt trong lĩnh vực đổi mới sáng tạo và tăng
trưởng. Hơn nữa, sự mở rộng quá nhanh của một số doanh nghiệp lớn cũng tiềm ẩn rủi ro
cho nền kinh tế, vì để nền tảng doanh nghiệp vững mạnh thì cần phải có đủ thời gian để
tích lũy vốn và công nghệ. Những nguyên nhân dẫn đến tình trạng doanh nghiệp tư nhân ở
Việt Nam vẫn chưa phát huy hết được tiềm năng của mình để thực sự đóng vai trò là một
động lực quan trọng của nền kinh tế là do khu vực này vẫn đang phải đối mặt với nhiều rào
cản cả về nhận thức lẫn khung khổ pháp luật, cơ chế, chính sách và thực thi cơ chế, chính
sách cũng như môi trường kinh doanh mặc dù đã được cải thiện nhưng vẫn còn chậm,
nhiều bất cập; chưa đồng đều giữa các bộ, ngành, địa phương, chưa thực chất trên một số
lĩnh vực cũng như năng lực nội tại chưa cao của chính khu vực này.
2.2. Những đóng góp của doanh nghiệp tư nhân đối với sự phát triển kinh tế ở Hải
Phòng trong giai đoạn hiện nay.
Không nằm ngoài quy luật chung của cả nước, các doanh nghiệp tư nhân Hải Phòng
luôn tiên phong phát triển kinh tế tư nhân nói riêng và kinh tế Hải Phòng nói chung.
- 408 KINH TẾ TƯ NHÅN Ở HÂI PHÒNG - THỰC TRÄNG VÀ GIÂI PHÁP
Hải Phòng đã có hệ thống cảng biển lớn nhất miền Bắc, là một trung tâm công
nghiệp của cả Đông Dương từ năm 1988. Ngoài sự phát triển mạnh loại hình tư bản tư
nhân của người Pháp, thì kinh tế của những người Việt tại Hải Phòng thời kỳ thuộc Pháp
cũng đáng nể. Những doanh nhân nổi tiếng thời kỳ đó như doanh nhân Bạch Thái Bưởi với
công ty Giang Hải Luân nổi tiếng cả nước về công nghiệp đóng tàu và vận tải hàng hải;
doanh nhân Nguyễn Sơn Hà với hãng sơn Sơn Hà; doanh nhân Đoàn Đức Ban với nghề
sản xuất nước mắm truyền thống với thương hiệu Vạn Vân, tiền thân của sản phẩm nước
mắm Cát Hải hiện nay….
Mục tiêu xây dựng và phát triển Hải Phòng trở thành thành phố đi đầu cả nước trong
sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa; động lực phát triển của vùng Bắc Bộ và của cả
nước; có công nghiệp phát triển hiện đại, thông minh, bền vững; kết cấu hạ tầng giao
thông đồng bộ, hiện đại kết nối thuận lợi với trong nước và quốc tế bằng cả đường bộ,
đường sắt, đường biển, đường hàng không; trọng điểm dịch vụ logistics; trung tâm quốc tế
về giáo dục và đào tạo, nghiên cứu, ứng dụng và phát triển khoa học và công nghệ, kinh tế
biển; đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân không ngừng được nâng cao ngang tầm
với các thành phố tiêu biểu ở Châu Á; trật tự, an toàn xã hội được bảo đảm, quốc phòng,
an ninh được giữ vững. Đến nay thực hiện công cuộc đổi mới do Đảng lãnh đạo, Hải
Phòng là địa phương hang hái đi đầu trong sự nghiệp phát triển kinh tế nhiều thành phần
