Xem mẫu

  1. TRƯỜNG ĐẠI HỌC SÀI GÒN SAIGON UNIVERSITY TẠP CHÍ KHOA HỌC SCIENTIFIC JOURNAL ĐẠI HỌC SÀI GÒN OF SAIGON UNIVERSITY Số 73 (01/2021) No. 73 (01/2021) Email: tcdhsg@sgu.edu.vn ; Website: http://sj.sgu.edu.vn/ ỨNG DỤNG LOGIC PHI HÌNH THỨC TRONG LẬP LUẬN NGÔN NGỮ TỰ NHIÊN VÀ PHÁT HIỆN NGỤY BIỆN Applying informal logic in natural language argumentation and detecting fallacies ThS. Nguyễn Hoàng Hiệp Đài Truyền hình TP.HCM TÓM TẮT Logic phi hình thức là logic được sử dụng trong các lập luận ngôn ngữ tự nhiên và được xem là phương thức tốt nhất để phát hiện các lí lẽ ngụy biện trong lí lẽ đời thường. Logic phi hình thức được sử dụng để đánh giá, phân tích và cải thiện các lí lẽ đời thường trong quá trình trao đổi giữa cá nhân, trong quảng cáo, tranh luận chính trị, tranh cãi pháp lý cũng như trong các hình thức truyền thông đại chúng. Để lập luận một cách hợp lý, chúng ta phải: (1) lập luận trên cơ sở các tiền đề hợp lý, (2) có tất cả thông tin liên quan củng cố, bổ trợ cho tiền đề, và (3) lập luận một cách hợp lý. Trái với lập luận chặt chẽ, đó là ngụy biện. Ngụy biện là những kiểu lập luận sai nhưng lại có vẻ như là kiểu lập luận đúng. Lập luận một cách ngụy biện khi không đáp ứng ba tiêu chí trên. Từ khóa: lập luận, logic phi hình thức, ngôn ngữ tự nhiên, ngụy biện ABSTRACT Informal Logic is the study of logic as used in natural language arguments and considered the best way to detect fallacious arguments in informal reasoning. Informal logic is used to assess, analyse and improve the informal reasoning in the course of personal exchange, advertising, political debate, legal argument, and in other forms of mass media. To reason cogently, we must: (1) reason from justified premises, (2) include all relevant information at our disposal, and (3) reason validly. Contrary to the cogent reasoning, it is a fallacy. Fallacies are patterns of poor reasoning which appear to be patterns of good reasoning. We reason fallaciously when we do not satisfy 3 criteria above. Keywords: argumentation, informal Logic, natural languages, fallacies 1. Đặt vấn đề người không thể tư duy nếu không dùng Đối tượng của logic nói chung, và đến ngôn ngữ. Khái niệm được thể hiện logic hình thức nói riêng là cấu trúc hình bằng từ ngữ, phán đoán được thể hiện bằng thức khái quát và quy luật của tư duy. câu, suy luận được thể hiện bằng chuỗi Trong logic người ta xây dựng những câu. Cho nên ngôn ngữ được sử dụng như phương pháp tiếp cận và nhận thức thế một công cụ để tư duy, diễn đạt những điều giới. Đó là xây dựng những khái niệm, chúng ta tư duy thành những diễn ngôn. phán đoán, các phương pháp suy luận, nêu Trong quá trình giao tiếp, con người cũng giả thuyết, chứng minh, bác bỏ, v.v. Con thông báo, biểu đạt tư tưởng, chứng minh, Email: hoanghieptv77@gmail.com 53
  2. SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 73 (01/2021) thuyết phục, lập luận, bác bỏ... nghĩa là nhất (A là A), quy luật bài trung (A hoặc chúng ta đều tư duy. Vì vậy, cũng có không A), quy luật phi mâu thuẫn (không những quy luật ngôn từ để biểu hiện, phản thể đúng cả A và không A). Logic hình ánh tư duy và tiếp nhận thông tin. Đi đôi thức là logic hai giá trị, nó đòi hỏi mọi phán với lập luận đúng là lối nói ngụy biện, lập đoán mà nó xét phải có giá trị đúng hoặc luận sai. Ngụy biện là những kiểu lập luận sai (Phan Đình Diệu, 1993, tr.34). sai nhưng lại có vẻ như là kiểu lập luận Ví dụ: Logic có mệnh đề Nếu A thì B đúng; nó khiến người nghe hoặc người tiếp Như trong mệnh đề toán “Nếu số nào nhận thông tin “bị đánh lừa” lập luận đó chia hết cho 6 thì số đó cũng chia hết cho tưởng là đúng nhưng thực ra là sai do bị 2”. Ở trường hợp này, chia hết cho 6 là đánh tráo khái niệm hoặc một lí lẽ, thông điều kiện đủ để chia hết cho 2. tin nào đã bị giấu đi. Từ (A) sẽ suy ra mệnh đề phản – đảo 2. Nội dung chính