- Trang Chủ
- Ngư nghiệp
- Ứng dụng GIS thể hiện sự phân bố, biến động thành phần loài và sản lượng khai thác cá vùng đồng bằng sông Cửu Long giai đoạn 2017 – 2019
Xem mẫu
- VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II
ỨNG DỤNG GIS THỂ HIỆN SỰ PHÂN BỐ, BIẾN ĐỘNG THÀNH PHẦN
LOÀI VÀ SẢN LƯỢNG KHAI THÁC CÁ VÙNG ĐỒNG BẰNG SÔNG
CỬU LONG GIAI ĐOẠN 2017 – 2019
Huỳnh Hoàng Huy 1*, Nguyễn Nguyễn Du1
TÓM TẮT
Nghiên cứu biến động thành phần loài cá vùng Đồng bằng sông Cửu Long đã được thực hiện từ tháng
01/2019 đến tháng 10/2019. Ứng dụng GIS và quan trắc sản lượng khai thác được thực hiện với 7 trạm
quan trắc thuộc 4 tỉnh, thành đại diện cho 4 vùng sinh cảnh khác nhau. Mục đích nghiên cứu là quan trắc
sản lượng khai thác cá, xây dựng bản đồ phân bố và biến động số lượng, sản lượng các loài cá ở mức độ
hộ và khu vực nghiên cứu. Kết quả nghiên cứu cho thấy, có 178 loài cá, gồm 17 bộ và 48 họ phân bố ở 4
vùng sinh cảnh khác nhau. Sản lượng khai thác cao nhất ở vùng ven biển trạm Cầu Quan chiếm 27% và
thấp nhất ở trạm Vũng Liêm trong nội đồng chiếm 4% tổng sản lượng khai thác của các trạm. Các trạm
trên dòng chính, kênh rạch và vùng ngập lũ có số lượng loài đa dạng hơn so với các trạm trong vùng nội
đồng và gần cửa sông, ven biển; cụ thể 113 loài so với 21 loài. Nhóm cá trắng có sự đa dạng hơn về thành
phần loài và phong phú hơn về sản lượng so với các nhóm cá khác. Loài ngoại lai được tìm thấy chủ yếu
là cá lau kiếng (Pterygoplichthys disjunctivus) và cá rô phi (Oreochromis sp.), tập trung nhiều nhất ở trạm
Vàm Nao. Nghiên cứu này đã xây dựng được bản đồ phân bố thành phần loài và biến động sản lượng cá,
dựa trên sự tiện ích của công cụ GIS. Bên cạnh đó, nghiên cứu cung cấp thêm tài liệu tham khảo hữu ích
cho công tác bảo tồn và phát triển nguồn lợi cá.
Từ khóa: Đồng bằng sông Cửu Long, biến động, phân bố, GIS, sản lượng cá.
I. ĐẶT VẤN ĐỀ Tổng sản lượng khai thác thủy sản (KTTS),
Sông Mê Công chảy vào Việt Nam qua bao gồm khai thác biển và nội địa vùng ĐBSCL
2 nhánh sông Tiền (dài 150 km) và sông Hậu năm 2018 đạt 1,443 triệu tấn, chiếm 40,02%
(dài 190 km) tạo nên một lưu vực vùng Đồng tổng sản lượng KTTS cả nước. Đối với nghề
bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) với tổng diện KTTS nội địa, sản lượng vùng ĐBSCL năm
tích gần 40.550 km2, chiếm khoảng 12% diện 2018 đạt 465.451 tấn, chiếm 48,14% tổng sản
tích cả nước. Ngoài ra, ĐBSCL có một hệ thống lượng KTTS nội địa cả nước (Tổng cục Thống
sông ngòi – kênh rạch dày đặc với tổng chiều kê, 2018). Hơn 120 loại ngư cụ KTTS nội địa
dài khoảng 4.900 km (Lê Song Giang, 2004). vùng ĐBSCL đã được miêu tả và chia thành 13
Nguồn lợi thủy sản rất đa dạng và phong phú. nhóm (Nguyễn Nguyễn Du và ctv., 2006). Hầu
Hiện nay, vùng ĐBSCL đã xác định được 322 hết các loại ngư cụ đều rất thô sơ, ngư dân có
loài cá thuộc 77 họ, trong đó 312 loài thu được thể tự chế tạo. Nghề KTTS nội địa vùng ĐBSCL
trong vùng nước ngọt và lợ, và có 10 loài thu mang đặc tính quy mô nhỏ nhưng đóng một vai
được ở vùng cửa sông (Trần Đắc Định và ctv., trò quan trọng trong việc tạo việc làm và cung
2013), thành phần loài cá chia thành 2 nhóm lớn cấp thực phẩm hàng ngày cho hàng triệu người
là nhóm cá nước ngọt sống trong sông, thường dân địa phương. Tuy nhiên, sản lượng KTTS
được gọi là nhóm cá trắng và nhóm cá sống đang có khuynh hướng giảm rõ rệt trong những
nước tĩnh, còn gọi là cá đen; 18 loài tôm nước năm gần đây vì rất nhiều nguyên nhân khác
ngọt (Nguyễn Văn Thường và Trương Quốc nhau. Nhìn chung các yếu tố này đều liên quan
Phú, 2004). đến việc khai thác quá mức, môi trường sống bị
1
Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản II
* Email: hhoanghuy.ct@gmail.com
TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 15 - THÁNG 12/2019 83
- VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II
thu hẹp, ngăn chặn đường di cư của cá, và chất trợ ra quyết định phát triển và khai thác cũng như
lượng môi trường sống bị suy giảm. Bên cạnh đó, bảo tồn nguồn lợi thủy sản.