và đã thu được những thành tựu to lớn. Tiêu biểu là ngành dịch vụ cảng biển, thành phố
hiện nay có 40 doanh nghiệp cảng, đa phần là tư nhân, lượng hàng hóa qua cảng tăng
trưởng từ 13 đến 15%/ năm. Ngành dịch vụ du lịch, dịch vụ xã hội cũng góp phần vào sự
phát triển kinh tế thành phố, hàng chục bệnh viện, hàng trăm trường học dân lập, cùng hơn
20 nghìn doanh nghiệp hoạt động theo các mô hình trách nhiệm hữu hạn, cổ phần tư nhân,
doanh nghiệp tư nhân…
Hiện nay, thành phố có 27.834 doanh nghiệp và 37.500 hộ kinh doanh cá thể đang
hoạt động. Nguồn vốn đầu tư của các doanh nghiệp tư nhân trong cơ cấu tổng nguồn vốn
của các thành phần kinh tế trên địa bàn thành phố tăng dần qua các năm: 38,40 % vào năm
2010; 49,7% vào năm 2015 và đạt 56,48 % trong năm 2018. Hải Phòng đã thu hút được
một nguồn vốn đầu tư đáng kể từ các tập đoàn tư nhân lớn như một cú bứt phá quan trọng
để huy động các nguồn lực xã hội, tạo động lực xã hội trong đầu tư phát triển Thành phố,
đặc biệt là đầu tư xây dựng, nâng cấp kết cấu hạ tầng vật chất- kỹ thuật theo hướng đồng
bộ, hiện đại và các ngành mũi nhọn, có lợi thế như: dịch vụ cảng biển, dịch vụ logistics,
công nghiệp chế tạo ô tô, điện - điện tử, điện lạnh, dịch vụ du lịch, dịch vụ thương mại...
Nói đến phát triển doanh nghiệp tư nhân Hải Phòng trong giai đoạn đổi mới, không thể
không kể đến cú bứt phá thu hút đầu tư trong nước mấy năm gần đây. Trong đó phải kể đến
các dự án hàng trăm nghìn tỷ đồng do tập đoàn Vingroup làm chủ đầu tư: Dự án khu vui
chơi giải trí, nhà ở và công viên sinh thái đảo Vũ Yên; Khu nông nghiệp kỹ thuật cao Vineco
(tại xã Tam Đa huyện Vĩnh Bảo); Dự án Bệnh viện quốc tế Vinmec Hải Phòng (quận Lê
Chân); Dự án khu nhà ở cao cấp( quận Hồng Bàng); đặc biệt dự án Tổ hợp sản xuất ô tô
Vinfast tại khu kinh tế Đình Vũ – Cát Hải. Tập đoàn Sun Group làm chủ đầu tư với hàng
chục nghìn tỷ đồng cho dự án xây dựng khu cảng hàng hóa, bến tàu du lịch, ga cáp treo, nhà
- PHÁT TRIỂN KINH TẾ TƯ NHÅN Ở HÂI PHÒNG - VÇN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN 409
máy sản xuất các sản phẩm du lịch, khu dịch vụ hậu cần du lịch trên đảo Cát Bà. Bên cạnh
đó là dự án công trình cải tạo, nâng cấp Quốc lộ 10; Dự án xây dựng khách sạn 5 sao Hilton;
Dự án khu công nghiệp, đô thị và dịch vụ Tràng Cát; Dự án cầu Bạch Đằng. Tập đoàn
Mường Thanh với dự án hơn 5 nghìn tỷ đồng phát triển khu du lịch Đồ Sơn...
Song song với đó, thành phố đã tổ chức nhiều hội nghị xúc tiến về công nghiệp,
thương mại, dịch vụ, khoa học kỹ thuật, tìm cơ hội kết nối các nguồn lực. Tổ chức đối
thoại doanh nghiệp định kỳ một lần/ tháng, lắng nghe ý kiến từ doanh nghiệ để hoàn thiện
cơ chế.
