Xem mẫu
- DI SẢN VĂN HÓA
VAI TRÒ CỦA CỘNG ĐỒNG TRONG ỨNG XỬ VỚI NƯỚC
Ở CHÂU THỔ BẮC BỘ VÀ TÂY NGUYÊN VIỆT NAM
NGUYỄN CHÍ BỀN
Tóm tắt
Ở Việt Nam, vùng châu thổ Bắc Bộ là nơi sinh sống chủ yếu của người Việt và vùng đất đỏ Tây
Nguyên là nơi sinh sống của 11 dân tộc thiểu số tại chỗ hiện nay. Nước là tài nguyên vô cùng quý giá
để họ sinh tồn và phát triển, sáng tạo một văn hóa nước: họ vừa cần nước, yêu quý nước nhưng vừa sợ
hãi nước. Cư dân vùng châu thổ Bắc Bộ và cư dân vùng đất đỏ Tây Nguyên đều thờ cúng thần nước và
coi đó là vị thần tối linh của họ. Sự phát triển tín ngưỡng thờ nước của cư dân cả hai vùng, đều có vai
trò to lớn của cộng đồng, nhưng vị thế địa - kinh tế, địa - lịch sử, địa - văn hóa của vùng châu thổ Bắc Bộ
và vùng đất đỏ Tây Nguyên có khác biệt, nên vai trò của cộng đồng với tín ngưỡng thờ nước của cư dân
hai vùng cũng khác biệt. Bài viết phân tích vai trò của cộng đồng trong ứng xử với nước, thể hiện qua:
vai trò của các thầy cúng, vai trò của làng, chủ thể và khách thể của tín ngưỡng thờ nước; sự khác biệt
vai trò cộng đồng với tín ngưỡng thờ nước ở hai vùng đặc thù của Việt Nam; trên cơ sở ấy, trình bày khái
quát về lịch sử văn hóa - tín ngưỡng thờ nước qua các không gian văn hóa của Việt Nam.
Từ khóa: Châu thổ Bắc Bộ, Tây Nguyên, vai trò cộng đồng, thờ nước, lễ hội cổ truyền
Abstract
In Vietnam, Northern delta region is the primary living space of the Viet people; whereas, the Central
Highlands region is currently the home of 11 ethnic minority groups. Water is a valuable natural
resource for their existence and development. To creat a cultural water, it’s neccessary for them to need
water, love water and fear water at the same time. Inhabitants of the Northern delta and those of the
Central Highlands both worship water gods and consider it their supreme deity. The development of
the cult of water in the two regions has had the role of communities. However, due to the difference in
geo-economical, geo-historical and geo-cultural positions between the Northern delta and the Central
Highlands, the role of community in the cult of water in these two regions are also different. This article
analyzes the role of community in dealing with water, manifested through: the role of priests, villages,
other subjects and objects of the worship of water; the difference between roles played by communities
in the cult of water practiced in two studied region. From that point, an overview of the cultural history
- the beliefs of water worship through Vietnamese cultural spaces is presented.
Keywords: Northern delta, Central Highlands, community role, water worship, traditional festivals
V
iệt Nam, theo GS. Trần Quốc Vượng ứng xử khác nhau với nước, hiện tượng thiên
(1934 - 2005) và các cộng sự trong nhiên gần gũi với con người.
giáo trình Cơ sở văn hóa Việt Nam 1. Cộng đồng cư dân Việt châu thổ Bắc Bộ
(11), chia thành 6 vùng văn hóa. Vùng văn hóa trong ứng xử với nước
châu thổ Bắc Bộ và vùng văn hóa Trường Sơn Châu thổ Bắc Bộ, hay nói cách khác là đồng
- Tây Nguyên là hai vùng văn hóa khác nhau. bằng sông Hồng, trải rộng từ vĩ độ 21034’B
Vị thế địa - văn hóa, địa - kinh tế của hai vùng (huyện Lập Thạch, tỉnh Vĩnh Phúc) tới vùng bãi
khác nhau, đem đến cho cư dân nơi đây hai bồi khoảng 1905’B, từ 105017’Đ (huyện Ba Vì,
Số 26 - Tháng 12 - 2018 VĂN HÓA
NGHIÊN CỨU
5
- VĂN HÓA
NGHIÊN CỨU
thành phố Hà Nội) đến 10707’Đ (trên đảo Cát Bắc Bộ. Năm 1936, Pierre Gourou công bố dữ
Bà, thành phố Hải Phòng). Toàn vùng có diện liệu “tổng diện tích của tỉnh Bắc Ninh là 110.367
tích trên 14.860km2, chiếm khoảng 4,5% diện ha, đất đai không dùng cho trồng trọt (làm
nhà ở, sông ngòi, gò đất, v.v.) chiếm diện tích
tích cả nước Việt Nam. Là địa bàn của hai thành
82.543ha tức là gần 20% diện tích đất đai không
phố trực thuộc Trung ương (Hà Nội, Hải Phòng)