tầm quan trọng của ngành thủy sản đối với kinh Tuy nhiên, các chương trình nghiên cứu
tế cả nước ngày càng được khẳng định, trong đó trước đây về thủy sản vùng ĐBSCL chủ yếu tập
nghề cá ĐBSCL giữ một vị trí rất quan trọng. trung vào giải quyết các vấn đề cụ thể, các báo
GIS (Geographic Information System) đã cáo tổng hợp số liệu thống kê chuyên ngành thủy
được ứng dụng trong ngành thủy sản kể từ giữa sản và hệ thống hóa cơ sở về nghề cá chỉ mới
những năm 1980. Đầu thập niên 90, GIS mới áp được tiến hành ở một vài dự án phát triển và còn
dụng rộng rãi vào nghiên cứu các vùng nuôi trồng khá rời rạc. Vì vậy, một công cụ quản lý, cập
thủy sản (Aguilar – Manjarrez và Ross, 1995). Ở nhật thông tin và truy xuất dữ liệu nhanh là rất
Việt Nam, GIS đã được ứng dụng trong đánh giá quan trọng. GIS là một trong những công cụ có
tình hình nuôi cá điêu hồng trong lồng bè ở sông thể đáp ứng nhu cầu đó, nên nghiên cứu này là
Tiền vùng thượng nguồn tỉnh Vĩnh Long (Trần thực sự cần thiết nhằm giúp các nhà quản lý tham
Văn Việt, 2016), trong hiện trạng phân bố không khảo, nhìn nhận tổng quan, xem xét và cân nhắc
gian nuôi trồng thủy sản khu vực Cần Thơ, An trong việc đề ra các giải pháp khai thác và quản
Giang và Đồng Tháp giai đoạn từ 2010 đến 2014 lý nguồn lợi thủy sản cho mục tiêu phát triển bền
(Nguyễn Thị Hồng Điệp và ctv., 2016), trong vững vùng ĐBSCL.
điều tra hiện trạng nuôi trồng thủy sản lợ mặn II. VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP
vùng cao triều ở xã Phú Mỹ, huyện Phú Vang,
tỉnh Thừa Thiên Huế (Trương Văn Đàn và ctv., 2.1. Thời gian và địa điểm
2018). Do có khả năng cập nhật, truy xuất dữ liệu Nghiên cứu được thực hiện trong thời gian
nhanh và chính xác, phân tích và biểu diễn dữ từ tháng 01/2019 đến tháng 10/2019 ở 7 trạm
liệu không gian và thuộc tính được tổng hợp từ quan trắc vùng ĐBSCL trên 2 nhánh sông chính:
nhiều nguồn khác nhau nên GIS ngày càng được sông Tiền và sông Hậu (Hình 1).
ứng dụng trong việc quản lý, lập quy hoạch, hỗ 2.2. Vật liệu và phương pháp nghiên cứu
Hình 1. Hệ thống trạm quan trắc KTTS vùng ĐBSCL
84 TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 15 - THÁNG 12/2019
- VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II
Số liệu được ghi chép hàng ngày vào sổ nhật xu hướng biến động KTTS và nguồn lợi cá vùng
ký của 21 hộ ngư dân tại 7 trạm quan trắc trong ĐBSCL.
thời gian từ tháng 01/2019 – 10/2019 được sử Phương pháp thống kê mô tả được phân tích
dụng làm vật liệu nghiên cứu. Ngoài ra, chúng bằng phần mềm MS. Excel 2019.
tôi cũng sử dụng số liệu nghiên cứu của chương 2.4. Phương pháp thiết lập bản đồ
trình quan trắc sản lượng cá khai thác năm 2017
Chuẩn bị: máy định vị toàn cầu GPS (Global
và năm 2018 do Ủy Hội sông Mê Công (MRC)
Positioning System), bản đồ nền dạng số xã
tài trợ thực hiện bởi chính nhóm tác giả để đánh
Nhơn Hội (huyện An Phú), xã Tân Trung (huyện
giá xu hướng biến động qua các năm.