Đến nay, doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân đã tham gia hoạt động trong
hầu hết các lĩnh vực ngành nghề sản xuất kinh doanh: công nghiệp, nông nghiệp, thương
mại, y tế, giáo dục, khoa học công nghệ… góp phần quan trọng thúc đẩy kinh tế-xã hội
của Thành phố. Tuy nhiên, các doanh nghiệp tư nhân còn bị đối xử chưa công bằng so với
các đối tượng doanh nghiệp khác. Một số chính sách quy định chỉ đề cập đến doanh nghiệp
nhà nước mà chưa đề cập đến doanh nghiệp tư nhân. Nhiều doanh nghiệp phải trả các chi
phí không chính thức để giải quyết công việc… Những bất cập này càng khiến cho khu
vực kinh tế tư nhân đã nhỏ lại kém phát triển. Vì vậy, để doanh nghiệp tư nhân có điều
kiện phát triển, cần tập trung giải quyết vấn đề bình đẳng thật sự giữa các chủ thể kinh
doanh, giữa doanh nghiệp tư nhân và doanh nghiệp nhà nước. Sự phân tầng trình độ công
nghệ đang diễn ra trong từng ngành và trong nhiều doanh nghiệp; công nghệ lạc hậu, trung
bình và tiên tiến cùng đan xen tồn tại; công nghệ tiên tiến, hiện đại chỉ tập trung ở một số
ít doanh nghiệp tư nhân, ở một số ít lĩnh vực. Do trình độ công nghệ thấp, các doanh
nghiệp tư nhân không có khả năng kết nối cũng như tham gia ngành công nghiệp hỗ trợ
cho các doanh nghiệp tư nhân lớn, nhất là không thể tận dụng được hiệu ứng lan tỏa từ các
doanh nghiệp FDI đang tăng trưởng nhanh. Các doanh nghiệp tư nhân phần lớn vẫn hoạt
động ở thị trường trong nước, rất ít doanh nghiệp tư nhân vươn được ra thị trường nước
ngoài. Ngay cả ở thị trường trong nước, dưới sức ép cạnh tranh gay gắt, các doanh nghiệp
tư nhân lớn có xu hướng rút khỏi các ngành sản xuất công nghiệp, nhường lại sân chơi cho
các doanh nghiệp nước ngoài. Sự rút lui này cũng diễn ra trong một số lĩnh vực dịch vụ
như phân phối, bán lẻ được ưu tiên và có nhiều tiềm năng của nền kinh tế.
Thiếu thị trường, thiếu mặt bằng sản xuất kinh doanh là trở ngại lớn nhất đối với các
doanh nghiệp tư nhân. Việc giải quyết những rào cản về thủ tục hành chính là bắt buộc,
nhưng để doanh nghiệp có thể phát triển thì vấn đề “thị trường”, vấn đề đầu ra và hình
thành nơi trao đổi buôn bán, hình thành trục liên kết... giúp các doanh nghiệp phát triển đột
phá là rất quan trọng. Để doanh nghiệp tư nhân là động lực phát triển kinh tế cần thúc đẩy
hoàn thiện thể chế thị trường đầy đủ, bởi thị trường là cơ hội tiếp cận kinh doanh, cơ hội
tiếp cận đất đai, tiếp cận thông tin, chính sách, quy hoạch...là sự liên kết giữa các doanh
nghiệp nhỏ với các tập đoàn lớn để tiêu thụ sản phẩm, tạo ra chuỗi giá trị.
2.3. Kết quả đạt được của các doanh nghiệp tư nhân ở Hải Phòng
Phấn đấu đến năm 2020, toàn thành phố có trên 33.000 doang nghiệp hoạt động; đến
năm 2025 có trên 42.000 doanh nghiệp hoạt động và đến năm 2030 có treemn 53.000
- 410 KINH TẾ TƯ NHÅN Ở HÂI PHÒNG - THỰC TRÄNG VÀ GIÂI PHÁP
doanh nghiệp hoạt động. Tốc độ tăng trưởng doanh nghiệp tư nhân cao hơn tốc độ tăng
trưởng chung của nền kinh tế. Phấn đấu tăng tỷ trọng đóng góp của khu vực doanh nghiệp
tư nhân vào tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP) đến năm 2020 đạt khoảng 51%- 53%,
năm 2025 đạt khoảng 55%- 56% và 2030 đạt khoảng 60%- 65%.
