- Trang Chủ
- Xã hội học
- Vai trò của chính quyền thành phố trong việc hỗ trợ kết nối doanh nghiệp và các cơ sở đào tạo
Xem mẫu
- KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC
VAI TRÒ CỦA CHÍNH QUYỀN THÀNH PHỐ TRONG VIỆC
HỖ TRỢ KẾT NỐI DOANH NGHIỆP VÀ CÁC CƠ SỞ ĐÀO TẠO
TS. Đinh Công Khải
TS. Nguyễn Văn Dư
Khoa Quản lý nhà nước, Trường Đại học Kinh tế TP.HCM
TÓM TẮT
Bài tham luận đưa ra góc nhìn về vai trò của chính quyền thành phố trong việc hỗ trợ
kết nối doanh nghiệp và nhà trường nhằm xây dựng chương trình đào tạo, định hướng nghề
nghiệp và tạo môi trường thực tập, trang bị kiến thức, kỹ năng cho sinh viên. Để nâng cao
khả năng tìm việc làm cho sinh viên khi ra trường, thông qua bàn luận, nhóm tác giả cho
rằng các trường cần chủ động trong việc liên kết trong khi đó chính quyền thành phố cần
có những cơ chế, chính sách động viên, khuyến khích doanh nghiệp tham gia vào công tác
đào tạo. Ngoài ra, chính quyền thành phố cần đóng vai trò quan trọng trong việc dự báo
nhu cầu nguồn lực, tăng cường công tác truyền thông hướng nghiệp nhằm giảm thiểu những
tổn thất vô ích của xã hội trong đào tạo.
Từ khóa: liên kết nhà trường và doanh nghiệp, thực hành nghề nghiệp, khả năng tìm việc.
1. VÌ SAO CẦN PHẢI LIÊN KẾT GIỮA NHÀ TRƯỜNG VÀ DOANH NGHIỆP?
Giáo dục đóng vai trò quan trọng trong việc đào tạo nguồn nhân lực phục vụ phát
triển kinh tế xã hội, nhất là trong nền kinh tế tri thức, nhân lực chính là nguồn tài nguyên
vô tận, không hữu hạn như nguồn tài nguyên thiên nhiên. Thực tế ở Nhật Bản, Đài Loan
và nhiều quốc gia phát triển khác đã cho thấy, dù không có nhiều nguồn tài nguyên thiên
nhiên nhưng nhờ vào nguồn nhân lực, kinh tế của các quốc gia này vẫn phát triển vượt bậc.
Giáo dục chính là cách để có thể tích lũy vốn con người nhằm tạo ra tăng trưởng kinh tế
thông qua việc nâng cao năng suất lao động.
Chất lượng nguồn nhân lực có mối quan hệ chặt chẽ với công tác đào tạo ở các cấp,
đặc biệt là giáo dục đại học (ĐH). Theo Võ Thị Kim Loan (trích dẫn từ Chu Hảo, 2014),
nhân lực chất lượng cao không đồng nghĩa với học vị cao mà đòi hỏi họ phải trở thành
những người có năng lực thực tế, không phải ở dạng tiềm năng, để hoàn thành nhiệm vụ
được giao một cách xuất sắc nhất và có đóng góp thực sự hữu ích cho xã hội. Cụ thể hơn,
Ngân hàng Thế giới chỉ ra yêu cầu đối với nguồn nhân lực trong đó gồm cả kiến thức và
kỹ năng, trình độ lành nghề để phát triển kinh tế - xã hội trong một cộng đồng (WB, 2000).
Kiến thức và kỹ năng là điều mà hầu hết mọi tổ chức tuyển dụng lao động đều yêu cầu ở
người lao động phải có. Chính vì thiếu những yêu cầu của nhà tuyển dụng nên tỷ lệ thất
29
- LIÊN KẾT GIỮA NHÀ TRƯỜNG VÀ DOANH NGHIỆP TRONG VIỆC GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM CHO SINH VIÊN…
nghiệp của sinh viên (SV) sau khi ra trường còn ở mức cao.