tương đương: Nếu không B thì không A 2.1. Logic phi hình thức xuất phát từ Như trong mệnh đề “Nếu số nào lập luận đời thường không chia hết cho 2 (như các số 3, 5, 7…) Logic là bộ môn giúp nâng cao khả thì cũng không chia hết cho 6”. Trong năng tư duy, nhận xét, phân tích, đánh giá trường hợp này. Chia hết cho 2 là điều kiện vấn đề. Với quan niệm như trên, nhiều cần để chia hết cho 6. người đã nhận định: logic có thể được đưa Tuy nhiên trong diễn ngôn đời thường, vào ứng dụng trong lập luận ngôn ngữ tự ngưởi ta còn coi A là điều kiện đủ duy nhất nhiên. Lập luận trong ngôn ngữ tự nhiên là của (B). Nghĩa là từ (A) sẽ “suy ra” không các diễn ngôn đời thường mà chúng ta đúng một cách logic những mệnh đề thường xuyên thực hiện như giải quyết các (C), (D): tranh cãi, tranh luận, thực hiện các yêu cầu (C) Nếu không A thì không B về thông tin, xử lý các vấn đề tranh (D) Nếu B thì A luận.v.v. Tuy nhiên những ai đã từng Nhưng trong đời sống, ta lại thường nghiên cứu sâu logic sẽ nhận thấy rằng khả gặp nhiều phán đoán mà tính đúng sai khó năng “nội lực” của logic để giải quyết tất được xác định rõ ràng. Trong các trường cả các vấn đề thực tế trong cuộc sống xã hợp đó, khó có thể thực hiện các lập luận hội hàng ngày rất hạn chế ở một số phương logic hình thức, nhất là khi gặp phải các lập diện quan trọng. luận, lí lẽ trong cuộc sống thường nhật, đặc Logic hình thức cho ta các quy luật để biệt gặp phải các lập luận “cố ý” làm cho hình thành các khái niệm, các phán đoán và người tiếp nhận hiểu lầm, hiểu sai sự thật – đặc biệt các phương pháp suy lý để tiến ngụy biện (Nguyễn Đức Dân, 2018, tr.67). hành các lập luận trên các phán đoán đó. Trong thực tế đã xuất hiện một vấn đề Một đặc điểm cơ bản của logic hình thức là nổi cộm là khi áp dụng logic hình thức, xem mỗi phán đoán hoặc đúng, hoặc sai. chúng ta rất khó biết biết chính xác những Logic hình thức thường không quan tâm lí lẽ được viện dẫn ra để lập luận thì lí lẽ đến nội dung của các phán đoán, mà chỉ nào được xem là đúng và lí lẽ nào chưa quan tâm đến các quan hệ chuyển đổi giá chặt chẽ. Khi sử dụng logic hình thức trong trị chân lý của các phán đoán. Các quy luật các diễn ngôn đời thường, thì rất khó xác cơ bản của logic hình thức là quy luật đồng định các tiền đề, kết đề có chức năng 54
  3. NGUYỄN HOÀNG HIỆP TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN nhiệm vụ như thế nào. đã “ăn sâu” vào lí lẽ. Logic phi hình thức Với những yêu cầu cấp thiết phải có cũng khó hơn logic hình thức do ngữ nghĩa một phương thức mới để có thể đánh giá, của các lời nhận định trong ngôn ngữ tự nhận xét các diễn ngôn xã hội hàng ngày nhiên phức tạp hơn nhiều so với ngữ nghĩa một cách chính xác, từ logic hình thức con của hệ thống logic hình thức. Qua đó người từng bước hình thành một bộ môn chúng ta thấy logic phi hình thức ra đời đã mới đó là logic phi hình thức. Logic phi đáp ứng được nhu cầu phát triển của xã hội hình thức giúp con người nâng cao khả và của ngôn ngữ học. năng lập luận đời thường trên các lĩnh vực Logic phi hình thức là một chuyên giao tiếp xã hội, quảng cáo, tranh luận ngành xây dựng một phương pháp luận để trong lĩnh vực chính trị, lí lẽ pháp lý và đánh giá, lý giải, phân tích và xây truyền thông thông tin đại chúng. dựng những lập luận trong diễn ngôn đời Chúng ta có thể tìm thấy nhiều tài liệu thường cũng như diễn ngôn khoa học, từ về sự phát triển của logic phi hình thức của nói năng trao đổi hàng ngày, tranh nhiều tác giả về sự ứng dụng của logic hình luận, quảng cáo, bình luận báo chí, cho đến thức (informal logic) trong cuộc sống. Các diễn từ chính trị, báo cáo khoa học, v.v. tác giả đã mạnh dạn đưa các dẫn chứng về Logic phi hình thức bao gồm cả những suy diễn ngôn, lập luận sai, ngụy biện ngay luận theo logic truyền thống lẫn những suy trong đời sống được trích dẫn từ báo chí, luận phi hình