trồng trọt mà chúng tôi đã quy cho toàn bộ
và 8 tỉnh (Bắc Ninh, Hà Nam, Hải Dương, Hưng châu thổ, ruộng lúa chiếm diện tích 82.543ha,
Yên, Nam Định, Thái Bình, Vĩnh Phúc và Ninh và đất đai chỉ chuyên trồng những cây khác
Bình), châu thổ Bắc Bộ tính đến năm 2016 có không phải lúa là 4.965ha, tức là khoảng 4,5%
khoảng 21 triệu người, chiếm khoảng 22% đất đai toàn tỉnh” (8, tr.363). Và chính ông, trong
dân số cả nước, bình quân 1.413 người trên ghi chú, đã phác thảo: “Nếu áp dụng tỷ lệ phần
trăm đất không trồng lúa của Bắc Ninh cho toàn
một cây số vuông. Cư dân đa số là người Kinh
châu thổ, ta có kết quả như sau: 68.000ha đất
(Việt), riêng ở huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội
trồng không phải là lúa, 1.132.000ha ruộng” (8,
và huyện Nho Quan, tỉnh Ninh Bình có người tr.363). Như vậy, lúa là loài cây gắn bó chặt chẽ
Mường. Vì thế, nói làng xã ở châu thổ Bắc Bộ là với vùng châu thổ Bắc Bộ. Khi ấy, chắc chắn,
nói làng xã của người Việt (Kinh). yếu tố mà người nông dân quan tâm nhất phải
Thập niên ba mươi của thế kỷ trước, Pierre là nước. Bản thân Pierre Gourou, khi viết công
Gourou đã viết: “Một ngôi làng không xuất trình Người nông dân châu thổ Bắc Kỳ vào năm
hiện trong cảnh quan như một tập hợp của nhà 1935 - 1936, cũng đã dành chương 3 để đề cập
cửa, mà là một khối cây xanh. Nó được bao bọc yếu tố này: Nước của phần Môi trường vật chất.
bằng một rào tre với những ngọn cây dày đặc Theo ông, việc trồng lúa đòi hỏi rất nhiều nước.
tạo thành một lũy chắc chắn và những cành tre Nước là yếu tố chi phối tất cả mọi thứ trong
cuộc đời của người nông dân châu thổ Bắc Bộ:
rung rinh đem lại một khung cảnh xanh tươi
giàu hay nghèo, đủ ăn hay thiếu ăn, ngủ yên,
và trang trọng cho ngôi làng. Là yếu tố chủ yếu
ăn ngon trong nếp nhà trầm mặc hay phải bỏ
của cảnh quan, làng còn đóng vai trò hàng đầu
làng đi kiếm sống ở miền quê khác. Ứng xử của
trong đời sống tâm linh và xã hội của người
người Việt nơi châu thổ Bắc Bộ với sông nước là
nông dân. Nông dân không phải là những cá
chọn cách đắp đê. Không phải đây là cách duy
thể cô độc, không phải là một công dân bất kỳ
nhất, nhưng ở châu thổ Bắc Bộ, người Việt chọn
của một xã chỉ tham gia từ xa vào đời sống của
cách ứng xử này. Đó là cách ứng xử thể hiện
xã, như cư dân của nông thôn Pháp; ngược lại, “khả năng thích ứng” của người Việt với nước
đời sống tôn giáo, chính trị và xã hội của làng (mà năm 2008 tôi đã lấy ý tưởng của GS. Cao
xã Việt Nam rất sôi nổi và thường nhật, và mọi Xuân Huy khi nói về con người Việt Nam “đặc
người nông dân đều tham gia một cách chân tính mềm mại, uyển chuyển, linh hoạt lưu động
thành, nhiệt tình với tham vọng sẽ được giữ như nước… khả năng thích ứng, đó là cái tính
vai trò ngày một lớn hơn” (8, tr.216). Mỗi làng ưu việt, cái bí quyết sinh tồn của dân tộc ta” (1,
như vậy, bao gồm một số gia đình cùng sống tr.920) để đặt tên). Hơn nữa, dòng sông Hồng,
bằng nghề trồng lúa nước, cùng sống trong trong thời gian và không gian, không thể nhìn
một không gian xác định. Toàn bộ ruộng đất nó như hiện nay, mà phải thấy dòng sông đã
cày cấy, sông ngòi, hồ đầm đều thuộc quyền tạo ra bao biến đổi cho châu thổ Bắc Bộ, nhất
sở hữu của làng. Ruộng của làng được phân là khi người Việt lựa chọn cách ứng xử với sự
chia cho mọi gia đình trong làng sử dụng theo hung dữ của nó bằng cách đắp đê. Khi ứng xử
quy định có tự bao đời, để cày cấy tự nuôi sống với dòng sông Hồng hung dữ bằng cách đắp đê
mình, từ mùa vụ này qua mùa vụ khác. Loại cây thì vỡ đê là hiện tượng xảy ra thường xuyên từ
mà người nông dân vùng châu thổ Bắc Bộ lựa thập niên bảy mươi của thế kỷ XX về trước, tạo
chọn là cây lúa, loài cây hầu như được trồng ra cho châu thổ Bắc Bộ những ô trũng hai bên
trên toàn bộ các cánh đồng của vùng châu thổ sông Hồng như tỉnh Hưng Yên, tỉnh Hà Nam.