Bản tin về thị trường lao động Việt Nam của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội
công bố cho thấy tỷ lệ thất nghiệp của nhóm có trình độ cao đẳng (CĐ), ĐH và trên ĐH
gia tăng. Cụ thể, quý III năm 2017, số người thất nghiệp có trình độ ĐH trở lên là 237
nghìn người, chiếm tỷ lệ 4,51%, tăng so với quý trước là 3,63%. Nhóm người lao động có
trình độ CĐ thất nghiệp là 84,8 nghìn người, tăng 1,9 nghìn người so với quý trước. Trong
nửa đầu năm 2018, tỷ lệ thất nghiệp tuy có giảm nhưng vẫn ở mức cao. Số người thất
nghiệp có trình độ ĐH trở lên là 126 nghìn người, trình độ CĐ là 70,8 nghìn người. Theo
PGS Trần Xuân Nhĩ, nguyên Thứ trưởng Bộ GDĐT, thì đây là sự lãng phí mà nguyên nhân
là do nhiều chương trình đào tạo không sát với thực tế, nhà trường vốn chỉ dạy những gì
họ có chứ không dạy điều xã hội cần. Chương trình, kiến thức còn quá nặng nề, nghiêng
về lý thuyết, thiếu thực hành, thiếu hướng nghiệp trong nhà trường.
Tình trạng SV ra trường không làm đúng ngành được đào tạo cũng rất phổ biến. Cũng
theo thống kê của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội hiện có khoảng 60% SV ra trường
làm trái ngành. Thậm chí nhiều SV còn làm những công việc ở các khu công nghiệp như
lắp ráp linh kiện điện tử, công nhân may và phổ biến nhất hiện nay là chạy “xe ôm công
nghệ” cho các hãng Uber hoặc Grab, những công việc không đòi hỏi trình độ ĐH. Việc SV
không chịu tư duy tìm kiếm việc làm hoặc khởi nghiệp mà chỉ “nhăm nhăm” lao vào con
đường “chạy xe ôm công nghệ” để kiếm sống là đang làm cho đất nước bị thụt lùi, mất đà
phản triển, phóng viên Vương Phi, viện dẫn từ quan điểm của những nhà quản lý cho biết.
Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng SV ra trường thất nghiệp. Sự thụ động
trong tìm kiếm việc làm, thiếu linh hoạt, nhạy bén khi đi tìm việc; thiếu kỹ năng mềm, kỹ
năng giao tiếp, kỹ năng quản lý thời gian, lập kế hoạch,…; ảo tưởng về công việc trong
tương lai, không chấp nhận làm từ những công việc bình thường; không biết tạo dựng mối
quan hệ để trau dồi kiến thức, chia sẻ thông tin; không có kinh nghiệm làm việc thực tế là
những nguyên nhân chính mà các chuyên gia đã chỉ ra. Các chuyên gia cho rằng SV hãy
mạnh dạn đi làm cộng tác viên, làm bán thời gian, nộp hồ sơ đi xin thực tập tại các công ty
ngay từ năm 2 năm 3 để giải quyết yêu cầu về kinh nghiệm của nhà tuyển dụng.
Ngay cả khi chấp nhận tuyển dụng SV mới ra trường thì nhà tuyển dụng cũng phải
tiến hành đào tạo bổ sung cả về kiến thức và về kỹ năng. Ông Nguyễn Toàn Thắng, giám
đốc Trung tâm đào tạo thuộc Ban quản lý Khu công viên phần mềm Quang Trung trước đây
cho biết: “Hầu hết các các công ty phân mềm ở đây khi tuyển SV mới ra trường đều phải
tiến hành đào tạo nội bộ, cả về quy trình và kiến thức. Nhiều công ty lớn còn có cả một bộ
phận chuyên trách về đào tạo với thời gian từ 3 đến 6 tháng, tùy theo yêu cầu công việc”.