thức (Nguyễn Đức Dân, các phương tiện thông tin đại chúng, quảng 2013, tr.3). Vì vậy, có thể khẳng định logic cáo và các tranh luận, thuyết trình, phát phi hình thức là logic đời thường, là những biểu trong các chiến dịch tranh cử của các lí lẽ, lập luận đời thường không theo quy chính trị gia để minh họa cho các bài học tắc của logic hình thức. về logic như cuốn Logic and Để lập luận được chặt chẽ, không rơi Contemporary Rhetoric: The Use of Reason vào tình trạng bị sai, đồng thời phát hiện in Everyday Life của Howard Kahane, những kiểu ngụy biện đổi trắng thành đen, Politicians and Rhetoric The Persuasive thì lập luận phải đảm bảo đúng quy chuẩn, Power of Metaphor của Jonathan nghĩa là có đủ ba thành tố logic gồm: tiền Charteris-Black, Metaphor and Discourse đề/luận cứ, lí lẽ và kết đề. Trong đó: của Andreas Musolff, Say it Like Obama Tiền đề là một hoặc nhiều dữ liệu xuất and Win! The Power of Speaking with phát làm căn cứ cho lập luận. Từ đây suy Purpose and Vision của Shel Leanne hoặc ra kết đề. trên website Lí lẽ là những yếu tố mà nhờ nó chúng https://www.jfklibrary.org/sites/default/ ta xuất phát từ tiền đề để suy ra kết đề. files/2018-06/Rhetoric_of_the_Inaugural_ Kết đề là sự khẳng định đích hoặc là Address.pdf. khẳng định mục tiêu. Mối liên hệ giữa logic hình thức và Do đó, một lập luận có sức thuyết logic phi hình thức không đơn giản. Logic phục cao sẽ hội tụ và thoả mãn ba điều phi hình thức là một ngành học về logic để kiện sau: ứng dụng trong các lí lẽ ngôn ngữ tự nhiên. Thứ nhất, người phát ngôn phải đưa ra Logic phi hình thức phức tạp hơn do rất những tiền đề hợp lý và đã được chứng khó tách cấu trúc logic hình thức ra khi nó minh là đúng. 55
  4. SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 73 (01/2021) Thứ hai, bản thân người phát ngôn độc lập, và sự thật đã thành một nước tự phải nắm chắc tất cả các thông tin, các lí lẽ do, độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam có giá trị và liên quan đến các tiền đề đã quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, được nêu ra. tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự Thứ ba, các lập luận của người phát do, độc lập ấy”. ngôn phải đúng và hợp lý. Điều này có 2.2. Thuyết Ngụy biện nghĩa là khi đã có đã cơ sở xác đáng để Các công trình đầu tiên về logic phi chấp nhận tiền đề đã đưa ra là đúng thì mới hình thức đều có khuynh hướng phân tích thuyết phục người nghe chấp nhận kết luận các lập luận thông thường trong xã hội của lập luận. dưới dạng các ngụy biện. Các định nghĩa Ví dụ: truyền thống đã đưa ra cách giải thích về Lí lẽ trong Tuyên ngôn độc lập bất hủ ngụy biện như sau: Ngụy biện là các kiểu của Chủ tịch Hồ Chí Minh đều được dựa lập luận sai nhưng lại có vẻ rất giống các trên luận đề Tuyên ngôn độc lập của nước lập luận đúng (Christoper W. Tindale, Mỹ (1776) và Tuyên ngôn Nhân quyền và 2007, tr.2). Cách định nghĩa chung chung, Dân quyền của cách mạng Pháp (1791): không rõ ràng, cụ thể là việc xác định khi “Tất cả mọi người sinh ra đều có quyền nào lập luận sai có vẻ như lập luận đúng là bình đẳng. Tạo hoá cho họ những quyền một điều rất khó, nhất là khi hình thức bên không ai có thể xâm phạm được; trong ngoài mang tính chủ quan dễ thuyết phục những quyền ấy có quyền được sống, người nghe. Ví dụ: một người nhờ xuất quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc” thân từ một thành phần tốt (bố của ông ta (Tuyên ngôn độc lập của nước Mỹ) và là một người bình thường) mà trở thành “Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về một quan chức lớn; con ông ta không ra gì, quyền lợi, và phải luôn luôn được tự do và chỉ lêu lỏng, ăn chơi; được cái may cháu bình đẳng về quyền lợi” (Tuyên ngôn ông ta lại khá, đỗ tiến sĩ ở một trường đại Nhân quyền và Dân quyền của Pháp). Đây học danh giá nước ngoài; rất tự hào về là những luận cứ được