UBND thành phố chỉ đạo các sở, ngành, địa phương, đơn vị tổ chức tuyên truyền
nâng cao nhận thức về vị trí, vai trò của doanh nghiệp tư nhân, tạo sự thống nhất cao trong
cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân đối với các chủ trương, giải pháp, chính sách
phát triển doanh nghiệp tư nhân; tạo môi trường đầu tư, kinh doanh thuận lợi cho phát triển
doanh nghiệp tư nhân; hỗ trợ doanh nghiệp tư nhân đổi mới sáng tạo, hiện đại hóa công
nghệ và phát triển nguồn nhân lực, nâng cao năng suất lao động; tăng cường lãnh đạo, chỉ
đạo, kiểm tra phối hợp của cấp ủy đảng, nâng cao vai trò của tổ chức cơ sở đảng trong các
doanh nghiệp.
Hoạt động của doanh nghiệp
Trong tháng 3/2019, toàn thành phố có 252 doanh nghiệp thành lập mới với số vốn
đăng ký là 1.015,4 tỷ đồng, giảm 27,17% về số doanh nghiệp và giảm 25,82% về số vốn
đăng ký so với cùng kỳ năm trước; vốn đăng ký bình quân một doanh nghiệp đạt 4,03 tỷ
đồng, tăng 1,76% so với cùng kỳ. Số chi nhánh, văn phòng đại diện, địa điểm kinh doanh
thành lập mới trong tháng là 89 cơ sở, giảm 31,01% so với cùng kỳ.
Tính chung quý I năm 2019, toàn thành phố có 644 doanh nghiệp đăng ký thành lập
mới với tổng vốn đăng ký là 5.152,8 tỷ đồng, giảm 15,26% về số doanh nghiệp và tăng
28,86% về số vốn đăng ký so với cùng kỳ năm 2018; vốn đăng ký bình quân một doanh
nghiệp thành lập mới đạt 8 tỷ đồng, tăng 52,09%. Số chi nhánh, văn phòng đại diện, địa
điểm kinh doanh thành lập mới trong năm là 271 cơ sở, giảm 29,61% so với cùng kỳ năm
trước. Dự kiến trong tháng 3 năm 2019, thành phố có 9 doanh nghiệp và 65 chi nhánh, văn
phòng đại diện, địa điểm kinh doanh tiến hành thủ tục giải thể. Ba tháng đầu năm 2019, số
doanh nghiệp thực hiện thủ tục giải thể là 50 và đối với chi nhánh, văn phòng đại diện, địa
điểm kinh doanh là 166 cơ sở.
Về thực hiện thu hồi Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp: trong tháng 3 năm
2018 đã thực hiện 100 lượt yêu cầu giải trình tình hình hoạt động đối với các doanh
nghiệp, thu hồi 30 Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp. Tính từ đầu năm, có 420
doanh nghiệp được yêu cầu giải trình tình hình hoạt động, 82 doanh nghiệp bị thu hồi Giấy
chứng nhận đăng ký doanh nghiệp.
Xu hướng kinh doanh của doanh nghiệp
Kết quả điều tra xu hướng kinh doanh của 180 doanh nghiệp trên địa bàn thành phố
thuộc ngành công nghiệp chế biến, chế tạo cho thấy: có 66,66% số doanh nghiệp đánh giá
tình hình sản xuất kinh doanh quý I/2019 so với quý IV/2018 tốt lên và giữ ổn định
(27,22% doanh nghiệp đánh giá tốt lên và 39,44% doanh nghiệp đánh giá giữ ổn định),
33,34% cho rằng khó khăn hơn. Trong đó, khu vực doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài lạc quan nhất khi có tới 72,46% doanh nghiệp đánh giá tốt lên và giữ ổn định
(30,43% tốt lên, 42,03% giữ ổn định); tỷ lệ này ở khu vực doanh nghiệp nhà nước và
- PHÁT TRIỂN KINH TẾ TƯ NHÅN Ở HÂI PHÒNG - VÇN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN 411
doanh nghiệp ngoài nhà nước cho kết quả lần lượt là 57,14% (21,43% tốt lên; 35,71% giữ
ổn định) và 63,91% (25,77% tốt lên và 38,14% giữ ổn định).