Phú Tân), thị trấn Núi Sập (huyện Thoại Sơn), xã
Trước khi triển khai chương trình quan trắc Mỹ Khánh (huyện Phong Điền), xã Thanh Bình
này, tất cả ngư dân được tập huấn trong việc ghi (huyện Vũng Liêm), thị trấn Cầu Quan (huyện
chép số liệu vào sổ nhật ký. Tất cả các thông tin Tiểu Cần) và xã Long Đức (thành phố Trà Vinh),
liên quan đến việc KTTS được ngư dân ghi chép tỷ lệ 1:750.000, sử dụng phép chiếu WGS 1984
chi tiết vào sổ nhật ký hàng ngày. Ngoài ra, ngư UTM Zone 48N, phần mềm ArcGIS 10.4.1.
dân được cung cấp các vật liệu như: cân, thước,
Tiến hành: sau khi đã có các kết quả phân
sổ nhật ký, tập, viết và bộ Atlas hình màu các loài
tích về sản lượng khai thác cá ở 7 trạm quan trắc
cá vùng ĐBSCL để giúp nhận diện được chính
vùng ĐBSCL, sử dụng phần mềm quản lý dữ
xác thành phần loài cá khai thác được. Định kỳ
liệu ArcCatalog để quản lý các thông tin thuộc
triển khai 4 lần/năm để kiểm tra và thu số liệu
tính dưới dạng các shapefile (*.shp). Sau đó, đưa
ghi chép của ngư dân. Ngoài ra, việc trao đổi qua dữ liệu dưới dạng shapefile và các bản đồ nền
điện thoại cũng được duy trì thường xuyên để số vào phần mềm ArcMap để tiến hành các thao tác
liệu thu thập được một cách chính xác nhất. phân tích và thiết lập bản đồ.
2.3. Phân tích số liệu Tích hợp dữ liệu không gian và CSDL hình
Cơ sở dữ liệu (CSDL) được xây dựng trên thành nên các thuộc tính/lớp (Layers), mỗi thuộc
MS. Access 2019 và chuẩn hóa cho các năm kế tính/lớp xuất ra 1 bản đồ, quy trình thực hiện theo
tiếp, nhằm hệ thống hóa và đánh giá tốt hơn về sơ đồ dưới đây:
Dữ liệu đầu vào
Bản đồ nền Số liệu quan trắc KTTS tại 7 trạm,
thông tin vị trí các trạm quan trắc
Phương pháp
Số hóa, số liệu quan trắc và cập nhật: cơ cấu thành phần loài, sản lượng giữa các nhóm cá qua
3 năm từ 01/2017 đến 10/2019
Phân tích, tích hợp giữa dữ liệu không gian và cơ sở dữ liệu cho từng thuộc tính
Kết quả
Truy xuất bản đồ cho từng thuộc tính: biến động thành phần loài, biến động cá thể loài ngoại lai
phổ biến và biến động sản lượng khai thác trung bình 100 m2 lưới qua các năm
Hình 2. Quy trình thu thập số liệu, xử lý thông tin
truy xuất ảnh và bản đồ
TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 15 - THÁNG 12/2019 85
- VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II
III. KẾT QUẢ chính số lượng loài cá ít có sự biến động lớn.
3.1. Thành phần loài và cơ cấu sản lượng Cơ cấu thành phần loài giữa các nhóm cá
giữa các nhóm cá ở các vùng sinh cảnh khác nhau được thể hiện
Kết quả quan trắc sản lượng khai thác qua trong (Hình 3b). Đối với khu vực kênh rạch và
3 năm 2017, 2018 và 2019 đã chỉ ra rằng có tất dòng chính nhóm cá trắng chiếm chủ yếu lần
cả 178 loài cá, gồm 17 bộ và 48 họ phân bố ở 4 lượt là 29% và 46%. Đối với khu vực ven biển
thì nhóm cá nước lợ và nhóm cá trắng chiếm
vùng sinh thái khác nhau. Trong đó, số lượng loài
chủ yếu lần lượt với 26% và 28%, không thấy
cao nhất thuộc về kênh rạch với 113 loài (chiếm
xuất hiện nhóm cá đen. Ở khu vực vùng đồng
63,48% tổng số loài khai thác bắt gặp), kế đến là
ruộng, ngập lụt (ngập sâu và ngập nông) chỉ có
dòng chính với 108 loài (chiếm 60,67%), vùng
nhóm cá trắng và nhóm cá đen chiếm lần lượt
ven biển với 55 loài (chiếm 30,90%) và thấp
với 35% và 65%. Kết quả cho thấy chỉ có dòng
nhất với 21 loài (chiếm 11,80%) ở vùng đồng
chính xuất hiện đủ tất cả các nhóm cá. Bên cạnh
ruộng, ngập lụt (Hình 3a). Diễn biến biến động
đó, nhóm cá trắng xuất hiện ở tất cả các sinh
số lượng loài qua các năm có xu hướng giảm
cảnh khác nhau.
