Xem mẫu
- DI SẢN VĂN HÓA
VAI TRÒ CỦA CỘNG ĐỒNG TRONG PHỤC DỰNG
VÀ THỰC HÀNH LỄ HỘI TRUYỀN THỐNG
NGUYỄN THỊ PHƯƠNG CHÂM
Tóm tắt
Trong bối cảnh các lễ hội truyền thống được phục dựng và thực hành sôi nổi ở khắp nơi trên cả
nước như hiện nay, vấn đề xác định các chủ thể nào liên quan đến quá trình phục dựng và thực hành lễ
hội cũng như họ có vai trò ra sao trong quá trình ấy là vấn đề nghiên cứu thú vị và có khả năng mang
đến những đóng góp quan trọng cho việc nhìn nhận và hiểu sâu hơn về bức tranh lễ hội truyền thống
trong xã hội đương đại. Trên cơ sở quan sát và nghiên cứu về các lễ hội truyền thống trong nhiều năm
qua, bài viết tìm hiểu vai trò của cộng đồng làng1 trong quá trình phục dựng và thực hành lễ hội truyền
thống hiện nay để chỉ ra các cách thức và mức độ tham gia khác nhau của cộng đồng làng vào lễ hội
mà họ vốn được xem là chủ nhân, từ đó khẳng định lễ hội chỉ thực sự được phục dựng và thực hành tốt
nhất khi cộng đồng làng thực sự có được vai trò chủ đạo đối với lễ hội của chính họ.
Từ khóa: Vai trò cộng đồng, phục dựng, thực hành, lễ hội truyền thống
Abstract
In the context of traditional festivals being restored and practiced vigorously throughout the
country today, the issue of determining which subject is involved in the restoration and practice process
of the festival as well as the roles they play in that process is an interesting research and is able to make
important contributions to the recognition and deeper understanding of the traditional festival picture
in contemporary society. Based on observations and research on traditional festivals over the years,
the paper explores the role of village communities in the process of restoring and practicing traditional
festivals today to show the ways and different level of participation of the village community in the
festival, in which, they are considered to be the owner, thereby asserting that the festival is only really
restored and best practices when the village community actually has the main role in their own festival.
Keywords: Community roles, restoration, practices, traditional festivals
1. Nhu cầu phục dựng lễ hội truyền thống ở nước ngoài,…) và đi cùng với đó là sự phục
T
rong khoảng hơn hai thập kỷ trở lại hồi lại các lễ hội truyền thống. Nhiều thông
đây, cùng với sự thay đổi chung của điệp truyền thông đã nói tới sự “nở rộ lễ hội”,
đất nước, chúng ta chứng kiến sự “bùng nổ lễ hội”, “được mùa lễ hội”, “phục hưng
lễ hội”,… trong khoảng gần 30 năm trở lại đây
thay đổi mạnh mẽ của đời sống tín ngưỡng
và con số 7.966 lễ hội trong một năm ở nước ta,
và lễ hội. Các di tích (đình, chùa, đền, miếu,
trong đó có 7.039 lễ hội dân gian2 đã là minh
phủ,…) được phục dựng, trùng tu hoặc xây chứng thuyết phục cho điều đó. Rõ ràng, sự trở
mới ở khắp nơi (từ nông thôn đến đô thị, từ lại ngày càng sôi động của các lễ hội truyền
miền núi đến miền biển, từ các cộng đồng thống trong đời sống xã hội hiện nay không
trong nước đến các cộng đồng người Việt Nam phải là ngẫu nhiên mà là một hiện tượng hàm
Số 29 (Tháng 9 - 2019) VĂN HÓA
NGHIÊN CỨU
25
- VĂN HÓA
NGHIÊN CỨU
chứa trong đó nhiều ý nghĩa về chính trị, kinh nơi nào lễ hội chưa bị đứt đoạn, mai một thì họ
tế, văn hóa và xã hội rất cần được nghiên cứu. tiếp tục phát huy, nơi nào đã mai một thì phục
Xã hội đương đại gắn với kinh tế thị trường, dựng lại, có những địa phương lễ hội đã lùi xa
với nhịp sống công nghiệp và các dòng chảy vào dĩ vãng, người dân cũng vẫn cố gắng phục
thương mại toàn cầu khiến thế giới trở nên dựng từ các nguồn tư liệu cổ, từ trí nhớ của
nhỏ bé hơn, “phẳng” hơn, nhất thể hóa nhanh những người già, thậm chí nhiều yếu tố được
hơn và hiện hữu rõ nét nguy cơ mai một tính họ sáng tạo ra, du nhập mới về để thành lễ hội.