Không chỉ thiếu về kinh nghiệm mà cả ý thức nghề nghiệp, trách nhiệm với công việc và
tính kỷ luật cũng thiếu. Ông Nguyễn Hữu Nghĩa, giám đốc Công ty Tư vấn Chất lượng
VJQC, một công ty có hơn 15 năm tham gia vào việc tuyển chọn, huấn luyện và đưa thực
tập sinh đi làm việc ở Nhật Bản cho biết: “Tôi nhận thấy các doanh nghiệp (DN) Nhật Bản
30
- KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC
không chỉ quan tâm về trình độ (bằng cấp), mà chủ yếu họ cần những ứng viên có nhận
thức, thái độ, tác phong nghiêm túc, đúng đắn trong công việc và kinh nghiệm thực tế của
ứng viên. Thực tế cho thấy phần lớn lao động mới ra trường thường không đáp ứng được
những tiêu chuẩn cơ bản ấy. Họ “biết nhiều” nhưng “làm ít” và ít quan tâm để ý đến những
giá trị cơ bản như ý thức nghề nghiệp, trách nhiệm với công việc và tính kỷ luật thấp”.
Một số nghiên cứu trước cũng đã chỉ ra sự cần thiết trong việc liên kết giữa nhà trường
và DN. Trịnh Thị Mai Hoa (2008) cho rằng sự liên kết sẽ giúp nhà trường nâng cao chất
lượng đào tạo. Trong bối cảnh kinh tế thị trường, chất lượng đào tạo, tỷ lệ SV có việc làm
sẽ là kênh để tạo lợi thế cạnh tranh, xây dựng thương hiệu cho nhà trường. Về phía DN,
việc liên kết đào tạo sẽ giúp cho DN chủ động trong việc tìm được nguồn nhân lực phù hợp
và giảm chi phí đào tạo lại. Phạm Thị Thu Phương (2016) có một so sánh với mô hình hợp
tác ở các nước trên thế giới như Hà Lan, Thụy Sỹ, Bỉ, Mỹ,… đã đi vào thực tiễn, trong khi
đó ở Việt Nam, việc “học đi đôi với hành” còn mang tính “khẩu hiệu” dẫn đến SV có kết
quả tốt nghiệp xuất sắc cũng không đáp ứng được nhu cầu của nhà tuyển dụng. Tác giả đưa
ra 5 lý do cần thiết cho việc liên kết, trong đó nhấn mạnh đến vai trò của con người trong
một tổ chức, vai trò của công tác đào tạo của nhà trường và của DN sử dụng lao động.
Như vậy, từ lý thuyết cho đến thực tiễn đều cho thấy sự cần thiết phải đẩy mạnh việc
liên kết giữa nhà trường và DN trong đào tạo nhằm trang bị kiến thức và kỹ năng cho SV,
giúp SV ngay sau khi ra trường sớm tìm được việc làm, hòa nhập và đáp ứng nhu cầu của
các DN.
2. THỰC TẾ VỀ VIỆC LIÊN KẾT
Đứng trước nhu cầu của nhà tuyển dụng, nhiều trường đã chủ động trong việc phát
triển các chương trình đào tạo có liên kết với các DN nhằm tăng khả năng tìm được việc
làm cho SV sau khi tốt nghiệp. Về phía DN thì mục tiêu chính của việc liên kết là tìm
nguồn tuyển dụng dồi dào hoặc đưa công nghệ của họ đào tạo cho SV. Tuy nhiên, sự liên
kết này mới chỉ diễn ra ở một số cơ sở đào tạo và một số DN điển hình mà chưa được thực
hiện rộng rãi.