rõ rệt ở hầu hết các loại hình sinh cảnh, như:
Sản lượng của nhóm cá di cư (cá trắng)
vùng đồng ruộng 21 loài (2017) giảm còn 12
chiếm gần một nửa trong tổng sản lượng khai
loài (2019), vùng ven biển 49 loài (2017) giảm
còn 15 loài (2019). Tuy nhiên ở khu vực dòng thác của ngư dân và chiếm 49% tổng sản lượng
khai thác, nhóm cá ít hay không di cư (cá đen)
Hình 3. Biến động thành phần loài (a) và cơ cấu thành phần loài giữa các
nhóm cá ở các vùng sinh cảnh khác nhau (b) qua năm 2017, 2018 và 2019
chỉ chiếm 8%. Trong khi đó, nhóm cá nước lợ tổng số lượng cá thể khai thác của ngư dân, số
và nhóm cá nước mặn chiếm tỷ lệ tương đương lượng này chủ yếu tập trung ở kênh rạch, dòng
nhau trong tổng sản lượng lần lượt là 13% và chính và vùng đồng ruộng, ngập lụt, trong khi
15% (Hình 4a). Xu hướng sản lượng khai thác 5 đó ở vùng cửa sông, ven biển rất ít bắt gặp loài
nhóm cá được thể hiện qua (Hình 4b), trong đó cá ngoại lai.
sản lượng khai thác nhóm cá đen có xu hướng Biến động số loài và số lượng cá thể các loài
giảm (10% năm 2017 giảm còn 4% năm 2019), cá ngoại lai thể hiện ở (Hình 5). Nhìn chung, số
nhóm cá nước mặn có xu hướng tăng (12% năm loài và số lượng cá thể các loài ngoại lai có xu
2017 tăng lên 29% vào năm 2019), các nhóm cá hướng giảm trong những năm gần đây và tập
còn lại ổn định, ít có biến động. trung nhiều ở dòng chính, kênh rạch trong nội
Đáng chú ý thành phần loài cá ngoại lai đồng. Trong nghiên cứu này sử dụng ngư cụ để
chiếm 5,01% tổng số loài và chiếm 0,37% trong quan trắc sản lượng KTTS là lưới bén và lưới ba
86 TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 15 - THÁNG 12/2019
- VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II
màng, một số loại ngư cụ khác như dỡ chà, 12 là cá lau kiếng sẽ cao hơn rất nhiều (phỏng vấn
cửa ngục,… thì sản lượng cá ngoại lai, đặc biệt từ ngư dân của 7 trạm quan trắc).
Hình 4. Cơ cấu sản lượng giữa các nhóm cá (a) và xu hướng sản lượng khai
thác 5 nhóm cá (b) qua năm 2017, 2018 và 2019
Hình 5. Biến động số loài và số cá thể cá ngoại lai qua
năm 2017, 2018 và 2019.
3.2. Biến động sản lượng khai thác trung với sản lượng cao nhất tại trạm Vàm Nao đạt
bình 100 m2 lưới theo ngư cụ hơn 500 g/100 m2 lưới/ngư dân/năm, thấp nhất
Kết quả quan trắc qua các năm có sự khác tại trạm Vũng Liêm chỉ đạt gần 6 g/100 m2 lưới/
nhau giữa các trạm và đã chỉ ra rằng sản lượng ngư dân/năm (Hình 6).