đa dạng văn hóa, làm mất đi màu sắc văn hóa 2. Các chiều cạnh biểu hiện vai trò cộng đồng
các địa phương, con người bị cuốn vào vòng trong phục dựng và thực hành lễ hội truyền
quay nghiệt ngã của kinh tế, hàng hóa, tiêu thụ thống
và mưu sinh. Môi trường sống và môi trường Công ước về bảo tồn di sản văn hóa phi vật
văn hóa cộng đồng trở nên bất ổn, ô nhiễm, thể được Đại hội đồng UNESCO thông qua vào
suy giảm tài nguyên, rồi hiệu ứng nhà kính, rác ngày 17/10/2003, có hiệu lực từ tháng 4/2006
thải, biến đổi khí hậu, thảm họa thiên tai, tai đã ghi nhận rằng các cộng đồng, đặc biệt là
nạn giao thông, tệ nạn xã hội, bệnh tật, thực các cộng đồng, các nhóm người và trong một
phẩm độc hại,… tất cả đã khiến cuộc sống con số trường hợp là các cá nhân bản địa đóng
người hiện nay nhiều bất trắc, trở nên mong một vai trò hết sức quan trọng trong việc tạo
manh hơn. Trong bối cảnh xã hội như vậy, lễ ra, bảo tồn, duy trì và tái tạo di sản văn hóa phi
hội truyền thống với vai trò là sinh hoạt văn vật thể, từ đó làm giàu thêm sự đa dạng văn
hóa cộng đồng đặc trưng, nơi hình thành, lưu hóa và tính sáng tạo của con người. Tổ chức
giữ và trao truyền bản sắc văn hóa với những này nhấn mạnh vai trò của các cộng đồng
nét đẹp của thuần phong mỹ tục, của lối ứng trong việc thực hiện các quyền liên quan đến
xử đậm chất nhân văn và cũng là nét văn hóa bảo vệ các di sản văn hóa và thiên nhiên. Vai
trội, phân biệt cộng đồng này với cộng đồng trò này được nói tới trong nhiều điều khoản
khác, làng này với làng khác, vùng này với của các Công ước: “Di sản văn hóa phi vật thể
vùng khác, quốc gia này với quốc gia khác,… được hiểu là các tập quán, các hình thức thể
đáp ứng được nhu cầu về văn hóa, tín ngưỡng, hiện, biểu đạt, tri thức và kỹ năng (...) mà các
tâm linh, nhu cầu du lịch giải trí, nhu cầu về cộng đồng, các nhóm người và trong một số
nguồn, nhu cầu giữ gìn bản sắc dân tộc,… và trường hợp là các cá nhân, công nhận là một
trở thành nét văn hóa truyền thống được con phần di sản văn hóa của họ.” [8, Điều 2.1]; các
người trong xã hội đương đại quan tâm ngày cộng đồng sẽ tham gia vào các hoạt động
càng nhiều. nhận diện và xác định các loại hình Di sản văn
Xuất phát từ nhu cầu thực hành tín ngưỡng hóa phi vật thể [8, Điều 11]; không thể tiếp cận
ngày càng cao của xã hội đương đại, nhu cầu với các di sản văn hóa phi vật thể nếu không
hành hương đến các lễ hội ngày càng sôi nổi tôn trọng tập tục của các cộng đồng [8, Điều
của dân chúng mà các lễ hội truyền thống được 13]; và cuối cùng, cần có “sự tham gia tối đa
phục dựng ở khắp nơi, tạo nên xu hướng hay của các cộng đồng” vào toàn bộ các hoạt động
một thực tế xã hội không thể phủ nhận trong bảo tồn di sản văn hóa phi vật thể [8, Điều
bức tranh văn hóa hiện nay. Chúng ta đang 15]… Như vậy, cộng đồng ở đây vừa được xem
chứng kiến một thực tế là làng quê nào, vùng như một không gian không thể thiếu cho cuộc
miền nào, tộc người nào cũng tìm lại trong vốn sống và sự tồn tại của các giá trị văn hóa, vừa
văn hóa truyền thống của mình những yếu tố được nhìn nhận như là môi trường cần thiết