6 Số 26 - Tháng 12 - 2018
- DI SẢN VĂN HÓA
Với những cư dân trồng lúa nước, nước là nhất là trò đua thuyền, bơi trải. Ví dụ lễ hội đền
đối tượng cầu xin. Lâu ngày không có mưa, họ Bạch Hạc (thị xã Việt Trì, tỉnh Phú Thọ), lễ hội
phải cầu xin Trời, Phật, thần linh để có mưa, có đền Chèm (quận Tây Hồ, thành phố Hà Nội),
nước như câu ca dao: lễ hội làng Khê Hồi (huyện Thường Tín, thành
Lạy trời mưa xuống phố Hà Nội), lễ hội đền Đồng Xâm (huyện Kiến
Xương, tỉnh Thái Bình), v.v. Đồng thời, nước là
Lấy nước tôi uống
môi trường tiếp nhận các lễ vật dâng cúng của
Lấy ruộng tôi cày người dân trong lễ hội cổ truyền. Thể hiện tấm
Có mấy hình thức để người dân cầu xin lòng thành kính với nhân vật thờ phụng, người
thần nước: rước tượng thờ trong cung cấm ra dân mang các lễ vật sau khi cúng tế đưa xuống
ngoài như các lễ hội thờ Tứ Pháp vùng Thuận nước, để dâng cúng cho nhân vật phụng thờ.
Thành, tỉnh Bắc Ninh. Người dân rước bốn pho Ví dụ lễ hội làng Bình Đà (huyện Thanh Oai,
tượng: Pháp Vân (nữ thần Mây), Pháp Vũ (nữ thành phố Hà Nội), người dân mang bánh Vía,
thần Mưa), Pháp Lôi (nữ thần Sấm), Pháp Điện sau khi đã dâng cúng ra bờ sông, bóp nát, thả
(nữ thần Chớp) từ cung cấm ra ngoài với lời ca xuống sông. Nước là yếu tố chứa đựng khát
cầu khấn: Ba Bà trẩy hội chùa Un, mưa gió đùn vọng đổi mới, là sự mở đầu cho sự thay đổi,
đùn thiên hạ dễ làm ăn; đem tượng thờ trong người dân dùng nước làm lễ mộc dục - một
cung cấm ra phơi ngoài nắng như lễ hội chùa thành tố bắt buộc, rất quan trọng trong diễn
Bối Khê (huyện Thanh Oai, thành phố Hà Nội). trình lễ hội. Người dân cho rằng nước được
Nhưng, nước cũng là đối tượng cần phải lấy giữa dòng sông là nước tinh khiết để con
chinh phục. Nhiều lễ hội cổ truyền còn những người làm sạch những pho tượng thờ. Từ ngày
trò diễn ca ngợi những anh hùng chống lụt. lễ hội năm trước đến ngày lễ hội năm sau,
Những lễ hội thờ Sơn Tinh, Thuỷ Tinh vùng pho tượng thờ để nơi cung cấm cần được lau
Ba Vì thuộc tỉnh Hà Tây cũ, thành phố Hà Nội chùi sạch sẽ. Nước để làm lễ mộc dục phải lấy
hiện nay, chính là những lễ hội thể hiện thái ở giữa sông, sau khi đã làm các nghi thức cần
độ chinh phục nước, chinh phục lũ lụt của thiết. Có thể thấy nhiều lễ hội như lễ hội đền
cư dân trồng lúa nước. Trong bóng dáng của Bà Tấm (huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội), lễ
huyền thoại anh hùng Lê Lợi trả gươm ở hồ hội đền Hoá Dạ Trạch (huyện Khoái Châu, tỉnh
Hoàn Kiếm, có một khát vọng đất nước thái Hưng Yên), lễ hội đền Cuông (tỉnh Nghệ An),
bình, nhưng vẫn hiển hiện bóng dáng một anh v.v. có hình thức nghi lễ này.
hùng văn hoá trị thuỷ. Mặt khác, với người Việt Thứ hai, nước là đối tượng được thiêng hóa
(Kinh) nơi châu thổ Bắc Bộ, nước là thực thể thành các nhân vật thờ cúng, nơi chứa đựng
thiên nhiên vừa hiền lành, vừa hung dữ, được niềm tin, khát vọng của người dân. Những
người Việt nơi đây thiêng hóa thành một vị loài vật như con rắn, con rồng, con cá voi, v.v.
thần: thần nước. được biến thành các nhân vật thiêng, nhân vật
Ứng xử với nước, người dân vùng châu thổ trung tâm được thờ trong các lễ hội cổ truyền.