khai thác trung bình 100 m2 lưới có xu hướng Kết quả cũng cho thấy, trong năm 2017
giảm ở lưới bén và tăng ở loại lưới ba màng. Cụ giữa các tháng có xu hướng tăng dần từ 0,13
thể, khai thác bằng lưới bén cao nhất tại trạm g/100 m2 lưới/ngư dân/tháng (tháng 1) lên 0,21
Long Trị đạt gần 70 g/100 m2 lưới/ngư dân/ g/100 m2 lưới/ngư dân/tháng (tháng 12). Trong
năm, thấp nhất ở khu vực trạm An Phú xấp xỉ 7 năm 2018 và năm 2019 không biến động nhiều
g/100 m2 lưới/ngư dân/năm và ở lưới ba màng giữa các tháng và giữ mức ổn định (Hình 7)
TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 15 - THÁNG 12/2019 87
- VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II
Hình 6. Biến động sản lượng khai thác trung bình 100 m2
lưới bén và ba màng 2017, 2018 và 2019
Hình 7. Xu hướng sản lượng khai thác trung bình 100 m2
lưới giữa các tháng 2017, 2018 và 2019
3.3. Hiện trạng biến động thành phần từ 94 loài (năm 2017) còn 28 loài (năm 2019).
loài, sản lượng khai thác theo không gian và Nguyên nhân có thể do biến đổi khí hậu, lũ diễn
thời gian khu vực nghiên cứu biến thất thường, xây dựng các công trình cống
3.3.1. Sự biến động thành phần loài theo ngăn mặn phục vụ sản xuất nông nghiệp tại
không gian và thời gian khu vực nghiên cứu vùng cửa sông, ven biển, việc ghi chép nhật ký
ngư dân hạn chế (không tập trung khai thác cá
Biến động đa dạng thành phần loài theo thường xuyên, giảm tần suất các chuyến đánh
không gian và thời gian được thể hiện trong bắt) do nhu cầu sinh kế nên phải linh hoạt hơn
(Hình 8). Thành phần loài có xu hướng giảm ở trong nhiều ngành khác nhau vì nếu KTTS với
phần lớn các trạm trong thời gian nghiên cứu, quy mô nhỏ lẻ, không tập trung sẽ mang lại lợi
tuy nhiên trạm Cầu Quan có sự giảm đáng kể nhuận không cao.
88 TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 15 - THÁNG 12/2019
- VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II
Hình 8. Sự biến động thành phần loài qua năm 2017,
2018 và 2019.
3.3.2. Sự biến động loài ngoại lai theo chiếm tỷ lệ khá thấp dưới 6% tổng số cá thể loài
không gian và thời gian khu vực nghiên cứu ngoại lai được tìm thấy. Sự phân bố cá lau kiếng
Đáng chú ý đã xác định được 9 loài cá và cá rô phi theo không gian và thời gian được
ngoại lai trong thời gian nghiên cứu, trong đó thể hiện trong (Hình 9). Theo không gian, các
cá lau kiếng (Pterygoplichthys disjunctivus) và
loại cá ngoại lai chủ yếu phân bố ở khu vực nội
cá rô phi (Oreochromis sp.) chiếm tỷ lệ cao nhất
với 46% tổng số cá thể loài ngoại lai, cá chép đồng, kênh rạch và dòng chính, không thấy xuất
(Cyprinus carpio), cá chim trắng (Piaractus hiện ở các khu vực cửa sông, ven biển và không
brachypomus) và các loài cá ngoại lai khác có sự giảm qua các năm.
Hình 9. Phân bố, biến động số lượng cá lau kiếng và cá
rô phi khai thác năm 2017, 2018 và 2019.
TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 15 - THÁNG 12/2019 89
- VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II
3.3.3. Sự biến động sản lượng khai thác biến động nhiều theo không gian và thời gian
trung bình 100 m2 lưới theo không gian và (Hình 10). Riêng trạm Núi Sập có sự tăng mạnh
thời gian khu vực nghiên cứu từ 30,8 g/100 m2 lưới/ngư dân/năm (2017) lên
Kết quả quan trắc sản lượng khai thác trung 159,4 g/100m2 lưới/ngư dân/năm (năm 2019).
bình 100 m2 lưới qua các năm nhìn chung không
Hình 10. Biến động sản lượng khai thác trung bình 100
m2 lưới qua năm 2017, 2018 và 2019.
IV. THẢO LUẬN hiện nay rất nhiều người tham gia KTTS, lũ về
Có hơn 90% người khai thác cho rằng thất thường với lượng nước thấp hơn hằng năm
nguồn lợi thủy sản mùa lũ năm 2019 giảm 50 – và thời gian lũ kéo dài ngắn hơn. Ngoài ra, còn
70% so với 10 năm trước đây. Nguyên nhân do các lý do khác như: khai thác cá con, sử dụng
việc sử dụng thuốc bảo vệ thực vật ngày càng thuốc bảo vệ thực vật trong nông nghiệp, kiểm
nhiều trong canh tác nông nghiệp, đặc biệt là soát lũ gia tăng canh tác 3 vụ, vấn đề ô nhiễm
thuốc trừ ốc bươu vàng. Sử dụng ngư cụ bắt cá môi trường nước từ các hoạt động ngành công
nhỏ, cá bố mẹ, các loại ngư cụ có kích thước mắt nghiệp khác, những tác động tiêu cực do xây
lưới nhỏ như dớn và lú, theo Trương Thị Nga và dựng thủy điện từ thượng nguồn và các công
ctv., (2007) thì việc khai thác này đã ảnh hưởng trình thủy lợi như xây cống ngăn mặn.