Chủ tịch Hồ Chí cháu nhưng ông rất bực tức với con trai, Minh viện dẫn, có tính pháp lý cao và được thường mắng con là đồ không ra gì. Một nhiều quốc gia công nhận. lần không chịu được, đứa con không ra gì Từ chính những lập luận chắc chắn này đã cãi lại ông như sau: trên, Bác Hồ đã mở rộng theo đúng tinh Cha của cha không bằng cha của con. thần tự do, dân chủ, bình đẳng: Suy rộng Con của cha cũng không bằng con của ra, câu ấy có nghĩa là: tất cả các dân tộc con. Sao cha lại mắng con là đồ bỏ đi? trên thế giới đều sinh ra bình đẳng; dân Quan chức nọ tức quá nhưng không tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung biết bác bỏ như thế nào (Nguyễn Đức Dân, sướng và quyền tự do. Đây là những lí lẽ 2005, tr.252). (lập luận suy diễn) mà không ai bác bỏ Thực chất ngụy biện (lập luận sai) là được một khi đã công nhận luận đề trong những lập luận không hội tụ đủ tất cả ba tuyên ngôn độc lập của Mỹ và Pháp. Với điều kiện của một lập luận mà thiếu đi một những cơ sở lập lập luận và lí lẽ trên, Chủ hay hai hoặc cả ba điều kiện như đã trình tịch Hồ Chí Minh đã đi đến kết luận: bày ở phần trên. Do đó khi người nghe tiếp “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và nhận “lập luận” của một lối ngụy biện dễ 56
  5. NGUYỄN HOÀNG HIỆP TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN tưởng lầm đó là một lập luận đúng, chính lớn như đồng hồ Thụy Sĩ, xe hơi Toyota xác vì về mặt hình thức bản thân “lập luận” Landcruiser… (thực ra nhiều người cho đó cũng có đủ ba yếu tố nhưng một hoặc rằng loại bia số một hiện nay là bia hai hoặc cả ba điều kiện về thực chất Heineken). không đạt yêu cầu. Vì thế trong đời sống Xét trên góc độ logic, các ngụy biện thường nhật có khi chúng ta gặp những đều rơi vào dạng sau đây: tiền đề không người lập luận có bài bản với những lí lẽ chắc chắn, các dẫn chứng cần thiết không dường như thật sự theo đúng các quy tắc được nêu ra/bị lược bỏ, và sự suy luận suy diễn logic, nhưng người phát ngôn đã không có căn cứ. “cố tình” vi phạm một cách rất tinh vi quy Ngoài ra cũng có rất nhiều ý kiến phê tắc suy luận nào đó (ba điều kiện tiên bình đối với thuyết ngụy biện với hai lí do quyết của lập luận đúng) để dẫn đến một sau: thứ nhất, các ngụy biện truyền thống hoặc một số kết luận ngược đời hoặc là phương tiện lập luận mơ hồ, không rõ không hợp lí, trái ngược với những cảm ràng và không phục vụ cho người học hiểu nhận thông thường. Những kết luận đó được các lí lẽ; thứ hai, nếu quá tập trung người nghe cảm thấy sai, không hợp lí vào thuyết ngụy biện thì sẽ dẫn đến việc nhưng lại rất khó bác bỏ. người học, người nghiên cứu chỉ chuyên Ví dụ: tâm vào các lập luận sai thay vì phải tập Ngày càng nhiều người dân Sài Gòn trung nghiên cứu các lí lẽ, lập luận đúng. uống bia Tiger hơn các loại bia khác Theo quan điểm của tác giả, điều này (tiền đề). không đúng vì chúng ta nghiên cứu thuyết Vậy anh cũng nên uống bia Tiger (kết ngụy biện nhằm hướng đến mục đích giúp luận). người học phát hiện ra những lí lẽ sai lầm Khi mới nghe qua lời quảng cáo trên, để lập luận chặt chẽ hơn. Nhà nghiên cứu nhiều người đã cho rằng là một lập luận David Hitchcock đã từng đề cập đến việc hợp lí. Nhưng thực chất đây là một lối nói giảng dạy cách lập luận đúng thông qua ngụy biện, vì là một “lập luận” khiếm việc giới thiệu về lối nói ngụy biện giống khuyết, hàm chứa một suy luận không có như cách người ta hướng dẫn tập tennis căn cứ. Thực ra mẫu quảng cáo trên đã cố “cách tốt nhất để người chơi không mắc ý ẩn đi một tiền tề không chắc chắn nên phải những lỗi kỹ thuật cơ bản thì hãy cho người nghe, người đọc đã bị “qua mặt”, đó người tập được thấy hết những điểm sai là “Bia được nhiều người uống nhất là loại trong quá trình chơi và yêu cầu người tập bia ngon nhất”. Bởi vì trên thực tế không hãy chỉ rõ đó là những lỗi kỹ thuật gì và tự phải loại bia nào được nhiều