sông Hồng có nhiều cách khác nhau. Trước hết, Rất nhiều lễ hội của người Việt thờ rắn, ngay
nước là môi trường diễn ra lễ hội cổ truyền. như ở lễ hội thờ Mẫu, con rắn xuất hiện trong
Không gian của lễ hội cổ truyền người Việt điện thần của tín ngưỡng này với tên gọi ông
có không gian thế tục và không gian thiêng. Lốt. Chưa kể con rắn, tất cả các loài vật còn lại
Nhiều lễ hội cổ truyền của người Việt có không mà người Việt phụng thờ đều gắn bó với môi
gian thiêng là sông nước hoặc biển cả. Chẳng trường nước. Nước là nơi xuất phát, nơi trở về
hạn, lễ hội thờ cá voi của cư dân ven biển từ Hà của các loài vật thiêng để người dân thờ cúng
Tĩnh trở vào đến Cà Mau diễn ra từ cửa sông trong lễ hội cổ truyền. Trong khi đó, các làng
đến ven biển và ngoài biển, với các lễ hội này, chài ven biển Việt Nam từ Hà Tĩnh trở vào Nam
mọi hành động hội, nhất là các trò diễn, đều đều thờ cá voi. Nhân vật trung tâm trong lễ hội
diễn ra trên sông nước, hoặc biển cả. Tiêu biểu của các làng chài ven biển là cá voi. Cá voi là
Số 26 - Tháng 12 - 2018 VĂN HÓA
NGHIÊN CỨU
7
- VĂN HÓA
NGHIÊN CỨU
loài vật sinh sống ngoài biển khơi. Với cư dân nhà nghiên cứu đã thống nhất: hương ước có
làm nghề đánh bắt hải sản, biển khơi là nơi nhiều tên gọi khác nhau như hương lệ, hương
cung cấp nguồn lợi cho họ, cho họ cuộc sống, biên, khoán lệ, khoán ước, tục lệ, điều lệ, v.v.
nhưng cũng là nơi gây ra bao tai ương, bất trắc Trong lịch sử Việt Nam, hương ước manh
cho họ. Vì vậy cư dân ven biển tin tưởng rằng nha từ thế kỷ XV, đến thế kỷ XVI, XVII dần
cá voi là vị thần hộ mệnh của họ, cứu vớt họ khi được hoàn thiện, thế kỷ XVIII được xem như
họ gặp bất trắc nơi biển khơi. Mặt khác, người phổ biến. Hương ước là những quy ước theo
dân các thế hệ đã thiêng hoá các vật siêu nhiên lối sống Nho giáo được khuôn trong phạm
thành những nhân vật lịch sử - văn hóa có vai vi một làng. Khi nghiên cứu về hương ước,
trò rất quan trọng trong tâm thức người Việt. tục lệ nói riêng và cơ chế tự trị làng xã nói
Đáng chú ý, nhiều nhân vật lịch sử văn hóa vốn chung, người ta thường nói phép vua thua lệ
có gốc gác là những vật gắn bó với nước được làng. Nhưng qua kết quả nghiên cứu đã nêu,
huyền thoại hóa, lịch sử hóa. Khảo sát 94 bản làng xã chỉ có thể tự trị ở mức độ cho phép,
thần tích của lễ hội 94 làng quê châu thổ Bắc bên cạnh đó, nhà nước trung ương vẫn tăng
Bộ, chúng tôi đã gặp 25 nhân vật thành hoàng cường quyền quản lý. Trong quan hệ của
làng có nguồn gốc sinh nở thần kỳ, sinh ra do các thành viên trong làng với nước, với thần
người mẹ kết hợp với giao long, rồng, rắn, v.v. nước, hương ước rất quan tâm đến các ứng xử
Ví dụ: Nhân vật Linh Lang trong lễ hội ở vùng của các thành viên trong cộng đồng làng xã
ven Kinh thành Thăng Long và lễ hội làng Lệ với nước. Xin đơn cử hương ước của một số
Mật (huyện Gia Lâm, nay thuộc phường Việt làng ở tỉnh Thái Bình: Hương ước xã Đại Hữu,
Hưng, quận Long Biên, thành phố Hà Nội), tổng Tân Định, huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình,
vốn có gốc gác từ sông nước; hay những vị soạn năm 1924 có Điều 3: “Ai làm hư hỏng bờ
thần mang tên Trương Hống, Trương Hát, được ruộng phải phạt… và bắt phải làm lại”; Điều 4:
người dân thờ hai bên bờ sông Cầu (ranh giới “Ai tháo trộm nước ruộng và đơm đó để mất
hai tỉnh Bắc Ninh, Bắc Giang), vốn có nguồn nước màu phải phạt… và bắt tát nước đền cho
gốc từ những con rắn, v.v. Với những cư dân người điền chủ” (9, tr.140). Hương ước xã Noi
sống bằng nghề trồng lúa nước hoặc bằng Trang, tổng Hà Lý, huyện Duyên Hà, tỉnh Thái
nghề đánh bắt thuỷ, hải sản trên sông nước Bình có Điều 20: “Bổn phận trương tuần xã
hay ngoài biển khơi, nước là yếu tố rất quan đoàn phải đem tuần đi tuần trong làng ngoài
trọng đối với họ. Bởi vậy, người dân thờ cúng đồng, thúc giục sưu thuế, trông coi lúa mạ hoa
các thuỷ thần, các nhân vật lịch sử văn hoá - màu, sửa chữa đường sá cầu cống, bắt tuần
nhân vật trung tâm của lễ hội cổ truyền, thực tráng phải đóng nước, tháo nước để lợi nông