nghiêm trọng đến nguồn lợi thủy sản. Theo Nghiên cứu qua các năm 2017, 2018 và
Nguyễn Nguyễn Du và ctv., (2018) cho rằng 2019 đã xác nhận có 178 loài cá so với công
hầu hết ngư dân đều cho rằng sản lượng KTTS bố trước đây của Trần Đắc Định và ctv., (2013)
đã suy giảm trong 5 năm gần đây, kích thước đã mô tả được 322 loài cá, trong đó có 186 loài
cá – tôm cũng ngày càng giảm và đây được xem cá nước ngọt. Như vậy, có sự sai khác về thành
như một yếu tố cho biết dấu hiệu của nguồn lợi phần loài giữa hai thời điểm nghiên cứu, có thể
suy giảm. Có nhiều nguyên nhân tác động đến do có nhiều loài cá đã không còn bắt gặp nữa
việc suy giảm sản lượng KTTS, nhưng ngư dân hoặc ngư cụ KTTS của người dân trong nghiên
cho rằng có hai nguyên nhân chính đó là việc cứu này là có tính chọn lọc quá cao hoặc vị trí
90 TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 15 - THÁNG 12/2019
- VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II
đặt trạm quan trắc là chưa đa dạng về chủng loại V. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT
và chưa phong phú về số lượng. Nhiều loài cá 5.1. Kết luận
hiện nay được người dân cho rằng hiếm khi bắt
Nghiên cứu đã xây dựng được bản đồ phân
gặp được, bao gồm cá cóc (Cyclocheilichthys bố thành phần loài và sản lượng khai thác của
enoplos), cá heo cái (Botia modesta) và cá mè 178 loài cá, phân bố ở 4 vùng sinh thái khác
hôi (Osteochilus melanopleura). Ngoài ra, 3 nhau, số lượng loài cao nhất thuộc về kênh rạch
loài cá được nhiều người dân cho rằng sản lượng với 113 loài và thấp nhất với 21 loài ở vùng
ngoài tự nhiên rất nhiều so với trước đây gồm đồng ruộng, ngập lụt. Ngoài ra, việc ứng dụng
cá lau kiếng (Pterygoplichthys disjunctivus), cá GIS cũng thể hiện được bản đồ phân bố của 2
chim trắng (Piaractus brachypomus) và cá rô loài cá ngoại lai: cá lau kiếng (Pterygoplichthys
phi (Oreochromis sp.) với lý do chính do việc disjunctivus) và cá rô phi (Oreochromis sp.), số
di nhập, thoát ra ngoài tự nhiên từ nuôi trồng lượng loài này chủ yếu tập trung ở kênh rạch,
thủy sản và có thể do thức ăn, môi trường phù dòng chính và vùng ngập lụt, trong khi đó ở
hợp đã làm những loài cá này thích nghi tồn vùng ven biển thì không bắt gặp được cá ngoại
tại, sinh sản, sinh trưởng và phát triển (Nguyễn lai. Diễn biến biến động thành phần loài và sản
Nguyễn Du và ctv., 2018). Theo Tăng Bảo lượng khai thác có xu hướng giảm theo không
Toàn và Trần Văn Việt (2015), một số loài chỉ gian và thời gian.
xuất hiện vùng thượng nguồn như: cá mè lúi 5.2. Đề xuất
(Osteochilus microcephalus), cá ngựa (Hampala Trong thời gian tới tiếp tục có những nghiên
macrolepidota), cá heo (Yasuhikotakia modesta), cứu đánh giá một cách đầy đủ về ảnh hưởng
cá chốt giấy (Mystus albolineatus), cá mè hôi và tác động của các công trình chống lũ, công
(Osteochilus melanopleura). Tuy nhiên, một số trình xây dựng đập thủy điện ở thượng nguồn
loài xuất hiện ở cả thượng nguồn và giữa nguồn và ảnh hưởng của biến đổi khí hậu để có biện
như: cá lóc (Channa striata), cá rô (Anabas pháp giảm nhẹ tác động và có phương án sử
testudineus), cá sặc (Trichopodus spp), cá lòng dụng tài nguyên đất và nước bền vững, thành
tong (Rasbora spp), cá rằm (Puntius brevis), cá lập các khu sinh thái đất ngập nước để bảo vệ,
trê lai (Clarias macrocephalus x C.gariepinus), bảo tồn các loài thuỷ sinh vật, phát triển nghề
cá chốt (Mystus spp), cá chạch (Macrognathus nuôi thuỷ sản trong vùng ngập lũ để giảm áp lực
spp). Số lượng loài năm 2014 ít hơn các năm khai thác thủy sản, xây dựng khung pháp lý về
trước, theo Thái Ngọc Trí và ctv., (2012) đã phân quyền quản lý vùng nước để thực hiện các
xác định được 111 loài ở vùng thượng nguồn dự án đồng quản lý trong KTTS vùng nước nội
của tỉnh An Giang (Búng Bình Thiên) và ở tỉnh địa. Nghiên cứu xây dựng cơ sở khoa học cụ thể
Đồng Tháp là khoảng 159 loài cá (Ủy ban nhân phục vụ việc xây dựng các khu vực cấm khai
dân tỉnh Đồng Tháp, 2014). thác thủy sản có thời hạn, các đối tượng đặc hữu
Bên cạnh đó, hệ thống đê bao trong quản cần bảo vệ.