2.1. Sự chủ động của nhà trường
Sáng kiến thành lập ngân hàng mô phỏng của khoa Tài chính-Ngân hàng trường ĐH
Mở thành phố Hồ Chí Minh (TP.HCM) là một cách giúp SV ngành này có cơ hội thực
hành nhiều nghiệp vụ của ngân hàng. Với đặc trưng rất khắt khe, đòi hỏi giao dịch chính
xác cùng với những nguy cơ của rủi ro hệ thống, trong quá trình đi thực tập tại ngân hàng,
SV không có cơ hội để thực hiện các nghiệp vụ, nhất là các nghiệp vụ liên quan đến những
giao dịch được thao tác trên hệ thống phần mềm quản lý của ngân hàng. Tiến sĩ Trần Thế
Sao, hiện phụ trách mô hình ngân hàng mô phỏng cho biết “Ngoài việc đi thực tập ở ngân
hàng với mục tiêu trau dồi kỹ năng giao tiếp, xử lý tình huống thì SV của Khoa được thực
hành nghề nghiệp ở ngay tại trường. Hệ thống ngân hàng mô phỏng ở đây cho phép SV
31
- LIÊN KẾT GIỮA NHÀ TRƯỜNG VÀ DOANH NGHIỆP TRONG VIỆC GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM CHO SINH VIÊN…
thực hiện được rất nhiều nghiệp vụ và nhờ đó mà nhiều SV sau khi ra trường có thể đáp
ứng được yêu cầu của nhà tuyển dụng”.
Nhằm nâng cao chất lượng đào tạo, nâng cao kỹ năng nghề nghiệp, các trường trong
khối ngành kỹ thuật không ngừng đẩy mạnh việc liên kết với các DN để đưa SV đi thực
tập và tạo việc làm cho SV khi ra trường. Hiệu trưởng trường ĐH Bách khoa Đà Nẵng,
Đoàn Quang Vinh, trả lời báo chí cho biết hiện trường đã có mối quan hệ chặt chẽ với hơn
200 DN và các tập đoàn kinh tế lớn như Công ty CP Ô-tô Trường Hải, Tập đoàn Intel,…
nhằm tạo cầu nối vững chắc giữa nhà trường và DN trong việc giới thiệu SV thực tập và
tạo việc làm cho SV sau khi tốt nghiệp. Tương tự, khoa Công nghệ Cơ khí của trường ĐH
Công nghiệp TP.HCM không ngừng mở rộng mạng lưới liên kết với các DN hoạt động
trong ngành cơ khí để đưa SV đi thực tập ở khu vực TP.HCM và các tỉnh lân cận. Không
chỉ gắn kết với DN về nơi thực tập mà Khoa còn tiến hành định hướng nghề nghiệp cho
tân SV ngay từ khi mới nhập học tại trường. Điểm đặc biệt của Khoa là xây dựng mạng
lưới cựu SV và chính những cựu SV của Khoa đã không chỉ tạo nơi thực tập mà còn chia
sẻ kinh nghiệm nghề nghiệp và cả trao học bổng cho SV, tạo động lực cho SV trong học
tập. Điều này cũng phù hợp với kết quả nghiên cứu của Trịnh Thị Mai Hoa (2008). Không
chỉ có khoa Công Nghệ Cơ Khí mà ở nhiều khoa khác trong trường ĐH Công nghiệp
TP.HCM cũng được đánh giá cao về việc đẩy mạnh liên kết với DN để SV sớm có môi
trường thực hành nghề nghiệp.
2.2. Sự tham gia của doanh nghiệp
Về phía DN, không chấp nhận cảnh bị động trong tuyển dụng, nhiều đơn vị đã chủ
động tiến hành liên kết với nhà trường, nhận sinh viên thực tập nhằm tìm được nguồn nhân
lực có chất lượng cao.