ra là thờ nước. công, trông coi cây cối của làng, cấm không
Chính vì sống tại một vùng châu thổ, ứng được ai nuôi vịt ở đồng” (9, tr.146). Hương ước
xử với một dòng sông hung dữ như sông làng Hoàng Nông, tổng Canh Nông, huyện
Hồng, nên vai trò của cộng đồng trong quan Duyên Hà, tỉnh Thái Bình có Điều thứ 7: “Tuần
hệ của người dân với thần nước, với nước rất coi việc giữ nước và tháo nước những khi nên
quan trọng. Nói đến cộng đồng làng xã của tháo nên giữ. Phải hỏi ý kiến hương hội không
người Việt (Kinh) ở châu thổ Bắc Bộ là phải nói được tự quyết, những người tháo nước đơm
tới vai trò của hương ước. “Làng nào có hương cá để cho ruộng khô cạn thì tuần tráng phải
ước nấy và hương ước của từng làng thường bắt ngay giải hương hội xét phạt”; Điều thứ 13:
bao gồm trong nội dung cụ thể của nó những “… ai cần tháo nước qua đường trước phải xin
chi tiết mà hương ước làng khác không có. phép hương hội” (9, tr.153). Người dân trong
Hơn thế nữa, mỗi hương ước lại có thể mang các làng, một năm, ngoài những hội hè cúng
một hợp thể riêng, nghĩa là có thể đề cập đến thành hoàng, còn phải liệt kê vào lễ hội công
một số vấn đề hay khía cạnh mà hương ước các cộng… để cúng cơm mới vào tháng 10, gọi là
làng lân cận không đả động đến” (10, tr.99). Các lễ thường tân, để cầu mưa, gọi là cầu đảo (9,
8 Số 26 - Tháng 12 - 2018
- DI SẢN VĂN HÓA
tr.255). Như vậy, trên châu thổ Bắc Bộ, cộng làng tự trị hay độc lập và lấy hoạt động trồng
đồng chú trọng đến việc giữ gìn nguồn nước, lúa khô trên rẫy làm nguồn chính để nuôi
tổ chức các hoạt động thể hiện niềm tin tưởng thân… Để trồng trọt, con người phải định
của mình với thần nước, có một văn bản thỏa cư lại thành từng làng, đơn vị tập hợp người
thuận trong cộng đồng về bảo vệ nguồn nước. hoàn chỉnh nhưng nhỏ nhất, mỗi làng chiếm
2. Cộng đồng cư dân các dân tộc thiểu số lĩnh một địa bàn có ranh giới rõ ràng, mà làng
Tây Nguyên trong ứng xử với nước khác không được xâm phạm đến, không thế
thì xảy ra chiến tranh” (2, tr.521). Hoạt động
Trong khi đó, cộng đồng cư dân các dân tộc
kinh tế của các tộc người này cũng có những
thiểu số ở Tây Nguyên Việt Nam lại có ứng xử
khác biệt trong ứng xử với nguồn nước. Nếu
khác. Nói đến Tây Nguyên cần thấy Tây Nguyên
người Ba na, người Brâu, người Rơ măm, người
không phải là một cao nguyên mà là các cao
Giẻ Triêng sinh sống với phương thức canh tác
nguyên liền kề từ Bắc vào Nam: cao nguyên
trồng lúa rẫy (lúa khô) thì người Chu ru, người
Kontum, KonPlông, Kon Hà Nừng, Pleiku,
Cơ ho lại là những tộc người sinh sống với
M’Drăk, Buôn Ma Thuột, Mơ Nông, Lâm Viên,
phương thức canh tác trồng lúa nước. Hoặc,
Di Linh. Độ cao của các cao nguyên này cũng
cả tộc sinh sống bằng trồng lúa rẫy, nhưng có
không giống nhau, nếu cao nguyên Lâm Viên
nhóm sinh sống bằng trồng lúa nước, như dân
cao khoảng 1.500m, cao nguyên Di Linh cao
tộc Êđê sinh sống bằng trồng lúa rẫy, nhưng
khoảng 900 - 1.000m, cao nguyên Pleiku cao
nhóm Êđê Bih lại sinh sống bằng trồng lúa
800m, thì cao nguyên Kontum, cao nguyên
nước, hoặc người Xơ đăng làm rẫy là chính
Buôn Ma Thuột chỉ cao khoảng 500m. Nói đến
nhưng nhóm Mơ nâm lại sinh sống bằng
Tây Nguyên là nói đến một vùng đất đỏ bazan,
ruộng nước, v.v. Dù sinh sống với phương thức
với diện tích hơn 54.000 km2, bao gồm địa giới
trồng lúa rẫy hay canh tác lúa nước thì tất cả
của 5 tỉnh: Kontum, Gia Lai, Đăk Lăk, Đăk Nông
các dân tộc thiểu số tại chỗ ấy đều gắn bó số
và Lâm Đồng; phía Bắc giáp tỉnh Quảng Nam,
phận của mình trên những cao nguyên đất đỏ,
phía Đông giáp các tỉnh Quảng Ngãi, Bình
cho nên nước là yếu tố vô cùng quan trọng với
Định, Phú Yên, Khánh Hòa, Ninh Thuận, Bình
họ. Trong tín ngưỡng của các dân tộc thiểu số
Thuận, phía Nam giáp các tỉnh Đồng Nai, Bình
tại chỗ Tây Nguyên đều thiêng hóa hiện tượng
Phước, phía Tây giáp các tỉnh Attapeu (Cộng tự nhiên này là thần nước. Lễ cúng bến nước
hòa dân chủ nhân dân Lào), Ratanakiri, Mon- luôn là một lễ cúng thiêng liêng đối với họ.