lý nông nghiệp, hệ thống đê bao chống lũ ngày Lời cảm ơn
càng phát triển và hoàn thiện nhằm tăng vụ và Nhóm tác giả xin chân thành cảm ơn Ủy
dân sinh, tuy nhiên đã ảnh hưởng rất lớn đến Hội sông Mê Công (MRC) đã hỗ trợ kinh phí
nguồn lợi thủy sản. Theo Lê Anh Tuấn (2009) thực hiện quan trắc này.
thì nước lũ đã tạo ra 650.000 lao động nông
thôn trong tỉnh An Giang và mùa lũ mang lại TÀI LIỆU THAM KHẢO
khoảng 1.500 tỷ đồng từ khai thác và nuôi trồng Tài liệu tiếng Việt
thủy sản mùa lũ. Ngoài ra, canh tác nông nghiệp Lê Anh Tuấn, 2009. Tổng quan về nghiên cứu biến
ngày càng theo hướng thâm canh hóa và thuốc đổi khí hậu và các hoạt động thích ứng ở miền
diệt tạp trong nuôi trồng thủy sản. Nam Việt Nam, Hội thảo “Cùng nỗ lực để thích
TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 15 - THÁNG 12/2019 91
- VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II
ứng biến đổi khí hậu” CSRD – Acacia – Both 01/10/2019. https://www.gso.gov.vn/
ENDS – IVM, Thành phố Huế, Việt Nam. 11–13 Trần Đắc Định, Shibukawa Koichi, Nguyễn Thanh
tháng 5. Phương, Hà Phước Hùng, Trần Xuân Lợi, Mai
Lê Song Giang, 2004. Nghiên cứu bằng mô hình toán Văn Hiếu và Utsugi Kenzo, 2013. Mô tả định
môi trường sông rạch Nam Sông Hậu. Nhiệm vụ loại cá Đồng bằng sông Cửu Long, Việt Nam.
quan trắc, cảnh báo môi trường và dich bệnh các NXB Đại học Cần Thơ. 174 trang.
tỉnh Nam Sông Hậu. Đề tài nghiên cứu khoa học.
Trần Văn Việt, 2016. Đánh giá tình hình nuôi cá
Tp. Hồ Chí Minh.
Điêu hồng (Oreochromis spp.) trong lồng bè ở
Nguyễn Nguyễn Du, Claire Smallwood, Nguyễn Văn
sông Tiền vùng thượng nguồn tỉnh Vĩnh Long.
Hảo, Nguyễn Xuân Trinh và Nguyễn Trọng Tín,
Tạp chí Khoa học, Trường Đại học Cần Thơ.
2006. Bộ sưu tập ngư cụ nội địa vùng Đồng bằng
47b: 110 – 118.
sông Cửu Long. Nhà xuất bản Lao Động. Tp. Hồ
Chí Minh. Trương Thị Nga, Nguyễn Công Thuận và Nguyễn
Nguyễn Nguyễn Du, Phan Thanh Lâm, Đoàn Văn Minh Thư, 2007. Hiện trạng khai thác thủy sản
Bảy, Nguyễn Văn Phụng, Đinh Trang Điểm, và nhận thức của người dân về chính sách bảo
Huỳnh Hoàng Huy, Trần Thúy Vy, Nguyễn Trung vệ nguồn lợi thủy sản ở ấp Bình An – Thạnh Lợi,
Hiếu và Vũ Vi An, 2018. Báo cáo tổng kết nhiệm xã Vĩnh Thạnh Trung, huyện Châu Phú, tỉnh An
vụ thường xuyên theo chức năng năm 2018. Quan Giang. Tạp chí Khoa học, Trường Đại học Cần
trắc biến động nguồn lợi thủy sản nội địa ở vùng Thơ, (7): 112 – 120.