Trong các yếu tố ảnh hưởng đến sản xuất kinh doanh quý I/2019, có 44,44% doanh
nghiệp đánh giá khả năng cạnh tranh cao của hàng hóa trong nước là yếu tố ảnh hưởng lớn
nhất đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp; 41,67% doanh nghiệp cho rằng
không tuyển dụng được lao động theo yêu cầu làm ảnh hưởng đến khả năng phát triển sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp; 36,11% doanh nghiệp cho rằng nhu cầu thị trường
trong nước thấp; 23,33% doanh nghiệp cho rằng tính cạnh tranh của hàng nhập khẩu cao
và 16,67% doanh nghiệp cho rằng lãi suất vay vốn cao là yếu tố quan trọng.
Quý II/2019 dự báo tình hình sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp khả quan,
khởi sắc hơn so với quý I/2019, trong đó tỷ lệ số doanh nghiệp dự báo tình hình sản xuất
kinh doanh tốt hơn, tăng lên tới 61,45%; tỷ lệ doanh nghiệp dự báo ổn định là 24,58% và
chỉ có 13,97% doanh nghiệp dự báo khó khăn hơn. Theo hình thức sở hữu, khu vực doanh
nghiệp nhà nước có tỷ lệ doanh nghiệp dự báo tình hình sản xuất kinh doanh tốt lên và giữ
ổn định ở quý II/2019 cao nhất với 92,86% (trong đó dự báo tốt lên là 71,43% và dự báo
ổn định là 21,43%), tỷ lệ này ở khu vực doanh nghiệp ngoài nhà nước và khu vực có vốn
đầu tư nước ngoài lần lượt là 84,38% và 86,96%.
Một số ngành dự báo khả quan về khối lượng sản xuất quý II/2019 tăng lên so với
quý I/2019 như: sản xuất chế biến thực phẩm, sản xuất đồ uống, dệt, sản xuất hóa chất và
sản phẩm từ hóa chất, sản xuất sản phẩm điện tử, máy vi tính và sản phẩm quang học, thiết
bị điện,…
KẾT LUẬN
Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang diễn ra mạnh mẽ; hội nhập quốc tế
ngày càng sâu rộng; chuyển đổi căn bản sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa; biến đổi khí hậu diễn biến phức tạp; nền kinh tế đang chuyển sang một giai đoạn
phát triển mới, khác về chất và dựa nhiều hơn vào nâng cao năng suất và đổi mới sáng tạo;
những yêu cầu cấp thiết về đảm bảo sự độc lập và tự chủ của nền kinh tế… đang đặt ra
nhiều cơ hội và thách thức đan xen đối với sự phát triển của doanh nghiệp tư nhân nói
riêng và nền kinh tế Việt Nam nói chung. Ðể tận dụng được cơ hội và vượt qua được thách
thức đó các doanh nghiệp tư nhân phải là các doanh nghiệp năng động, sáng tạo với năng
lực cạnh tranh và tác động lan tỏa cao tới các khu vực kinh tế khác và qua đó tới toàn bộ
nền kinh tế. Ðó phải là sự kết hợp hài hòa và hữu cơ giữa các doanh nghiệp nhỏ và vừa với
các doanh nghiệp/tập đoàn tư nhân lớn, có thương hiệu và năng lực cạnh tranh quốc tế; dẫn
đầu trong đổi mới sáng tạo và tăng trưởng; có tác động lôi kéo, thúc đẩy sự phát triển của
toàn bộ khu vực kinh tế tư nhân. Số doanh nghiệp mới thành lập năm sau nhiều hơn năm
trước, nguồn lực trong dân đưa vào kinh doanh đạt hàng triệu tỷ đồng mỗi năm, phong trào
quốc gia khởi nghiệp thu hút nhiều người trẻ có hoài bão, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm,
hàng triệu hộ kinh doanh cá thể cũng đang tạo doanh thu lớn hơn, giải quyết công ăn việc
làm nhiều hơn… Môi trường kinh doanh thuận lợi, khối doanh nghiệp tư nhân sẽ tự tìm
- 412 KINH TẾ TƯ NHÅN Ở HÂI PHÒNG - THỰC TRÄNG VÀ GIÂI PHÁP
các cơ hội để tăng trưởng, phát triển và bứt phá, cạnh tranh sòng phẳng với doanh nghiệp
nước ngoài khi các hiệp định kinh tế đa phương, song phương mới có hiệu lực.