dukiri (Vương quốc Campuchia). Là một vùng Chẳng hạn, với người Gia rai, thần nước (Yang
đất không giáp biển và khá gần xích đạo nên Ia) là vị thần vừa linh thiêng, vừa thân thiết, vị
một năm khí hậu ở Tây Nguyên chia làm hai thần cung cấp nguồn nước mát lành cho họ.
mùa: mùa mưa từ tháng 4 đến hết tháng 10, Lễ cúng nước giọt (cúng bến nước) rất quan
mùa khô từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau. trọng với họ, được thực hiện hàng năm, sau
Nói đến cộng đồng các dân tộc thiểu số ở khi đã thu hoạch mùa màng. Lời khấn của vị
Tây Nguyên Việt Nam là nói đến cộng đồng cư già làng chủ lễ luôn có nội dung xin thần suối
dân ngữ hệ Nam Đảo (Malayo Polynedi) gồm hãy đến với dân làng, cho dân làng dòng nước
các dân tộc: Giarai, Ê đê, Chu ru và cộng đồng trong trẻo, tràn trề. Và ông là người đầu tiên lấy
cư dân Nam Á (Môn - Khơ me) gồm các dân quả bầu khô hứng nước châm vào ghè rượu,
tộc: Bana, Cơ ho, Xơ đăng, Mơ nông, Mạ, Giẻ rồi uống ngụm rượu đầu tiên qua cần ở ghè
Triêng, Rơ măm, Brâu. Cả hai cộng đồng dân rượu. Kết thúc buổi lễ, bao giờ phụ nữ trong
cư này đều cư trú thành làng, tên gọi tùy theo plei cũng lấy bầu khô hứng nước, mang về nhà
cộng đồng từng dân tộc. Nếu người Gia rai, dùng. Nói đến ứng xử với nước của người Gia
người Chu ru gọi plei, người Ba na gọi plơi, thì rai, không thể không nói đến các Pơtao Puih,
người Cơ ho gọi bon, người Ê đê gọi buôn, v.v. Pơtao Ia, các thủ lĩnh tín ngưỡng Lửa và Nước.
Các dân tộc thiểu số tại chỗ ở Tây Nguyên, “dù Một thời, trong sử sách của người Việt như
thuộc dân tộc nào, đều định cư trong từng Phủ biên tạp lục của Lê Quý Đôn (1726 - 1784),
Số 26 - Tháng 12 - 2018 VĂN HÓA
NGHIÊN CỨU
9
- VĂN HÓA
NGHIÊN CỨU
Lịch triều hiến chương loại chí của Phan Huy vươn tới vai trò của thủ lĩnh tín ngưỡng thần
Chú (1782 - 1840), Đại Nam thực lục tiền biên lửa, thần nước mà xa mờ là bóng dáng của một
và chính biên của Quốc sử quán triều Nguyễn vương quốc Thủy Xá, Hỏa Xá như ghi chép của
(1802 - 1945), v.v. từng nhắc đến, coi như một sử gia người Việt. Nhận xét của F. Ăng-ghen:
vương quốc: nước Thủy Xá, nước Hỏa Xá (6; 7). “Ngay từ đầu trong mỗi công xã đó, có một
Với Pơ tao Puih, lễ cầu mưa là nghi lễ quan số lợi ích chung nào đó mà việc gìn giữ phải
trọng nhất mà các Pơ tao Puih thực hiện. Người trao cho mỗi cá nhân, tuy có sự kiểm soát của
Gia rai trong khu vực ảnh hưởng của Pơ tao Puih toàn thể: như là xét xử những vụ tranh chấp;
tin rằng với chiếc gươm thần mà người dân gọi trừng phạt những kẻ lạm quyền; như là trông
là ơi Tha làm vật trung gian, Powtao Puih là nom các nguồn nước…” (3, tr.304) gợi mở cho
người duy nhất có thể liên hệ với thần linh để chúng ta tiếp tục suy nghĩ về vai trò của các
gọi mưa về tưới mát cho ruộng rẫy. Lễ cầu mưa vị thầy cúng trong tín ngưỡng thờ nước của
bắt đầu khoảng tháng 4 dương lịch, được thực cộng đồng các dân tộc thiểu số tại chỗ ở Tây
hiện bên cửa hông phía mặt trời mọc, trong nhà Nguyên Việt Nam.