người uống đưa ra cách sửa chữa những lỗi sai đó” nhiều nhất là loại bia ngon nhất. Loại bia (David Hitchcock, 1995). được nhiều người uống nhiều nhất, có thể 2.3. Một số kiểu ngụy biện tiêu biểu vì hợp túi tiền, có thể vì trước đây có cơ thường gặp trong các lí lẽ thường ngày may chiếm lĩnh thị trường sớm (nhân Ngụy biện thực ra không phải thứ gì quảng cáo chiêu khách vào những năm con đó quá xa xôi, mà đôi khi chúng ta dùng cọp) và đã tạo thành thói quen, có thể vì hàng ngày nhưng không hề hay biết. Ngụy loại bia đó có chương trình khuyến mại biện là những lập luận chứa mâu thuẫn “uống trúng thưởng” với các phần thưởng logic nội tại hoặc có vẻ theo đúng logic 57
  6. SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 73 (01/2021) hình thức nhưng thực ra đã phạm sai lầm ở nhà khoa học không gian nhưng không làm một điểm nào đó, là những lập luận sai mà khoa học mà chuyển sang làm kinh tế. được dùng với mục đích để giành phần Nguỵ biện công kích tinh vi ở chỗ thắng bằng cách đổi trắng thay đen. trong chi tiết có thể là những tình huống 2.3.1. Ngụy biện công kích đúng, dựa vào đó người ta lập luận theo Đây là một loại ngụy biện phổ biến một hướng trái chiều, gây bất lợi cho cá nhất, nguy hiểm nhất; thay vì chứng minh nhân (bị tấn công) thay vì căn cứ những lý lẽ, lập luận cho đối phương là sai lầm thì tình huống đó để đưa ra những lý lẽ tốt. người nói lại tấn công vào cá nhân tranh Tấn công vào hoàn cảnh đối phương luận thuần tuý, hoặc chỉ nhắm tới những bằng cách chỉ ra đối phương đơn thuần chỉ đặc điểm cá nhân không tốt của đối sinh ra từ hoàn cảnh, mục đích (gia đình, phương để rồi kết luận lí lẽ của họ là sai, trình độ học vấn, nghề nghiệp…) của họ không đáng tin cậy. Ví dụ: cho nên không đúng trong trường hợp tổng Bác sĩ khuyên tôi không nên uống cà quát. Đây cũng chính là nguỵ biện công phê, liệu có đúng không đấy khi mà tôi kích cá nhân. thấy bác sĩ cũng thường xuyên uống cà Ví dụ: phê! (Nguyễn Đức Dân, 2018, tr.254). Anh làm được như người ta đi rồi Sự “chất vấn phê phán thói quen của hẵng nói. Có giỏi thì làm như họ đi. ông bác sĩ là không thoả đáng, không thích Kiểu lập luận này thường gặp các bình đáng đối với những lời khuyên có tính chất luận (comments) trên các mạng xã hội như chuyên môn về y khoa” cho những bệnh Facebook, Youtube, Twitter.v.v. nhân có huyết áp cao (nên phải kiêng 2.3.2. Ngụy biện lợi dụng uy tín những chất kích thích như cà phê). Đây Đây là loại ngụy biện dùng những cũng là 01 kiểu ngụy biện “Anh cũng vậy”. nhân vật nổi tiếng hay được nhiều người ái Đó là cách chứng minh lập luận của đối mộ để tìm sự ủng hộ cho luận điểm của phương là sai vì không đúng với những gì mình. Đây là kiểu lý lẽ, điều gì của người họ đã làm, một hình thức tư duy “Nói một uy tín nổi tiếng cũng đúng; nếu nói khác, đàng làm một nẻo” nên không tin vào sự là sai. thành thực trong lời tư vấn của bác sĩ. Ví dụ: Ví dụ: “Mẹ không biết vì sao con mặc kiểu áo Ông là người làm kinh tế, biết gì về này đâu. Mark Zuckerberg bao giờ cũng khoa học vũ trụ, mà nói chuyện khoa học mặc áo thun kiểu này”. không gian vũ trụ. Người con đã dùng kiểu ngụy biện lợi Lập luận này không thuyết phục vì dụng uy tín. Đây là lập luận sai bởi người nói không chứng minh vì sao người Mark Zuckerberg không phải là chuyên gia chuyên làm kinh tế/kinh doanh (có chuyên thời trang (Mark Zuckerberg là một tỉ phú, môn về kinh tế) lại không thể nói chuyện đồng sáng lập của Facebook). Thực tế, về khoa học không gian. Bởi lẽ chưa chắc nhiều người nổi tiếng, nhưng có những lĩnh người làm kinh tế lại không biết gì về khoa vực họ không rành nên xảy ra kiểu ngụy học không gian, v.v. Biết đâu người làm biện này về lĩnh vực, về sở trường của kinh tế nhưng họ có nghiên cứu về vũ trụ, người được viện dẫn. không gian hoặc trước đây bản thân họ là Trong kiểu ngụy biện này còn có ngụy 58