“Độc đáo mô hình học kỳ doanh nghiệp” là tựa đề bài báo của phóng viên Giang
Nam viết về mô hình liên kết mà trong đó Công ty CP Sài Gòn Food đã tạo sân chơi còn
nhà trường thì kết nối để SV có cơ hội thực tập. Mới hình thành và đi vào hoạt động được
2 năm nhưng công ty đã tổ chức được 8 khóa học với sự tham gia của gần 700 SV đến từ
nhiều trường như ĐH Nông Lâm, ĐH Công nghiệp Thực phẩm, ĐH Thủy sản Nha
Trang,… tham gia trải nghiệm những công việc thực tế trong ngành chế biến thực phẩm.
Bài báo cho biết nhiều SV tỏ ra hài lòng khi trực tiếp được thao tác trên các máy móc hiện
đại, phức tạp, tại xưởng sản xuất. Về phía DN, với kết quả khảo sát có đến 72% SV đến
thực tập có nguyện vọng ở lại làm việc tại công ty là minh chứng rất rõ về nguồn tuyển
dụng nhân viên chất lượng cao, phù hợp với hoạt động của DN.
“Quản trị viên tập sự” là chương trình huấn luyện được Công Ty Cổ Phần Vàng Bạc
Đá Quý Phú Nhuận (PNJ) triển khai cho SV xuất sắc đang học năm cuối hoặc mới tốt
nghiệp có cơ hội được trải nghiệm làm việc ở nhiều vị trí khác nhau tại nhiều phòng ban
khác nhau. Trong suốt thời gian tập sự, công ty cử người hỗ trợ, theo dõi, đánh giá và đây
là cơ sở để công ty ra quyết định trong việc tuyển dụng, trở thành nhân viên chính thức của
32
- KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC
PNJ. Với mô hình này PNJ không chỉ có nguồn tuyển dụng dồi dào và là những ứng viên
xuất sắc mà người được tuyển dụng cũng sẽ sẵn sàng làm việc cho PNJ.
“Chương trình đào tạo kỹ thuật Toyota” (T-TEP) được Công ty Toyota Việt Nam
ký kết, triển khai ở nhiều trường ĐH có ngành cơ khí, chế tạo máy như trường CĐ Giao
thông Vận tải Hà Nội, ĐH Sư phạm Kỹ thuật TP.HCM, ĐH Công nghiệp Hà Nội, CĐ Kỹ
thuật Cao Thắng TP.HCM, ĐH Sư phạm Kỹ thuật Vĩnh Long,... Sau 18 năm hoạt động của
T-TEP, Toyota đã chi gần 1 triệu đô để xây dựng chương trình đào tạo, trang bị máy móc
phục vụ học tập, cấp học bổng cho SV, nâng cao trình độ chuyên môn cho giảng viên.
Không chỉ có SV tham gia chương trình T-TEP được tham gia vào thực hành nghề nghiệp
mà Toyota Việt Nam còn tạo nhiều cơ hội cho SV các ngành khác như quản trị, tài chính,
kỹ sư sản xuất,… tham gia thực tập tại công ty trong thời linh hoạt, phù hợp với ngành đào
tạo. Thông tin “Các thực tập sinh đóng vai trò quan trọng trong rất nhiều phòng ban của
Toyota” được đăng tải trên website của Công ty cho thấy quan điểm của họ đối với công
tác thực tập, tuyển dụng.
2.3. Vai trò của cơ quan quản lý
Không chỉ là sự năng động của nhà trường hay chiến lược tìm kiếm nguồn nhân lực
của DN, Nghị định 111/2017/NĐ-CP quy định về tổ chức đào tạo thực hành trong đào tạo
khối ngành sức khỏe cho thấy rõ vai trò của cơ quan quản lý trong việc tổ chức chương
trình đào tạo gắn với thực hành. Là một ngành học đòi hỏi tính thực hành nghề nghiệp cao,
SV của các trường y khoa luôn phải kết hợp giữa bài học lý thuyết và thực hành lâm sàng
tại bệnh viện. Để đảm bảo cho SV có nơi thực tập tốt, các trường đào tạo y khoa đều đặt
bộ môn ngay tại bệnh viện. Nghị định này của chính phủ đã khuyến khích, tạo môi trường
thực tập, tạo sự gắn kết chặt chẽ giữa nhà trường và bệnh viện, giúp cho nhiều thế hệ SV y
khoa có môi trường thực hành tốt ngày trong quá trình học.