liên quan đến lễ hội để phục dựng lễ hội, để và bền vững cho việc thực hiện các quyền liên
trình diễn nét đặc sắc văn hóa của mình. Nếu quan đến cuộc sống và biểu đạt văn hóa của
26 Số 29 (Tháng 9 - 2019)
- DI SẢN VĂN HÓA
mỗi con người. Những nét đặc trưng của cộng Lễ hội đền Hùng, cụ thể là lễ Giỗ tổ Hùng
đồng có thể khác nhau giữa các quốc gia, dân Vương hiện nay là một trường hợp mà việc
tộc, song khái niệm cộng đồng trong vai trò phục dựng, làm mới và thực hành lễ hội chưa
là môi trường sống, môi trường sáng tạo, thực thực sự gắn kết hợp lý với nhu cầu của người
hành và trao truyền các giá trị văn hóa là giống dân, của cộng đồng vốn là chủ thể của lễ hội
nhau trên toàn cầu. này. Khu di tích đền Hùng ở thôn Cổ Tích, xã Hy
Với lễ hội truyền thống, môi trường văn Cương, huyện Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ (ngày
hóa làng thực sự là môi trường sáng tạo, thực nay thuộc thành phố Việt Trì) với tổng diện
hành và trao truyền lễ hội và trong bối cảnh tích tự nhiên trên 1.000ha, thuộc địa giới hành
chính của 7 xã: Hy Cương, Chu Hóa, Thanh
xã hội đương đại, cộng đồng làng vẫn luôn có
Đình, Tiên Kiên, Phù Ninh, Kim Đức, Vân Phú,
vai trò quan trọng trong quá trình phục dựng
là một quy mô hoàn toàn mới. Vốn dĩ ban đầu
và thực hành lễ hội. Thực tế việc phục dựng và
khu di tích này thờ các vị thần núi của dân làng
thực hành lễ hội truyền thống trong bối cảnh
ở đây. Các vị thần núi này vốn được các làng
xã hội hiện nay cho thấy vai trò của cộng đồng
thuộc Cổ Tích, Hy Cương phụng thờ như các vị
làng được thể hiện ở nhiều chiều cạnh khác
thành hoàng làng. Vua Hùng với vai trò là một
nhau, khi thì cộng đồng làng có vai trò hiện
vị Tổ của toàn dân tộc thực sự được tôn vinh
hữu, khi thì có vai trò ẩn, khi thì vai trò đó rõ
từ cuối những năm 90 của thế kỷ XX. Từ năm
nét, khi thì mờ nhạt, có lễ hội thì vai trò của
2000, lễ hội đền Hùng được tổ chức theo nghi
cộng đồng làng được khẳng định gắn liền với
thức Quốc giỗ vào những năm chẵn (5 năm
dấu ấn quyền lực của cộng đồng này trong
một lần) do Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch tổ
quá trình phục dựng và thực hành, song cũng
chức, còn vào các năm lẻ do Ủy ban nhân dân
có lễ hội dù vai trò của cộng đồng làng được
(UBND) tỉnh Phú Thọ đứng ra tổ chức. Từ đây,
khẳng định nhưng lại hầu như không có tiếng
toàn bộ việc thực hành lễ Giỗ tổ Hùng Vương
nói trong toàn bộ quá trình phục dựng và thực
được quy định chặt chẽ theo kịch bản của nghi
hành lễ hội truyền thống. Song có thể thấy rõ thức quốc gia. Có thể thấy rõ rằng, lễ hội đền
rằng ở đâu mà cộng đồng làng chủ động với Hùng hiện nay là do Nhà nước quản lý, tổ chức
lễ hội truyền thống, có ý kiến quyết định trong và quyết định hầu như tất cả các thực hành
việc phục dựng và thực hành lễ hội truyền nghi lễ trong lễ hội này. Người dân ba làng Vi,
thống thì lễ hội đó thành công và trở thành nét Trẹo, Cổ Tích vốn xưa được coi là “trưởng tạo lệ”
văn hóa trội, là điểm nhấn quan trọng trong có trách nhiệm đứng ra tổ chức lễ hội theo “lệ”
bức tranh văn hóa của địa phương. Ngược làng, người dân có nghĩa vụ đóng góp công