  7. NGUYỄN HOÀNG HIỆP TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN biện nặc danh. Đó là kiểu ngụy biện với là lòng trắc ẩn. Loại kiểu lập luận này những lí lẽ được viện dẫn hay trích dẫn thường dùng những từ ngữ cảm tính (buồn, nhưng lại không nói đích danh đó là ai. thất vọng…) để tác động, lay động suy Thậm chí chính người lập luận cũng không nghĩ người đọc, làm người khác phân tâm biết chuyên gia ở đây là ai. Nên người lập không chú ý tới sự kiện để chứng minh luận theo tin đồn. Kiểu ngụy biện này khá mình đúng hoặc kết luận nào đó được chấp là phổ biến hiện nay, nhất là trên báo chí, nhận. Kiểu ngụy biện này kêu gọi sự thông truyền thông; không muốn nói rõ nguồn tin cảm của người khác bằng cách nêu nhiều từ đâu, ai nghiên cứu, khi nào. Cách nói yếu tố bao gồm cả những tình huống và đối vậy không khả tín, không xác thực. Có nhân xử thế của người nói. Kiểu lập luận những lập luận sai từ uy tín không kiểm này đi vào lòng người hơn là lý trí. Hiển chứng như: nhiên sự thương cảm đó không phải là Ví dụ: những chứng cứ hiển nhiên cho một hành Một viên chức Nhà Trắng cho biết… động nào đó. Thông thường những cảm Nhưng viên chức này là ai, chức vụ ở đâu, xúc đó là giận dữ, buồn, thất vọng.v.v. chẳng ai kiểm chứng được cả. Ví dụ: Ví dụ: Thân chủ của tôi là một phần quan Ông ấy là một chuyên gia, vậy ông ta trọng của cộng đồng này. Nếu anh ta bị bắt đúng. Vấn đề là chuyên gia về lĩnh vực thì không chỉ thành phố này thiệt hại mà nào? Một chuyên gia trong lĩnh vực này anh ta và gia đình sẽ tổn thất nặng nề. Từ nhưng có thể mù tịt về lĩnh vực kia. trong thâm tâm ông chánh án không thể 2.3.3. Ngụy biện bù nhìn không mở rộng vòng tay cho một phán Loại ngụy biện này cố tình xuyên tạc, quyết “vô tội đối với anh ta sao?” bóp méo quan điểm hay phát biểu của Ví dụ trên cho thấy cách áp dụng kiểu người khác, để làm luận điểm tấn công. ngụy biện lợi dụng cảm xúc ở trên không Đây là kiểu ngụy biện dùng các lập luận liên quan đến những chứng cứ có tội hay thay thế quan điểm hay lập luận A của đối vô tội của thân chủ. phương bằng cách trình bày sai lệch, xuyên 2.3.5. Ngụy biện lợi dụng đám đông tạc, bóp méo hoặc phóng đại thành B. Loại ngụy biện này cho rằng một lý lẽ Ví dụ: được đám đông ủng hộ thì nó đúng. Số A: Những ngày nắng ráo thật tuyệt. đông luôn đúng; quan điểm, lý lẽ nào được B: Anh nói vậy không được. Nếu ngày số đông ủng hộ thì nó phải đúng. Tuy nào cũng nắng ráo, chúng ta sẽ chẳng có nhiên không phải hầu hết mọi người tin mưa. Thế là hạn hán, đói kém và có người một điều gì đó đúng, không có nghĩa là chết đói. điều đó là chân lý. Không phải niềm tin B đã bóp méo lời A, vì A chỉ nói có nào của đại chúng luôn luôn đúng. Chúng những ngày nắng ráo chứ không phải nói ta cũng biết trước thế kỷ XV, mọi người ngày nào cũng nắng ráo (Nguyễn Đức Dân, cho rằng mặt trời quay quanh trái đất. Tuy 2018, tr.294). nhiên điều đó không đúng. 2.3.4. Ngụy biện lợi dụng cảm xúc Ví dụ: Là kiểu ngụy biện sử dụng cảm xúc “Ai cũng gù, mình thẳng lưng sẽ thành của bản thân để khai thác, trong đó chủ yếu khuyết tật” là câu nói của bị cáo Diệp Thị 59
  8. SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 73 (01/2021) Hồng Liên (cựu trưởng phòng khảo thí) thêm việc này trong khi bảng mô tả công tại phiên tòa xét xử sơ thẩm 15 bị cáo trong việc trong hợp đồng lao động với công ty vụ án gian lận điểm thi THPT năm 2018 tại không hề đề cập đến! Hòa Bình. “Thẳng lưng” được hiểu là Giám đốc: Tôi có thể tìm ngay người những điều đúng, điều tốt, những người tốt khác thay chỗ của anh ở công ty này! mà lại bị coi là dị biệt, là khuyết tật thì quá 2.4. Các bộ phận cấu thành logic phi đau xót. “Ai cũng gù, mình thẳng lưng sẽ hình thức thành khuyết tật”, là lối lập luận sai (ngụy Logic phi hình thức không chỉ dừng lại biện lợi dụng đám đông, cụ thể là tập thể bị ở mức độ chỉ nghiên cứu thuyết ngụy