Nghị định 111/2017/NĐ-CP
Điều 13. Quyền và trách nhiệm của cơ sở thực hành.
1. Cơ sở thực hành có các quyền sau đây:
a. Được ưu tiên tham gia các chương trình, dự án đầu tư trong lĩnh vực y tế và đào
tạo nhân lực y tế;
b. Được sử dụng cơ sở vật chất và trang thiết bị của cơ sở giáo dục (nếu có) đặt tại
cơ sở thực hành trong hoạt động chuyên môn;
c. Được tính điểm khi đánh giá chất lượng và xếp hạng cơ sở y tế theo quy định của
Bộ trưởng Bộ Y tế;
d. Được công nhận là một bộ phận thực hiện nhiệm vụ đào tạo của cơ sở giáo dục
sau khi ký hợp đồng chi tiết đào tạo thực hành với cơ sở giáo dục.
33
- LIÊN KẾT GIỮA NHÀ TRƯỜNG VÀ DOANH NGHIỆP TRONG VIỆC GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM CHO SINH VIÊN…
Với mục tiêu đưa Việt Nam sớm trở thành nước mạnh về công nghệ thông tin và mục
tiêu tăng cường năng lực tiếp cận cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ 4 của Chính phủ,
Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ban hành công văn số 5444/BGDĐT-GDĐH về việc áp dụng
cơ chế đặc thù đào tạo các ngành thuộc lĩnh vực công nghệ thông tin trình độ ĐH. Ngoài
việc ban hành những cơ chế đặc thù về đào tạo tại điều 1, điều 2 của công văn này quy định
rõ về việc: “Hợp tác giữa cơ sở đào tạo với doanh nghiệp, hiệp hội nghề nghiệp”. Theo
đó, các cơ sở đào tạo phải gắn kết với các DN nhằm (i) tạo môi trường thực tập, nâng cao
kỹ năng thực hành, đẩy mạnh những ứng dụng mang tính thực tiễn cho SV; (ii) thỏa thuận
với DN để cử chuyên gia tham gia giảng dạy, hướng dẫn thực hành; (iii) phối hợp với các
DN, hiệp hội để dự báo nhu cầu nhân lực về cả số lượng, chất lượng. Về chương trình đào
tạo theo hướng mở được đề cập tại mục 3, theo đó ngoài, những nội dung cốt lõi thì cần
đưa vào phần tự chọn hướng đến những công nghệ mới trong lĩnh vực công nghệ thông
tin. Trên tinh thần đó, thời gian qua, nhiều trường đào tạo ngành công nghệ thông tin đã có
những thay đổi đáng kể, nhất là việc liên kết với các DN. Trường ĐH Công nghệ Thông
tin TP.HCM đã đẩy mạnh việc đánh giá theo tiêu chuẩn AUN-QA trong đó có những nội
dung đánh giá về trang thiết bị thực hành, nội dung chương trình nền tảng và chuyên sâu,
đội ngũ giảng viên và chuyên gia,... Cũng theo thông tin trên trang web của trường thì cơ
sở đào tạo này đã ký kết với nhiều DN phần mềm, tổ chức ngày hội việc làm nhằm kết nối
giữa DN và SV. Nhiều cơ sở đào tạo ngành công nghệ thông tin khác cũng rất năng động
trong việc điều chỉnh chương trình học, đẩy mạnh việc thực tập theo các dự án, kết hợp
đào tạo để cấp các chứng chỉ nghề có uy tín như chứng chỉ của Microsoft, Oracle, Cisco
ngay trong thời gian học ở trường.
