Xem mẫu

VAI TRÒ CỦA ĐẠI HỌC NGOÀI CÔNG LẬP TRONG BỐI CẢNH HỘI NHẬP GS Trần Hồng Quân Nguyên Bộ trưởng Bộ Giáo dục – Đào tạo Chủ tịch Hiệp hội các Trường ĐH­CĐ ngoài công lập 1. Vừa qua Hiệp hội các Trường ĐH­CĐ ngoài công lập (VIPUA) tổ chức tổng kết 20 năm hoạt động. Vẫn còn bao vấn đề ngổn ngang đặt ra cho các trường và phía xã hội. Nhưng không còn nghi ngờ gì khi nói về vai trò của hệ thống các Trường ĐH­ CĐ ngoài công lập trong nền giáo dục Đại học Việt Nam. Công bằng mà nói, từ khi có chủ trương xã hội hóa giáo dục của Đảng và Nhà nước, nhờ nỗ lực của các trường, suốt 20 năm qua, gần 1/7 số sinh viên cả nước được đào tạo qua hệ thống này mà nhà nước “không phải tốn một đồng xu nào”. Điều đáng tiếc là thành quả đáng kể đó vẫn chưa được xã hội vui vẻ đón nhận, ngay cả một số cơ quan quản lý xã hội, đây đó vẫn còn kỳ thị khi công khai không nhận sinh viên tốt nghiệp từ các trường đại học ngoài công lập. Hầu như trong các văn kiện của Đảng và Nhà nước, trên các phương tiện truyền thông, ta bắt gặp rất nhiều những mệnh đề cổ xúy cho các trường ngoài công lập, nhưng dường như chỉ có giá trị về mặt nhận thức và thiên về ý chí hơn là ý thức về sự sống còn của hệ thống giáo dục này. Những bất cập này biểu hiện trên nhiều phương diện, đến nỗi các nhà quản lý đại học đã phải thừa nhận, không phải đối với loại hình đào tạo này mà ngay cả mục tiêu cao cả “hội nhập” mang tính sống còn của giáo dục đại học Việt Nam thì không ai trả lời được phải làm thế nào để tránh tụt hậu. Như vậy vấn đề vẫn phải quay lại: để tránh giáo dục đại học bị tụt hậu, ai sẽ thực hiện và thực hiện như thế nào. Có một điều chắc chắn là không thể không đề cập đến vấn đề xã hội hóa giáo dục, một con đường mà nhiều nước phát triển đã phải trải qua. Ở đây thấy cần đi sâu vài khía cạnh mà chúng tôi cho phải thẳng thắn nhìn nhận. 2. Trước hết, nói về vấn đề tăng trưởng nóng của các trưởng ngoài công lập trong những năm gần đây. Trong hội thảo vừa qua, các nhà quản lý đã chỉ ra chỗ bất cập về chất lượng đào tạo dựa trên tiêu chí tỷ lệ sinh viên/ vạn dân. Có một điều mà bất cứ một nhà khoa học, nhà quản lý nào (xuất phát từ môi trường giáo dục đại học) cũng biết rằng sự phát triển quy mô đại học bao giờ cũng dựa trên thực lực, bao gồm năng lực tài chính và quan trọng hơn là đội ngũ chuyên gia (GS, PGS, TS). Trước 1975, cả miền Bắc có khoảng…. trường, nhưng sau gần bốn năm con số đã lên … trường. Đặc biệt, từ khi xuất hiện trường ngoài công lập theo chủ trương xã hội hóa, trong vòng hai mươi năm, ban đầu chỉ có… trường, đến nay tăng lên… Riêng việc mở trường như vậy, dù nhân danh đảm bảo nhu cầu, quyền lợi học tập của nhân dân đi nữa thì thực tế việc tuyển sinh hằng năm, vấn đề nổi cộm vẫn xoay quanh câu chuyện thị phần mà miếng bánh ngày càng nhỏ lại đe dọa sự tồn tại của các trường ngoài công lập chứ chưa bàn đến chất lượng đào tạo; lấy người ở đâu ra mà dạy trong khi các giảng viên giỏi đều ở trường công lập. Xu hướng thực dụng dần chiếm lĩnh môi trường giáo dục trường ngoài công lập là điều không tránh khỏi. Thực trạng này có nguyên nhân sâu xa từ cách