lại, lễ hội truyền thống nào được phục dựng sức, thời gian và tài chính thì nay họ tham gia
không bám sát vào nhu cầu của cộng đồng vào lễ hội theo sự chỉ đạo và phân công nhiệm
làng, cũng không có sự tham gia một cách chủ vụ từ “cấp trên”. Người dân ba làng không còn
động và tích cực của cả cộng đồng cũng như đóng vai trò “trưởng tạo lệ” nên không có trách
các cá nhân trong làng thì lễ hội đó dù được tổ nhiệm tổ chức lễ hội và chủ tế cũng không còn
chức lớn đến thế nào cũng trở thành xa lạ với là đại diện của ba làng. Các làng xã tổ chức
cộng đồng, thậm chí cộng đồng không chấp rước kiệu, dâng hương theo yêu cầu của ban
nhận và đứng ngoài lễ hội. Có thể khái quát vai tổ chức lễ hội, họ tham gia các hoạt động tại
trò của cộng đồng làng trong quá trình phục các đền ở khu đền Hùng theo nhiệm vụ được
dựng và thực hành lễ hội truyền thống ở ba phân công từ chính quyền địa phương. Nhìn
dạng biểu hiện cơ bản là: Vai trò chủ động, vai vào lễ hội đền Hùng hiện nay thì UBND tỉnh là
trò thụ động và vai trò kết hợp, chia sẻ. cơ quan quyền lực cao nhất điều hành lễ Giỗ tổ
Số 29 (Tháng 9 - 2019) VĂN HÓA
NGHIÊN CỨU
27
- VĂN HÓA
NGHIÊN CỨU
Hùng Vương tại khu di tích lịch sử đền Hùng. còn quen thuộc nữa. Trước kia, lễ Khai ấn chỉ
Với sự tham gia của các sở, ban ngành trong diễn ra trong phạm vi làng Tức Mặc, ấn đóng
toàn tỉnh, lễ Giỗ tổ được tổ chức một cách bài trong dịp đầu năm đủ để phát cho dân làng,
bản, chặt chẽ và theo quy định của pháp luật. mỗi nhà đều sẽ có một lá ấn. Theo người dân
Các cấp chính quyền tham gia và can thiệp trong làng cho biết, trước kia mỗi lá ấn phát về
sâu vào việc xây dựng kịch bản lễ hội, tham cho mỗi gia đình trong làng Tức Mặc (chủ yếu
gia thực hiện nghi lễ (lãnh đạo làm vai trò làm con cháu họ Trần) thì công đức cho mỗi tờ ấn
chủ lễ), việc phân công các đoàn rước và cả các là khoảng 2.000 đồng; hiện nay mỗi gia đình
chương trình nghệ thuật, thể thao. Thực tế này cũng được phát một lá ấn nhưng tiền công
đã làm giảm tính chủ động của cộng đồng đối đức đã là 20.000 đồng. Còn riêng đối với du
với lễ hội của họ. Cộng đồng thực hiện “mệnh khách đến lễ hội, có thể đăng ký trước, sau đó,
lệnh” của cấp trên bằng những chỉ thị, văn bản, đóng tiền công đức với giá tối thiểu là 20.000
kế hoạch, phân công nhiệm vụ. Mọi hoạt động đồng và nhận biên lai, đến chính hội sẽ được
của lễ hội đều do các cấp quản lý phân công, nhận ấn. Việc lá ấn được phát ra quá nhiều, lá
còn cộng đồng chỉ là những người thực hiện ấn trở thành quà tặng cho các cơ quan, đoàn
khiến cho người dân không phát huy vai trò thể ở xa, lá ấn trở thành vật trao đổi, mua bán,
chủ động vốn có của mình trong tổ chức lễ thật giả lẫn lộn, chất lượng khác nhau,… đã
hội. Sự chỉ đạo về mặt hành chính bằng văn khiến cho sự linh thiêng của lễ Khai ấn cũng
bản từ các cấp lãnh đạo trong các nội dung như lá ấn suy giảm và đồng thời lễ hội truyền
“truyền thống” như rước kiệu, làm bánh chưng, thống của cộng đồng làng Tức Mặc đã trở
trò chơi, thi nấu cơm, gói bánh, v.v... cũng làm thành lễ hội mang nặng tính chất hành chính
giảm tính chủ động và sự tích cực của cộng và thương mại.