Tóm lại, một số thực trạng nêu trên đã chứng minh cho thấy tính hiệu quả từ hoạt
động liên kết giữa các cơ sở đào tạo và DN trong việc xây dựng chương trình đào tạo,
hướng nghiệp, tạo môi trường thực tập. Để đẩy mạnh việc liên kết, thông qua tìm hiểu
những trường hợp cụ thể nêu trên cho thấy các cơ sở đào tạo cần phải chủ động trong việc
kết nối với DN trên tinh thần hợp tác đôi bên, nhà trường và DN, đều có lợi và phân công
trách nhiệm rõ ràng. Tuy nhiên, trong một số trường hợp đặc biệt vẫn cần có sự hỗ trợ,
định hướng và can thiệp của cơ quan quản lý.
3. KẾT LUẬN
Thật khó để tìm ra câu trả lời “Chính quyền các cấp đóng vai trò quan trọng như thế
nào, cần làm gì trong việc hỗ trợ sự kết nối giữa DN và các cơ sở đào tạo với mức độ
chuyên môn khác nhau?”. Tuy nhiên, dựa vào một số bằng chứng, chúng tôi đưa ra một
số ý kiến tham luận bàn về “Vai trò của chính quyền thành phố trong việc hỗ trợ kết nối
DN và các cơ sở đào tạo chuyên sâu, đào tạo nghề” như sau:
Về quan điểm, nhà trường cần xem việc liên kết với DN là một trong những nhiệm
vụ trọng tâm trong công tác đào tạo. Qua việc lược khảo lý thuyết cũng như thực tiễn đều
cho thấy sự cần thiết phải trang bị cả kiến thức, kỹ năng, tinh thần thái độ cho SV trong
suốt quá trình đào tạo. Để quan điểm này được lan tỏa trong các cơ sở đào tạo thì chính
34
- KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC
quyền thành phố cần phổ biến rộng rãi, khuyến khích và tạo môi trường để nhà trường và
DN gặp gỡ, kết nối để từ đó hoàn thành sứ mệnh của công tác đào tạo là tạo ra nguồn nhân
lực cho xã hội mà không lãng phí. Mở rộng hơn, các cơ quan quản lý cần đẩy mạnh, khuyến
khích các cơ sở đào tạo có những mô hình nhằm cải cách hình thức đào tạo nặng về lý
thuyết mà cần kết hợp với thực hành nghề nghiệp cho sinh viên trong suốt thời gian
theo học.
Về hành động, các trường cần đóng vai trò chủ động trong công tác đào tạo và liên
kết với các DN trong khi đó chính quyền thành phố cần tạo những cơ chế động viên
khuyến khích. Một số mô hình ở trường ĐH Mở, trường ĐH Công Nghiệp TP.HCM,
trường ĐH Công nghệ Thông tin đã cho thấy rõ vai trò của nhà trường trong việc tạo môi
trường thực tập, cập nhật chương trình học, tìm nơi thực tập, định hướng rõ nghề nghiệp,…
nhằm giúp cho SV trang bị kiến thức, kỹ năng và có thể đáp ứng được yêu cầu của nhà
tuyển dụng ngay sau khi ra trường. Về phía DN, ngoài việc tìm được nguồn tuyển sinh dồi
dào hoặc một số DN có nhu cầu nhận SV thực tập để định hướng thương hiệu sản phẩm
cho các khách hàng trong tương lai thì nhiều DN còn chưa nhiệt tình tham gia vào công
tác đào tạo SV. Chính vì thế mà chính quyền thành phố cần có cơ chế động viên, khuyến
khích, xây dựng những tiêu chí cụ thể nhằm ghi nhận sự đóng góp của DN, nhất là các DN
lớn, trong công tác đào tạo.