Hải Phòng luôn đặt ra vấn đề cải thiện mạnh mẽ hơn nữa thể chế kinh tế, dỡ bỏ hết
rào cản về thủ tục, giảm chi phí kinh doanh để tăng sức cạnh tranh cho doanh nghiệp tư
nhân. Hàng loạt những chương trình hành động cụ thể đã được thực thi một cách rốt ráo,
quyết liệt với định hướng quan trọng là phát triển mạnh kinh tế tư nhân nói chung và các
doanh nghiệp tư nhân nói riêng; kiến tạo môi trường thuận lợi, cạnh tranh, khuyến khích
khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo, thúc đẩy mọi thành phần kinh tế phát triển, mục tiêu tiếp
tục phát triển doanh nghiệp tư nhân tại thành phố Hải Phòng theo hướng lành mạnh, hiệu
quả, bền vững, thực sự trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế, góp phần đưa
kinh tế - xã hội thành phố phát triển nhanh, bền vững, tạo sự phát triển đột phá, tạo thêm
việc làm, cải thiện đời sống nhân dân, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, bảo đảm quốc
phòng, an ninh. Đồng thời, nâng cao chất lượng hiệu quả kinh doanh trong các doanh
nghiệp tư nhân, xây dựng doanh nghiệp thành phố Hải Phòng có năng lực cạnh tranh, phát
triển bền vững, xây dựng và phát triển các tập đoàn kinh tế tư nhân có tiềm lực mạnh, có
khả năng cạnh tranh trên thị trường trong và ngoài nước.
TÀI LIỆU THAM KHÂO
1. Ban Quản lý khu kinh tế Hải Phòng, (2018). Báo cáo tổng kết 15 năm quán triệt thực hiện
Nghị quyết số 32-NQ/TW của Bộ Chính trị về “Xây dựng và phát triển thành phố Hải Phòng
trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”.
2. Cục thống kê thành phố Hải Phòng, (2017). Niên giám thống kê thành phố Hải Phòng năm
2017. Hải Phòng: Nhà xuất bản Thống kê.
3. Cục thống kê thành phố Hải Phòng, (2018). Niên giám thống kê thành phố Hải Phòng năm
2018. Hải Phòng: Nhà xuất bản Thống kê.
4. Trịnh Đức Chiều, Nguyễn Văn Thịnh,Doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam đã sẵn sàng cho
Công nghiệp 4.0,Tạp chí Kinh tế và Dự báo số 4+5, tháng 2/2018.
5. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016): “Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII”, NXB
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
6. Nghị quyết số 10-NQ/TW ngày 03 tháng 6 năm 2017 của Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành
Trung ương Đảng khóa XII “về phát triển kinh tế tư nhân trở thành một động lực quan trọng
của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa".
7. Tổng cục Thống kê (2017), Doanh nghiệp Việt Nam 15 năm đầu thế kỷ XII (2000 – 2015),
NXB Thống kê, Hà Nội.
nguon tai.lieu . vn