đồng. Hơn thế nữa, sự can thiệp và chỉ đạo của Khác với hai lễ hội trên, hội Gióng lại là một
Nhà nước dường như đã làm mất đi cảm giác ví dụ sống động thể hiện vai trò chủ động,
thuộc về lễ hội đó của người dân, điều này dẫn tích cực của cộng đồng làng trong phục dựng,
đến việc cộng đồng các làng cũng như mỗi quản lý và tổ chức lễ hội. Lễ hội được tổ chức
người dân làng không còn coi lễ hội đền Hùng bởi Ban quản lý di tích lịch sử xã Phù Đổng, với
là của họ mà là của Nhà nước. sự tham gia trực tiếp của các cụ có am hiểu về
Lễ hội đền Trần (Nam Định) lại là một ví lễ hội truyền thống. Các cụ và dân làng tổ chức
dụ khác về sự suy giảm vai trò của cộng đồng hội Gióng theo những quy định chặt chẽ được
làng trong tổ chức lễ hội hiện nay. Nổi lên từ ghi trong Sổ hội lệ. Cụ thể, mọi công việc như
những năm 2000 với việc phát ấn, lễ hội đền trông coi, quản lý, bảo vệ di tích, đèn nhang
Trần có sự can thiệp chính thức của Nhà nước hương khói và thực hiện các công việc tế lễ, lễ
vào công tác tổ chức lễ hội một cách đồng bộ, hội là do các cụ trong Ban quản lý di tích cùng
từ việc giao các cơ quan chức năng lo các công với các cụ trong Ban khánh tiết đền thực hiện.
việc chuẩn bị, đảm bảo trật tự, an ninh, việc Một công việc quan trọng trong công tác tổ
quảng bá cũng như phân bổ thời gian hợp lý chức hội Gióng là tuyển các vai diễn trong hội
cho việc thực hành các nghi lễ. Điều này khiến rồi tập luyện cho họ việc đi đứng, lễ nghi như
nhiều người dân làng Tức Mặc, phường Lộc thế nào đều do các cụ trong Ban quản lý phân
Vượng - cộng đồng chủ nhân của lễ hội truyền công người hướng dẫn, luyện tập và thực
thống thấy rằng họ dường như đã mất đi lễ hành theo Sổ hội lệ. Như vậy, các công việc
hội của làng mình, lễ hội truyền thống của họ điều hành, tổ chức các hoạt động chính trong
đã bị thay đổi đến mức chính họ cũng không lễ hội là do đại diện cộng đồng trong Ban quản
28 Số 29 (Tháng 9 - 2019)
- DI SẢN VĂN HÓA
lý di tích thực hiện. Cộng đồng làng tham gia Ban quản lý di tích đền Bà Chúa Kho được
và chủ động trong công việc này vừa đảm bảo dân cử ra có nội quy hoạt động một cách rõ
được chức năng và tính thiêng vốn có của lễ ràng, quy định cụ thể trách nhiệm và nghĩa vụ
hội truyền thống, lại vừa giữ được sự cố kết của các thành viên. Có thể nói rằng, việc phân
cộng đồng chặt chẽ. Nhà nước vẫn thực hiện bổ công việc, tổ chức công việc tại khu di tích
các hình thức quản lý của mình song việc thực và lễ hội được cộng đồng làng Cổ Mễ triển
hiện đó chủ yếu chỉ ở đường hướng chỉ đạo, khai là hết sức khoa học và hợp lý, ai cũng có
ở sự trợ giúp “vòng ngoài” với các công tác an quyền lợi ở trong đó và quyền lợi được phân
ninh trật tự, truyền thông, cơ sở hạ tầng,… mà chia hết sức công bằng. Hội người cao tuổi của
không can thiệp sâu vào quá trình thực hành làng bầu và lựa chọn người cho các ban: Ban
lễ hội. Vì vậy, vai trò của cộng đồng được phát quản lý di tích, Ban an ninh, Ban bảo vệ, Ban
huy tối đa và lễ hội Gióng đã chứng tỏ một xây dựng, Ban tài chính, Ban kiểm soát, các ban
điều rằng dù đã trở thành một lễ hội lớn mang
này có nhiệm vụ rõ ràng. Mỗi ban lại tiếp tục
tầm quốc gia song cộng đồng làng vẫn có thể
chia ra thành các tổ và công việc được phân
đảm nhiệm được việc thực hành các nghi lễ
công đến từng người cụ thể theo ca, theo
theo đúng lệ truyền thống, tức là đảm nhiệm
ngày, theo các đầu công việc từ việc nhỏ đến
phần cốt lõi, phần hồn của lễ hội và người dân
việc lớn. Đi cùng với sự phân công ấy là quyền
thực sự xem lễ hội là của họ, của cộng đồng
lợi mỗi người cũng được quy định rõ ràng,
họ nên họ có trách nhiệm, có nghĩa vụ và cả
minh bạch. Có thể thấy cộng đồng này cố kết
quyền lợi trong đó.