Đồng bằng sông Cửu Long phục vụ công tác Trương Văn Đàn, Nguyễn Thành Luân, Mạc Như
nghiên cứu và quản lý Nhà nước. Viện Nghiên cứu Bình, Phạm Thị Ái Niệm, Hà Nam Thắng và Vũ
Nuôi trồng Thủy sản II. Ngọc Út, 2018. Điều tra hiện trạng nuôi trồng
Nguyễn Thị Hồng Điệp, Phan Kiều Diễm và Huỳnh thủy sản lợ mặn cao triều ở xã Phú Mỹ, huyện
Minh Thiện, 2016. Tạp chí Kỷ yếu Hội thảo GIS Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên Huế, Việt Nam. Tạp
toàn quốc. Trang 608 – 614. chí Khoa học, Trường Đại học Cần Thơ. 54 (7B):
Nguyễn Văn Thường và Trương Quốc Phú, 2004. 126 – 137.
Giáo trình ngư loại II (Giáp xác và Nhuyễn thể). Ủy ban nhân dân tỉnh Đồng Tháp, 2014. Triển khai
Đại Học Cần Thơ. Chương trình Bảo vệ và phát triển nguồn lợi thủy
Tăng Bảo Toàn và Trần Văn Việt, 2015. Đánh giá tình sản tỉnh Đồng Tháp đến năm 2020 theo Quyết
hình khai thác thủy sản mùa lũ ở vùng Đồng bằng định số 188/QĐ-TTg ngày 13 tháng 02 năm 2012
sông Cửu Long. Tạp chí Khoa học, Trường Đại của Thủ tướng Chính phủ, 10 trang.
học Cần Thơ. 40b: 83 – 89. Tài liệu tiếng Anh
Thái Ngọc Trí, Hoàng Đức Đạt và Nguyễn Văn Sang, Aguilar – Manjarrez, J., and Ross, L.G., 1995.
2012. Nghiên cứu sự đa dạng sinh học khu hệ cá Geographic information system GIS enviromental
ở vùng đất ngập nước Búng Bình Thiên, Tỉnh An models for aquaculture development in Sinaloa
Giang. Tạp chí Sinh học, 34 (3SE): 21 – 29. Sate, Mexico. Aquaculture International, 3(2):
Tổng cục Thống Kê, 2018. Ngày truy cập: 103 – 115.
92 TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 15 - THÁNG 12/2019
- VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II
APPLICATIONS OF GIS TO DISPLAY DISTRIBUTION, FLUCTUATION
ON SPECIES COMPOSITION AND FISH CATCH IN THE MEKONG
DELTA DURING THE PERIODS OF 2017 – 2019
Huynh Hoang Huy 1*, Nguyen Nguyen Du1
ABSTRACT
A study of fluctuation on fish species composition in the Mekong Delta was implemented from
January to October 2019. GIS and using catch monitoring methodolody were applied at 7 study
stations in 4 provinces that represent the four difference fishing habitats. The aims of study are to
monitor fish catch, to build a map in tern of fish species composition distribution, quantity fluctuation
and fisheries capture production at household level and fishing habitat level. Results showed that
fish species composition was with 178 species, 48 families and 76 orders which distributed at four
fishing habitats. The highest fish capture production was at the esturine area (Cau Quan site) with
27%, and it was the lowest with 4% total of fish catch at the inland area (Vung Liem site). The
number of fish species at sites of mainstream, canal and flooded areas was more diversity than
sites of estuarine and costal such as 113 species compared with 21, respectively. The diversity and
abundance of white fish group were higher than others. Two exotic species were the most popular
occurring as Suckermouth catfish (Pterygoplichthys disjunctivus) and Tilapia (Oreochromis sp.),
which highly occurred in Vam Nao site. This study established a map of GIS displayed on species
composition distribution and fish catch fluctuation, base on utility of GIS tool. Furthermore, this
study can supply useful a reference document for reserve and develop fish resources.
Keywords: Mekong Delta, fluctuation, distribution, GIS, fish catch.
Người phản biện: TS. Nguyễn Văn Tú Người phản biện: TS. Phan Thanh Lâm
Ngày nhận bài: 28/10/2019 Ngày nhận bài: 28/10/2019
Ngày thông qua phản biện: 25/11/2019 Ngày thông qua phản biện: 26/11/2019
Ngày duyệt đăng: 25/12/2019 Ngày duyệt đăng: 25/12/2019
1
Research Institute for Aquaculture No.2
* Email: hhoanghuy.ct@gmail.com
TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 15 - THÁNG 12/2019 93
nguon tai.lieu . vn