biện cáo gian lận điểm). như lúc ban đầu xuất hiện. Ngày nay, logic Ví dụ: phi hình thức đang nỗ lực một cách toàn “- Con ăn mặc gì mà kỳ quặc vậy? Hở diện hơn và đi vào nghiên cứu đa dạng, đa cổ, hở nách, hở bụng”. ngành hơn để hiểu được bản chất của lí lẽ - Cụ “Khốt” ơi, bọn bạn con chúng nó đời thường cũng như đánh giá được 1í lẽ đều mặc như vậy”. đời thường. Mặc dù đã có nhiều vấn đề Người con chê cha mẹ mình cổ hủ và được trình bày trong logic phi hình thức bảo vệ quan điểm của mình theo số đông - được xem là đầy đủ, vẫn có thể có những điều gì được nhiều người tin là đúng và vấn đề các nhà ngôn ngữ đang còn nghiên làm như vậy nên tôi cũng tin là đúng. cứu, tranh luận. Nhưng với tình hình thực 2.3.6. Ngụy biện đe dọa tế hiện tại của logic phi hình thức, chúng ta Loại ngụy biện này thực chất là một sự có thể đưa ra bản phác thảo bao quát toàn đe dọa, nhằm mục đích gây áp lực cho diện về lí lẽ trong ngôn ngữ tự nhiên gồm người đối thoại phải chấp nhận một kết các thành phần, đặc điểm sau: luận nào đó. Người tranh luận dùng loại a. Lí lẽ trong ngôn ngữ tự nhiên là sự ngụy biện này để đe dọa, ám chỉ đến những giải thích, thanh minh về các quy tắc giao điều không hay xảy ra với người đối thoại tiếp mà các tranh luận luôn luôn phải dựa để làm họ chùn bước, và từ đó phải chấp vào đó. nhận quan điểm của hắn một cách bị ép b. Cần có sự phân biệt khác nhau giữa buộc. Do đó, kiểu ngụy biện này còn gọi là các loại hội thoại, vì đây là những “môi “viện tới cây gậy”, rất hay được dùng trong trường” lí lẽ diễn ra trong quá trình giao trao đổi giữa người lớn và trẻ em trong gia tiếp. Từ đó, các hội thoại này sẽ có những đình, hay trong môi trường có mối quan hệ bước đi kế tiếp để có các lí lẽ thích hợp bất bình đẳng như giữa lãnh đạo và nhân hoặc không thích hợp nhằm phù hợp với viên hoặc trong giới chính khách. môi trường hội thoại. Ví dụ: lí lẽ trong Ví dụ: thảo luận khoa học khác với lí lẽ trong Không chơi game nữa! Muốn sống thì đàm phán. đi làm bài tập ngay. Về các loại hội thoại, chúng tôi xin Nếu các anh làm vậy, tôi sẽ đưa việc giới thiệu cách phân loại của Douglas này lên mạng đấy. Walton (có tám loại hội thoại) (Douglas Nhân viên: Thưa anh, sao em phải làm Walton, 1997, tr.605): 60
  9. NGUYỄN HOÀNG HIỆP TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN Bảng 1. Tám thể loại hội thoại Loại hội Tình huống ban Mục đích cá nhân của Mục đích chung Những lợi thoại đầu người tham gia phát ngôn của hội thoại ích đem lại Thuyết phục Các ý kiến đưa Thuyết phục đối tượng Giải quyết các Hiểu quan (Persuasion) ra không giống bất đồng ý kiến điểm, ý nhau - bất đồng kiến của ý kiến nhau Yêu cầu về Không biết gì Tìm kiếm thông tin cần Chứng minh Thu thập thông tin về vấn đề đang biết được hoặc bác thêm được tìm hiểu bỏ những phỏng thông tin, đoán ban đầu kiến thức Bàn bạc Dự tính về các Đưa ra quan điểm, mục Thực hiện trên Để ra các kết quả tương đích cá nhân cơ sở suy nghĩ ưu thế cá lai cân nhắc thận nhân trọng Đàm phán Lợi ích của các Làm tăng thêm các lợi ích Các bên thoả Các bên bên mâu thuẫn cho mỗi bên thuận với nhau đều có lợi lẫn nhau Tìm kiếm Một bên đối Nắm bắt thông tin Truyền đạt kiến Có được sự thông tin tượng thiếu thức, thông tin giúp đỡ thông tin trong quá trình tìm mục tiêu Tranh cãi Mâu thuẫn cá Tranh cãi quyết liệt và làm Bộc lộ nhiều Trút hết nỗi nhân bẽ mặt đối phương mâu thuẫn gây niềm và gắt cảm xúc Tranh luận Đối nghịch Thuyết phục đối tượng thứ Thể hiện hết các Các thông nhau về quan 3 (trong tình huống đối lí lẽ sắc bén, tin được điểm, ý kiến thoại tay ba) mạnh mẽ nhất trao đổi qua với hai đối lại giữa các tượng còn lại đối tượng với nhau Sư phạm Không biết gì Giảng dạy và học tập Truyền đạt kiến Lưu trữ giữa thầy trò về một đối thức được những trong giờ học tượng, hiện vấn đề đã tượng được truyền đạt Nguồn: Walton. Douglas N., How Can Logic Best Applied to Arguments? Logic Journal of IGOL (Interest Group on Pure and Applied Logic), tập 5, trang 60. 61