chặt chẽ để bảo vệ di sản quan trọng nhất của
Một trường hợp khác là lễ hội đền Bà Chúa
họ là lễ hội đền Bà Chúa Kho, họ thể hiện rõ
Kho (Cổ Mễ, Bắc Ninh), từ một ngôi miếu nhỏ
vai trò chủ nhân của mình nên chủ động trong
trở thành một ngôi đền lớn, từ một vị Thánh
mọi công việc liên quan đến lễ hội. Lễ hội đền
được người dân tôn thờ vì có công chiêu dân
Bà Chúa Kho đã cho thấy một mô hình quản
lập làng, mở mang sản xuất đến một vị Thánh
lý cộng đồng rất hiệu quả đã và đang được
có quyền năng đặc biệt trong việc quản lý
duy trì, ở đây vai trò của cộng đồng làng được
kho tiền bạc, tài lộc để dân chúng có thể “vay
phát huy tối đa. Lễ hội đền Bà Chúa Kho không
- trả”, từ quy mô lễ hội là lễ giỗ Bà diễn ra trong
còn là lễ hội làng nữa mà đã là lễ hội lớn thu
một ngày với sự tham gia của cộng đồng địa
phương đến quy mô lễ hội diễn ra trong suốt hút rất đông khách thập phương, lại diễn ra
3 tháng với sự tham gia của rất đông khách trong suốt 3 tháng cao điểm và rải rác trong cả
thập phương, lễ hội đền Bà Chúa Kho đã trải năm, Ban quản lý cũng lên đến cả 500 người,
qua cả một quá trình phục dựng, làm mới với song dân làng vẫn đảm nhiệm được toàn bộ
những sự thay đổi căn bản. Tuy nhiên, dù lễ hội công tác quản lý và tổ chức lễ hội. Điều này
lớn như vậy nhưng các thành viên trong cộng cho thấy sức mạnh của cộng đồng làng và khi
đồng làng Cổ Mễ đã đứng ra lo liệu và quản mà quyền lợi và trách nhiệm gắn kết hài hòa
lý hiệu quả lễ hội này, họ đã tối ưu hóa được được với nhau, khi mà mục đích bảo vệ di sản
lợi ích của cộng đồng làng và duy trì được sự đồng hành được với mục đích kinh tế và thể
cố kết bền chặt các thành viên trong làng, tạo diện của cộng đồng thì việc quản lý, tổ chức
ra một quy trình quản lý và tổ chức khép kín lễ hội hoàn toàn có thể đặt vào tay cộng đồng
trong cộng đồng theo kiểu tự quản mà người chủ nhân. Chính họ sẽ biết cách quản lý và tổ
bên ngoài và cả các cấp chính quyền khó có chức lễ hội của họ một cách tốt nhất, phù hợp
thể can thiệp được. nhất với họ.
Số 29 (Tháng 9 - 2019) VĂN HÓA
NGHIÊN CỨU
29
- VĂN HÓA
NGHIÊN CỨU
Lễ Khao lề thế lính Hoàng Sa3 đang được thành phần tham dự… Nhà nước chỉ hỗ trợ
thực hành hiện nay ở đảo Lý Sơn, Quảng Ngãi kinh phí cho lễ Khao lề thế lính Hoàng Sa tại
lại thể hiện rõ vai trò của cộng đồng làng trong Âm Linh tự như một lễ thức riêng, còn lại, lễ
sự kết hợp, chia sẻ với vai trò của Nhà nước. Từ cúng thanh minh, cầu mùa từ trước đến nay
lễ hội của tộc họ, của làng đã mai một gần nửa vẫn do dân làng tự đóng góp để tổ chức.