Về công tác hướng nghiệp, chính quyền thành phố cần đóng vai trò chủ chốt trong
việc kết nối các cơ quan hữu quan để dự báo nhu cầu nhân lực, tránh tình trạng lãng
phí trong đào tạo: Thực trạng SV ra trường thất nghiệp hoặc làm việc trái nghề đào tạo đặt
ra cho các cơ quan quản lý của thành phố phải có kế hoạch để dự báo nhu cầu nguồn nhân
lực, qua đó định hướng, phân luồng học sinh. Việc tăng cường công tác truyền thông hướng
nghiệp và nhu cầu nguồn nhân lực sẽ giúp phụ huynh và học sinh phổ thông có thêm thông
tin trong việc ra quyết định lựa chọn ngành học, hướng đi tiếp theo khi tốt nghiệp phổ
thông, tránh tình trạng xã hội phải tốn kém vô ích trong công tác đào tạo mà SV ra trường
lại rơi vào tình trạng thất nghiệp hoặc làm việc không đúng ngành nghề đào tạo.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Phạm Minh Hạc, 2003. Đi vào thế kỷ XXI phát triển nguồn nhân lực chất
lượng cao phục vụ CNH-HĐH đất nước. Tạp chí LĐ- XH, Số 215.
2. Võ Thị Kim Loan, 2014. Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao trong bối cảnh
hội nhập kinh tế quốc tế ở thành phố Hồ Chí Minh. Luận án tiến sĩ kinh tế.
3. Trịnh Thị Mai Hoa, 2008. Liên kết đào tạo giữa nhà trường đại học với doanh
nghiệp ở Việt Nam. Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Kinh tế-Luật 24 (2008) 30-34.
4. Phạm Thị Thu Phương, 2016. Các phương thức hợp tác giữa cơ sở đào tạo với
doanh nghiệp trong đào tạo sinh viên ngành du lịch đáp ứng nhu cầu hội nhập. Tạp
chí Phát triển KH&CN, tập 19, số X5-2016.
35
- LIÊN KẾT GIỮA NHÀ TRƯỜNG VÀ DOANH NGHIỆP TRONG VIỆC GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM CHO SINH VIÊN…
5. WB, 2000. World Development Indicators. Oxford, London.
6. Nghị định 111/2017/NĐ-CP: Quy định về tổ chức đào tạo thực hành trong đào tạo
khối ngành sức khỏe.
7. Công văn 5444/BGDĐT: Về việc áp dụng cơ chế đặc thù đào tạo các ngành thuộc
lĩnh vực CNTT trình độ đại học.
8. Thông tin từ websie của Bộ Lao Động-Thương Binh và Xã Hội. Hai mươi năm
chuyển dịch cơ cấu lao động ở Việt Nam. http://www.molisa.gov.vn/vi/pages/
ChiTiet.aspx?IDNews=14718, truy cập ngày 14/12/2016.
9. Thông tin từ websie baomoi.com. Giật mình 60% cử nhân làm trái nghề, quá nhiều
người chọn việc chạy Grab, Uber để kiếm sống. https://baomoi.com/giat-minh-60-
cu-nhan-lam-trai-nghe-qua-nhieu-nguoi-chon-viec-chay-grab-uber-de-kiem-
song/c/24286282.epi, truy cập ngày 14/12/2017.
10. Thông tin từ websie nhandan.com.vn.237 nghìn cử nhân thất nghiệp trong quý III
năm 2017.http://www.nhandan.com.vn/xahoi/item/35112802-237-nghin-cu-nhan-
that-nghiep-trong-quy-iii-nam-2017.html, truy cập ngày 26/12/2017.
11. Thông tin từ websie nld.com.vn. Độc đáo mô hình học kỳ doanh nghiệp,
https://nld.com.vn/cong-doan/doc-dao-mo-hinh-hoc-ky-doanh-nghiep-
20180331202536056.htm, truy cập ngày 1/4/2018
12. Thông tin từ website của các trường:
https://www.uit.edu.vn/; http://hcmute.edu.vn/; http://hufi.edu.vn/, v.v.v
36
nguon tai.lieu . vn