  10. SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 73 (01/2021) Các kết quả hợp lý và giải thích cho 3. Kết luận chúng ta biết khi nào người ta có thể cho Như vậy, có thể nhận định logic phi biết một câu này là kết quả hợp lý xuất hình thức chính là lập luận trong ngôn phát từ một câu kia. ngữ tự nhiên nói chung và trong các diễn ngôn đời thường nói riêng. Logic phi hình c. Các tiêu chí tổng quát để xây dựng thức có thể được xem là “công cụ” hữu nên các lí lẽ đúng. Các tiêu chí này có thể hiệu trong việc phát hiện thể loại ngụy kết hợp với một giả định của kết quả hợp lý biện trong đời thường. Đây là nguyên và chúng sẽ chỉ rõ những điều kiện chung nhân hình thành nên một loại logic mới, nhằm có được các lí lẽ suy diễn, quy nạp đó là logic phi hình thức; một kiểu logic và dẫn nhập. trong trong lĩnh vực ngôn ngữ học. Việc d. Các định nghĩa về lược đồ lí lẽ xác áp dụng logic phi hình thức trong các diễn thực để xác định rõ các dạng lập luận đúng. ngôn đời thường không những giúp chúng e. Một số thuyết ngụy biện có thể đóng ta cải thiện việc lập luận, nâng cao lí lẽ vai trò (hoặc có thể là không) trong việc trong quá trình trao đổi giữa cá nhân mà hiểu và đánh giá các lí lẽ đời thường. còn nâng cao tính thuyết phục với lí lẽ f. Các nhân tố có tác động đến lời nói hợp lý trong các lĩnh vực quảng cáo, tranh luận chính trị, tranh cãi pháp lý và truyền để có sức thuyết phục và các khái niệm thông đại chúng. Tóm lại, một lập luận trong thuật hùng biện (như yếu tố lí lẽ, yếu chặt chẽ phải hội tụ ba yếu tố: (1) lập luận tố biểu cảm, gây xúc động, lí lẽ đặc điểm, trên cơ sở các tiền đề hợp lý, (2) có tất cả tính cách người nghe) sẽ đóng vai trò quan thông tin liên quan củng cố, bổ trợ cho trọng trong việc hiểu và đánh giá các lí lẽ tiền đề, và (3) có những lí lẽ lập luận hợp đời thường. lý. Trái với lập luật chặt chẽ, đó là ngụy g. Các giải thích cho các nhiệm vụ biện (lập luận cố ý sai). Ngụy biện là biện chứng gắn liền với các lí lẽ trong các những kiểu lập luận sai nhưng lại có vẻ tình huống đặc biệt. như là kiểu lập luận đúng. TÀI LIỆU THAM KHẢO Đỗ Hữu Châu. (2003). Đại cương ngôn ngữ học – Ngữ dụng học, tập 2. Hà Nội: NXB Giáo dục. Copi, Irving. (1957). Introduction to Logic, New York: Maxmillan. Christoper W. Tindale. (2007). Fallacies and Argument Appraisal, Cambridge University Press. Nguyễn Đức Dân. (1996). Logic và tiếng Việt. TP.HCM: NXB Giáo dục. Nguyễn Đức Dân. (1997). Logic – Ngữ nghĩa – Cú pháp. Hà Nội: NXB Đại học và Trung học chuyên nghiệp. Nguyễn Đức Dân. (1998). Ngữ dụng học. Hà Nội: NXB Giáo dục. Nguyễn Đức Dân. (2003). Nhập môn Logic hình thức. NXB Đại học Quốc gia TP.HCM. 62
  11. NGUYỄN HOÀNG HIỆP TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN Nguyễn Đức Dân. (2005). Nhập môn Logic hình thức và Logic phi hình thức. NXB Đại học Quốc gia Hà Nội. Nguyễn Đức Dân. (2013). Giới thiệu về logic phi hình thức. Tạp chí Ngôn ngữ, số 7, 2013. Nguyễn Đức Dân. (2018). Muôn màu lập luận. NXB Trẻ. Phan Đình Diệu. (1993). Lôgíc hình thức và nhận thức khoa học. Tạp chí Triết học, số 4, tr.34-37. Hitchcook, David. (1995). Do Fallacies Have a Place in the Teaching of Reasoning Skill or Critical Thinking? In Hansen, Hans V. and Robert C. Pinto, eds, Fallacies: Classical and Contemporary Readings.University Park, PA: Penn State Press. Kahane, Howard and Nancy M. Cavender. (1988). Logic and Contemporary Rhetoric: The Use of Reason in Everyday Life (5th Edition). Beltmont: Wadsworth. Walton. Douglas N. (1997). How Can Logic Best Applied to Arguments? Logic Journal of IGOL (Interest Group on Pure and Applied Logic), Volume 5, Page 603-614. Ngày nhận bài: 17/8/2020 Biên tập xong: 15/01/2021 Duyệt đăng: 20/01/2021 63
nguon tai.lieu . vn