thế kỷ đến lễ hội của quốc gia, lễ hội này đã Thay lời kết
thực sự trải qua một quá trình phục dựng và Qua các trường hợp cụ thể trên, chúng
làm mới ngoạn mục với sự đầu tư trọng điểm ta có thể thấy rõ vai trò quan trọng của cộng
của Nhà nước và sự in dấu đậm nét của đời đồng trong suốt quá trình phục dựng và thực
sống chính trị đương đại, song việc thực hành hành lễ hội truyền thống. Khi Nhà nước can
lễ hội, nhất là các nghi lễ quan trọng trong lễ thiệp quá sâu vào quá trình này sẽ đẩy cộng
hội, vẫn hoàn toàn do cộng đồng làng thực đồng làng và những người dân làng từ chỗ
hiện. Lễ hội được tổ chức hoàn toàn do kinh là chủ nhân của lễ hội, tham gia tự nguyện
phí của Nhà nước song chương trình tổ chức và vô tư, trở thành những người làm thuê để
lễ hội được Nhà nước và cộng đồng các làng lấy tiền, dẫn đến làm mất đi sự đa dạng, tính
thống nhất thành lệ để thực hành. Lễ hội vẫn dân dã và bản sắc văn hóa địa phương, điều
được thực hành trong đúng không gian tín mà lễ hội truyền thống đã bồi đắp từ bao đời
ngưỡng của hai làng An Vĩnh và An Hải - vốn mới có được. Do vậy, xu hướng nhà nước hóa
là cộng đồng chủ nhân của lễ hội này từ trong việc phục dựng và thực hành lễ hội truyền
quá khứ. Lễ Khao lề thế lính Hoàng Sa là một lễ thống nói riêng, thực hành văn hóa nói chung
hội mang tính cộng đồng, thậm chí còn mang là rất nên tránh. Công ước UNESCO năm 2003
tính dòng họ do các chức dịch và các tộc họ đã nhấn mạnh điều này: “Trong khuôn khổ
tiền hiền và hậu hiền tại hai làng An Vĩnh, An các hoạt động bảo vệ di sản văn hóa phi vật
Hải đứng ra tổ chức. Từ năm 2010 đến nay, thể, mỗi Quốc gia thành viên cần phải nỗ lực
việc thực hành nghi lễ do nhiều thành phần để đảm bảo khả năng tham gia tối đa của
khác nhau đảm nhiệm, tuy nhiên, vai trò chính các cộng đồng, nhóm người và trong một số
trong việc tổ chức lễ Khao lề thế lính Hoàng trường hợp là các cá nhân đã sáng tạo, duy trì
Sa vẫn do chính bà con các tộc họ ở An Vĩnh, và chuyển giao loại hình di sản này và cần phải
An Hải đảm nhiệm. Các tộc họ trong làng lo tích cực lôi kéo họ tham gia vào công tác quản
chuẩn bị lễ vật (đặc biệt là chuẩn bị thuyền lý” [8, Điều 15].
câu (có gắn buồm) mà các binh phu đi Hoàng Trong bức tranh phục dựng và thực hành
Sa, Trường Sa thuở trước dùng đi biển, trong lễ hội hiện nay, cộng đồng làng giữ vai trò chủ
mỗi thuyền có gắn hình nhân các binh phu đi động hay bị động, hay kết hợp, chia sẻ phụ
Hoàng Sa) và thực hành các nghi thức lễ yết, lễ thuộc vào từng cộng đồng làng và từng lễ hội
chánh tế, lễ khao lề (cúng trong nhà) và lễ thế cụ thể. Tuy nhiên, chỉ khi vai trò của cộng đồng
lính (hay tế lính, cúng ngoài sân) cũng như hội làng được đảm bảo, cộng đồng chủ nhân của
đua thuyền. Bằng cách đó, chủ thể của lễ Khao lễ hội được tôn trọng và được chủ động với lễ
lề thế lính Hoàng Sa vẫn là bà con nhân dân Lý hội của họ, được thực hành lễ hội theo cách
Sơn tổ chức thực hiện, Nhà nước chỉ có vai trò mà họ cho là tốt nhất với họ, phù hợp nhất
khuyến khích phục hồi, bảo tồn, hỗ trợ những với họ, thì khi đó lễ hội được phục dựng, được
điều kiện cần thiết, như kinh phí, phương tiện thực hành mới có sức sống lâu bền trong đời
di chuyển cho đại biểu dự lễ, mời thêm các sống văn hóa của cộng đồng.