của Pơtao Puih, nghi thức cuối cùng là lấy nước 3. Văn hóa nước ở Việt Nam qua hai cộng
vẩy ra xung quanh, kết thúc buổi lễ. đồng cư dân hai vùng văn hóa
Hàng năm, sau mùa thu hoạch, người Ê đê Người Kinh (Việt) ở châu thổ Bắc Bộ và cộng
tổ chức lễ cúng bến nước để bày tỏ niềm biết đồng các dân tộc thiểu số tại chỗ ở Tây Nguyên
ơn của mình với thần nước. Lễ cúng thường Việt Nam là hai cộng đồng cư dân khác nhau,
do chủ bến nước - người tìm ra bến nước - tổ sinh sống ở hai vùng không gian khác nhau.
chức, dưới sự chủ trì của già làng. Mọi thành Ứng xử của họ với nước cũng khác nhau. Nếu
viên trong buôn tham gia rất nhiệt tình, tự như trong tâm thức của người Kinh (Việt) nơi
giác, với niềm biết ơn và tin tưởng thần bến châu thổ Bắc Bộ chứa đựng cả sự sợ nước và
nước, cảm ơn vị thần ban cho họ nguồn nước mong muốn chinh phục nước, thì cộng đồng
trong lành, không vơi cạn. các dân tộc thiểu số tại chỗ ở Tây Nguyên
Đáng quan tâm nhất là người Chu ru, dân luôn kính trọng biết ơn hiện tượng tự nhiên
tộc sống bằng ruộng nước, phương thức đã được thiêng hóa. Văn hóa nước của Việt
canh tác là trồng lúa nước. Mỗi plei thường có Nam cần được xem xét theo tiến trình lịch sử
một người phụ trách công việc thủy lợi và hai và không gian văn hóa, có sự biến đổi. Ở Việt
người giúp việc. Trưởng thủy cũng do tập thể Nam, dân tộc giữ vai trò chủ thể là người Kinh
các thành viên trong làng bầu ra. Ông là người (Việt), “Qua những thăng trầm trong buổi đầu
có khả năng về thủy lợi và có đức tính công của lịch sử, dân tộc sau này sẽ là chủ thể bao
bằng. Trưởng thủy có nhiệm vụ phân phối đều giờ cũng định cư ở đồng bằng, còn các dân tộc
lượng nước từ các mương, máng công cộng khác thì quanh các thung lũng chân núi, hay
đến từng thửa ruộng của các gia đình. Khi trên sườn núi, trên cao nguyên. Ở đồng bằng,
cần thiết, ông có thể đề nghị với chủ làng huy con người nhanh chóng chuyển sang trồng
động nhân lực để tu bổ các công trình thủy lợi lúa nước, mà năng suất cao hơn, so với các loại
chung trước mùa cày cấy. củ và lúa nương ở những vùng trên (2, tr.518).
Như thế, cộng đồng các dân tộc thiểu số Việc trồng lúa nước khiến tâm thức họ tồn tại
tại chỗ ở Tây Nguyên luôn biết ơn thần nước, cả hai thái cực: sợ nước và chinh phục nước.
kính trọng thần nước. Vai trò của cộng đồng Huyền thoại Sơn Tinh - Thủy Tinh thể hiện thái
với thần nước rất quan trọng, cả cộng đồng độ chinh phục nước của người Kinh (Việt).
đều coi thần nước là thiêng liêng. Đáng lưu ý là Nước càng dâng cao thì người Việt đắp đê để
vai trò của các vị thầy cúng và của các già làng ngăn chặn. (Năm 2008, tại hội thảo khoa học
khi cộng đồng tiến hành các nghi lễ đối với quốc tế về văn hóa sinh thái của cư dân sông
thần nước. Trong lịch sử, chỉ có ở cộng đồng Hồng từ thượng nguồn đến hạ lưu, tôi đã trình
người Gia rai, người Ê đê, các vị thầy cúng đã bày về vai trò, vị thế địa - văn hóa của con đê
10 Số 26 - Tháng 12 - 2018
- DI SẢN VĂN HÓA
sông Hồng từ ngã ba sông Hồng đến hạ lưu) nhất vừa đa dạng, có sự vận động và biến đổi
(1, tr.912-934). Nhưng người Kinh (Việt) vẫn khác nhau trong không gian và thời gian, rất
coi nước là môi trường của nghi lễ trong lễ hội cần được nghiên cứu của các nhà nhân học,
làng, phải lấy nước ngoài sông lớn, giữa dòng văn hóa học trong và ngoài Việt Nam.