nhìn, quan niệm của xã hội về trường ngoài công lập và quan niệm về cơ chế thị trường của các nhà đầu tư mở trường. Do đó một trong những vấn đề cần làm ngay là phải cải thiện lại hình ảnh, vị thế của các Trường ĐH­CĐ ngoài công lập. Vấn đề này phải đi từ hai phía. Đối với các nhà đầu tư, sau những gặt hái tạm gọi là thành công bước đầu, một số trường ngày càng phát triển, củng cố thương hiệu sánh ngang với các trường công như Đại học ngoại ngữ Tin học, Đại học Hoa Sen, Đại học Nguyễn Tất Thành, Đại học Lạc Hồng… Còn đa số vẫn còn lập lờ giữa làm giáo dục và làm kinh tế. Không ít chủ đầu tư quan niệm sai về hoạt động tài chính từ việc thu tiền học. Sau khi trả chi phí giảng dạy và một số hoạt động khác thì còn lại được xem là lợi nhuận bỏ túi. Rõ ràng quan niệm như vậy thì việc mở trường đã mang lại lợi nhuận khủng. Cho nên không lạ gì, nhiều trường được mở ra trong một thời gian ngắn. Có trường xuất phát điểm có vài tỷ, sau sáu bảy năm đã có trong tay hàng trăm tỷ. Thay vì dùng nó tái đầu tư, phục vụ cho đào tạo thì số tiền đó được xem là lợi nhuận để phục vụ cho cá nhân. Đã đến lúc cần có luật cụ thể để chế tài vấn đề này. Kinh phí chỉ được phép chi bao nhiêu phần trăm cho đầu tư cơ bản, kéo dài bao lâu để thu hồi. Chủ đầu tư cũng phải hưởng lương. Số tiền còn lại phải được chi tiêu công khai cho các hạng mục công tác thật căn cơ, có kế hoạch. Nếu đưa vào luật và có chế tài thì nhiều người không dám đầu tư kiểu chụp giựt dẫn đến tình trạng gây mất đoàn kết như đã thấy ở một số trường tạo nên hình ảnh phản cảm đối với xã hội. Hiện nay, có trường như Đại học Văn Hiến đã có quan điểm giáo dục đúng đắn và dám đầu tư theo tinh thần phục vụ giáo dục. Trong tình hình các ngành thuộc lĩnh vực KHXH­NV đang ế ẩm, trường mạnh dạn giảm 50% học phí trong hai năm đầu cho thí sinh đầu vào trong năm học 2013 ­ 2014. Đấy là động thái tích cực mà nhìn dưới góc độ kinh tế chắc không mấy nhà đầu tư dám làm. 3. Một vấn đề khác cần phải bàn một cách căn cơ quyết liệt là đội ngũ. Một trường đại học muốn có đội ngũ chất lượng, đảm bảo thực hiện mục tiêu đào tạo cần phải trải qua hàng chục năm sàng lọc mới tập hợp được. Việc chọn lọc lại phải có điều kiện rất cụ thể. Đối với trường công do sức hấp dẫn của thương hiệu và sự an toàn về chế độ an sinh nên việc tuyển ngay từ sinh viên ưu tú của trường là điều dễ thực hiện, lôi kéo những người tài từ nguồn khác về mang tính khả thi. Trường ngoài công lập hầu như chủ yếu tập hợp từ hai nguồn: một là giảng viên đại học đã về hưu, tuy đầy kinh nghiệm nhưng đến độ tuổi nhất định, không còn sức bật, một số khác được mời hợp tác, thỉnh giảng dài hạn khi vẫn đương nhiệm ở các trường công và cuối cùng là người có bằng cấp từ các nguồn tự do. Cho hay những người có bằng cấp và năng lực thực sự bao giờ cũng ưu tiên xin vào trường công trước sau đó mới đến trường ngoài công lập. Số này chủ yếu là giáo viên phổ thông học tiếp lấy bằng hoặc sinh viên sau khi học ở các ngành thi vào chuyển tiếp bậc cao hơn. Đa số chưa có kinh nghiệm giảng dạy và được rèn luyện trong môi trường giáo dục đại học. Trong tình trạng loạn