30 Số 29 (Tháng 9 - 2019)
- DI SẢN VĂN HÓA
Nhìn vào các lễ hội truyền thống đang Tài liệu tham khảo
được thực hành hiện nay, chúng ta đã thấy 1. Nguyễn Chí Bền (chủ biên) (2010), Hội
nhiều bài học thất bại từ việc lễ hội được tổ Gióng ở đền Phù Đổng và đền Sóc, Nxb. Thế giới,
chức không dựa trên nhu cầu và ước muốn Hà Nội.
thực sự của cộng đồng làng, không huy động 2. Nguyễn Thị Hiền, Hoàng Cầm (2013), “Sáng
tạo truyền thống: nghiên cứu trường hợp Giỗ Tổ
được nguồn lực của cộng đồng làng và lễ hội
Hùng Vương vào ngày mồng 10-3 âm lịch hàng
trở nên xa lạ với chính cộng đồng chủ nhân. năm”, in trong Kỷ yếu hội thảo quốc tế Tín ngưỡng
Muốn nâng cao vai trò của cộng đồng trong thờ cúng tổ tiên trong xã hội đương đại (nghiên
phục dựng và thực hành lễ hội, có lẽ cần nhất cứu trường hợp thờ cúng Hùng Vương ở Việt Nam),
sự nhìn nhận bình đẳng giữa các cộng đồng, Nxb. Văn hóa - Thông tin, Hà Nội.
không định kiến, không áp đặt, tôn trọng sự 3. Nguyễn Thị Hiền (2014), “Bảo tồn di sản Hội
Gióng ở đền Phù Đổng và đền Sóc sau khi được
khác biệt, sự đa dạng văn hóa của các cộng
Unesco vinh danh”, in trong Kỷ yếu hội thảo quốc
đồng, từ đó tôn trọng sự lựa chọn khác nhau tế 10 năm thực hiện công ước bảo vệ di sản văn
của các cộng đồng và tôn trọng các thực hành hóa phi vật thể của Unesco (bài học kinh nghiệm và
văn hóa của họ. Các cơ quan nhà nước, các định hướng tương lai), Nxb. Khoa học và kỹ thuật,
chương trình dự án hỗ trợ phát triển hay phục Hà Nội.
dựng, bảo vệ phát huy các di sản văn hóa chỉ 4. Đinh Gia Khánh (1993), “Hội lễ dân gian
nên tư vấn, giúp đỡ về vốn, về ý tưởng công truyền thống trong thời hiện đại”, Văn hóa dân
gian, số 2.
việc, về phương pháp ứng dụng,… còn thực
5. Lê Hồng Lý (2008), Sự tác động của kinh tế
thi thế nào, lựa chọn ra sao, phục dựng và thực
thị trường vào lễ hội tín ngưỡng, Nxb. Văn hóa -
hành theo cách nào nên để cho cộng đồng tự Thông tin & Viện Văn hóa, Hà Nội.
quyết. Có như vậy, năng lực của cộng đồng 6. Ngô Đức Thịnh (2001), “Những giá trị của lễ
mới được nâng cao, các giá trị văn hóa mới hội cổ truyền trong đời sống xã hội hiện đại”, Văn
được sáng tạo, làm giàu, lưu giữ và trở thành hóa nghệ thuật, số 3.
nguồn lực quan trọng cho phát triển. 7. Ngô Đức Thịnh (2007), Về tín ngưỡng và lễ
hội cổ truyền, Nxb. Văn hóa - Thông tin & Viện Văn
N.T.P.C hóa, Hà Nội.
(PGS.TS, Viện trưởng Viện Nghiên cứu văn hóa, 8. UNESCO (2003), Công ước bảo vệ di sản văn
Viện Hàn lâm KHXHVN) hóa phi vật thể.
9. Viện Văn hóa Nghệ thuật quốc gia Việt
Nam (2013), Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên trong xã
Chú thích hội đương đại (nghiên cứu trường hợp thờ cúng
1
Ở bài viết này chúng tôi giới hạn phạm vi Hùng Vương ở Việt Nam), Nxb. Văn hóa - Thông
quan tâm ở cộng đồng làng mà không phải là tin, Hà Nội.
các dạng cộng đồng khác và tương ứng với đó
các lễ hội truyền thống mà chúng tôi quan tâm
Ngày nhận bài: 14 - 8 - 2019
cũng là những lễ hội vốn là lễ hội làng.
2
Theo số liệu của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du Ngày phản biện, đánh giá: 26 - 8 - 2019
lịch năm 2018. Ngày chấp nhận đăng: 25 - 9 - 2019
3
Khao lề thế lính: Làm lễ sống cho những
người đi biển không biết có về được hay không.
Nếu không về thì hôm đó là ngày giỗ của người
đi, vì không biết ngày chết của họ là ngày nào
nếu họ không về và cũng là thực hiện việc tế lễ
những người đã khuất trong những đợt đi trước.
Số 29 (Tháng 9 - 2019) VĂN HÓA
NGHIÊN CỨU
31
nguon tai.lieu . vn