sông làm lễ mộc dục. Tượng thờ trong di tích N.C.B
phải được lau chùi bằng nước lấy giữa sông
(GS.TS, Nguyên Viện trưởng
sau khi làm nghi lễ với thần sông, thần nước
Viện VHNTQG Việt Nam)
mang về hậu cung. Cộng đồng cư dân trong
mỗi làng có quy định bằng hương ước để giữ
Tài liệu tham khảo
gìn, bảo vệ nước cho sự tồn tại của mình, cho
1. Nguyễn Chí Bền (2018), Văn hóa Việt Nam
cây lúa ngoài đồng, có phân công người chịu
nghiên cứu và tiếp cận, Nxb. Khoa học xã hội, Hà
trách nhiệm quản lý nguồn nước. Trong 11 dân
Nội, tập 1, quyển 1.
tộc thiểu số tại chỗ ở Tây Nguyên, chỉ có người
Chu ru đồng dạng với người Kinh (Việt) ở châu 2. Nguyễn Từ Chi (1996), Góp phần nghiên cứu
thổ Bắc Bộ trong ứng xử với nước. Họ đã làm văn hóa và tộc người, Nxb. Văn hóa - Thông tin,
Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật, Hà Nội.
mương phai, đê đập dẫn nước, nói cách khác
là làm thủy lợi cho cây lúa. Văn hóa nước của 3. F.Ăng ghen (1971), Chống Đuyring, Nxb. Sự
người Chu ru ở Tây Nguyên đồng dạng với văn thật, Hà Nội.
hóa nước của người Kinh (Việt) ở châu thổ Bắc 4. Georges Condominas (2003), Chúng tôi ăn
Bộ, mặc dù hai dân tộc sinh sống ở hai không rừng, Trần Thị Lan Anh, Phan Ngọc Hà, Trịnh Thu
gian địa lý - văn hóa khác nhau. Các dân tộc Hồng, Nguyễn Thu Phương dịch, Nguyên Ngọc
thiểu số tại chỗ còn lại ở Tây Nguyên ứng xử hiệu đính, Nxb. Thế giới, Bảo tàng dân tộc học
với nước khác với người Kinh (Việt) nơi châu Việt Nam, Hà Nội.
thổ Bắc Bộ. “Ở đây làng không gắn với nước 5. Lưu Hùng (1994), Buôn làng cổ truyền xứ
như trong trường hợp xã hội Việt, để thành Thượng, Nxb. Văn hóa dân tộc, Hà Nội.
“làng nước”, mà làng là nước... tại nhiều vùng 6. Jacques Dournes (2013), Potao, một lý
đã có tù trưởng lớn… ít nhất cũng có một chế thuyết về quyền lực của người Jorai ở Đông Dương,
độ thủ lĩnh tôn giáo, với các vua Lửa, vua Nước” Nguyên Ngọc dịch, Nxb. Tri thức, Hà Nội.
(2, tr.527). Cúng thần bến nước, thần nước sau 7. Nhiều tác giả (2004), Pơ tao Apuih, tư liệu và
mùa thu hoạch hằng năm là một sinh hoạt tín nhận định, Sở văn hóa - Thông tin Gia Lai, Plei ku.
ngưỡng văn hóa thường xuyên của cư dân 8. Piere Gourou (2003), Người nông dân châu
các dân tộc thiểu số tại chỗ ở nơi đây, dù họ là thổ Bắc Kỳ, Nguyễn Khắc Đạm, Đào Hùng, Nguyễn
người Gia rai hay Ê đê, Mơ nông, v.v. Chưa thấy Hoàng Oanh dịch, Đào Thế Tuấn hiệu đính, Hội
thái độ chinh phục nước của họ. Khoa học lịch sử Việt Nam, Viện Viễn Đông bác cổ
Kết luận Pháp, Nxb. Trẻ, Hà Nội.
Người Kinh (Việt) nơi châu thổ Bắc Bộ và 9. Nguyễn Thanh (biên soạn) (2000), Hương
cộng đồng 11 dân tộc thiểu số tại Tây Nguyên ước Thái Bình, Nxb. Văn hóa dân tộc, Hà Nội.
Việt Nam là hai chủ thể văn hóa ở hai không 10. Trần Từ (1984), Cơ cấu tổ chức của làng Việt
gian văn hóa khác nhau của Việt Nam. Trong cổ truyền ở Bắc Bộ, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.
tâm thức người Kinh (Việt) nơi châu thổ Bắc Bộ 11. Trần Quốc Vượng (chủ biên) (2018), Cơ sở
và tâm thức cộng đồng các dân tộc thiểu số tại văn hóa Việt Nam, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, tái bản
chỗ Tây Nguyên chứa đựng sự tôn kính, biết ơn lần thứ 20.
nước, sợ nước nhưng cũng vươn lên để chinh
phục nước. Ứng xử với nước của các dân tộc tại Ngày nhận bài: 20 - 10 - 2018
hai không gian văn hóa khác nhau ở Việt Nam Ngày phản biện, đánh giá: 21 - 11 - 2018
làm nên văn hóa nước Việt Nam vừa thống Ngày chấp nhận đăng: 25 - 12 - 2018
Số 26 - Tháng 12 - 2018 VĂN HÓA
NGHIÊN CỨU
11
nguon tai.lieu . vn