bằng cấp như hiện nay thì đối tượng này vẫn chưa thực sự được sàng lọc và trở thành lực lượng đủ sức cạnh tranh về năng lực đào tạo với các trường công lập. Đó là lý do chất lượng đào tạo giảm sút do chạy theo số lượng và lợi nhuận, một hiện tượng phổ biến ở trường ngoài công lập. Bài toán này vẫn còn làm nhức đầu các nhà đầu tư. Lâu nay Hiệp hội các Trường ĐH­CĐ ngoài công lập đang tập trung vận động đảm bảo sự công bằng trong tuyển sinh mà thiếu những động thái tích cực cho vấn đề này. Phần lớn các trường tự bươn chải. Do đó, để các trường ngoài công lập thật sự có được đội ngũ đảm bảo chất lượng, không phụ thuộc vào lực lượng bên ngoài nhằm ổn định lâu dài rất cần đến nhiều yếu tố từ bên trong lẫn bên ngoài. Ngoài chính sách của các nhà đầu tư hợp lý, nếu phối hợp với xã hội và nhà nước đề ra những quyết sách thích đáng, hy vọng sẽ cải thiện được. Nếu không, trường ngoài công lập khó lòng cạnh tranh công bằng với các trường công lập được và khó để cải thiện cách nhìn định kiến của xã hội như lâu nay. Rõ ràng bức tranh loang lỗ, chỗ đậm chỗ nhạt này của đại học, cao đẳng ngoài công lập tất yếu chịu cảnh thân phận loại hai là điều không tránh khỏi. 4. Về phía nhà nước, như đã nói, tất cả động thái tích cực có tính toán của Bộ GD­ĐT trong các mùa tuyển sinh vừa qua cũng chỉ là giải pháp tình thế. Để cải tạo lại cái nhìn đúng và tạo điều kiện cho các trường ngoài công lập tham gia một cách bình đẳng phải có những quy định ban hành thành luật và chế tài mạnh, phối hợp đồng bộ từ nhiều đơn vị, bộ phận chức năng có liên quan. Tình trạng một số tỉnh thành công khai không nhận sinh viên ngoài công lập vừa qua có một phần từ phía nội lực của các trường ngoài công lập và phần khác do định chế xã hội chưa nghiêm. Cần phải mổ xẻ đến tận cùng hiện tượng tại sao Malayxia xã hội hóa giáo dục gần như ta nhưng nay đã có tỷ lệ chiếm 80% sinh viên và 20% vào trường công mà nền kinh tế vẫn phát triển còn của ta trường công chiếm 7/1 so với trường ngoài công lập thì kinh tế vẫn lẽo đẽo theo sau và nguy cơ tụt hậu không tránh khỏi. Tại sao người ta làm được mà mình không làm được? Những nỗ lực của hệ thống ngoài công lập rất cần đến hỗ trợ từ phía chính sách, các định chế thích hợp mới hy vọng trở thành lực lượng thực sự hữu ích cho công cuộc cải cách giáo dục hiện nay nhằm tiến tới hội nhập với khu vực và thế giới. Bà Nguyễn Thị Bình, nguyên Phó Chủ tịch nước cho biết: “Các tổ chức quốc tế đều đánh giá trong chiến tranh Việt Nam là tấm gương về giáo dục. Song đến bây giờ, giáo dục Việt Nam hầu như xếp hạng chót. Có những tổ chức đánh giá giáo dục Việt Nam còn kém hơn cả Lào và Campuchia”. Như vậy nguy cơ tụt hậu đã lộ diện chứ không còn tiềm ẩn. Kết luận: Nếu không khẩn trương khắc phục và tìm những đối sách phù hợp, thì hệ thống trường ngoài công lập vẫn luẩn quẩn chưa thể trở thành một lực lượng quan trọng trong việc tạo nguồn lực chất xám cho đất nước. Và càng khó để mong nó trở thành một bộ phận đắc lực tham gia vào guồng máy giáo dục đại học của đất nước đang đứng trước thách thức hội nhập. ... - tailieumienphi.vn
nguon tai.lieu . vn