- Trang Chủ
- Nông nghiệp
- Ứng dụng công nghệ cao trong nông nghiệp góp phần phát triển bền vững kinh tế nông thôn, bảo vệ môi trường cần trở thành một nội dung đào tạo nhân lực ngành kinh doanh nông nghiệp
Xem mẫu
- KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA:
ĐÀO TẠO NGUỒN NHÂN LỰC NGÀNH KINH DOANH NÔNG NGHIỆP ĐÁP ỨNG NHU CẦU XÃ HỘI
ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ CAO TRONG NÔNG NGHIỆP
GÓP PHẦN PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG KINH TẾ NÔNG THÔN,
BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG CẦN TRỞ THÀNH MỘT NỘI DUNG
ĐÀO TẠO NHÂN LỰC NGÀNH KINH DOANH NÔNG NGHIỆP
ThS. Nguyễn Quốc Phóng*
ThS. Đào Đức Bùi*
TÓM TẮT
Trong thời gian qua, vấn đề tích tụ và tập trung ruộng đất, đổi mới hình thức tổ
chức sản xuất, phát triển các mô hình liên kết và ứng dụng công nghệ cao trong sản
xuất nông nghiệp trở thành vấn đề thời sự, nhất là trong điều kiện hội nhập kinh tế
quốc tế, đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm, nâng cao giá trị của nông sản phẩm, nâng
cao hiệu quả sử dụng đất đai, phát triển bền vững nền nông nghiệp Việt Nam, tạo thu
nhập ôn định cho người sản xuất, nhất là các vùng nông thôn. Kèm theo đó là chính
sách vốn tín dụng có liên quan cho thực hiện mục tiêu trên phải được triển khai có hiệu
quả. Đó là những nội dung hết sức cần thiết cần được quan tâm, bổ sung trong đào tạo
nhân lực ngành kinh doanh nông nghiệp hiện nay.
Từ khóa: Ứng dụng công nghệ cao, kinh tế nông thôn, phát triển bền vững, bảo vệ
môi trường, đào tạo nhân lực, ngành kinh doanh nông nghiệp.
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Bài viết nghiên cứu về thực tiễn ứng dụng công nghệ cao trong nông nghiệp góp
phần phát triển bền vững kinh tế nông thôn và bảo vệ môi trường và nội dung đào tạo
nhân lực ngành kinh doanh nông nghiệp. Để đạt được mục tiêu nghiên cứu, nhóm tác
giả sử dụng phương pháp nghiên cứu định tính, phân tích, tổng hợp và so sánh dựa
trên các nguồn số liệu thứ cấp, tư liệu của các cơ quan chức năng xây dựng, điều hành
và thực thi chính sách, như: Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Bộ Nông nghiệp và Phát
triển nông thôn, Tổng cục Thống kê, các ngân hàng thương mại, các tổ chức tín dụng
khác và một số cơ quan khác có liên quan đến xây dựng và điều hành chính sách tín
dụng; đồng thời tiến hành trao đổi, phỏng vấn với các chuyên gia với cán bộ ngân
hàng, cán bộ doanh nghiệp để đưa ra các nhận xét, đánh giá theo mục tiêu nghiên cứu
của bài viết.
* Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Hưng Yên
187
- KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA:
ĐÀO TẠO NGUỒN NHÂN LỰC NGÀNH KINH DOANH NÔNG NGHIỆP ĐÁP ỨNG NHU CẦU XÃ HỘI
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
1. Tổng quan ban hành chính sách
Từ khi có Nghị quyết 26-NQ/TW ban hành ngày 05/8/2008 của Hội nghị lần thứ
7 Ban chấp hành Trung ương khóa X về nông nghiệp, nông dân và nông thôn, nền
nông nghiệp Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu to lớn. Quá trình tích tụ và tập
trung ruộng đất, mô hình nông nghiệp sạch, ứng dụng công nghệ cao được thúc đẩy
phát triển, phù hợp với yêu cầu ngày càng cao của thị trường trong nước và xuất khẩu.
Về chính sách của Nhà nước, cách đây hơn 6 năm, tại Nghị quyết số 14/NQ-CP
ngày 05/3/2014, Chính phủ đã giao Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) phối
hợp với Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NN&PTNT), Bộ Khoa học và
Công nghệ (KH&CN) triển khai chương trình cho vay thí điểm các mô hình liên kết,
ứng dụng công nghệ cao trong sản xuất nông nghiệp. Để hình thành mô hình này, tất
yếu phải tích tụ và tập trung ruộng đất, canh tác hiện đại trên diện tích đất lớn hơn,
có hiệu quả hơn, gắn với đổi mới hình thức tổ chức sản xuất nông nghiệp. Đến năm
2016, sau khi kết thúc triển khai thí điểm, trên cơ sở những tổng kết, đánh giá và rút
kinh nghiệm, NHNN Việt Nam đã đề xuất và bổ sung các chương trình tín dụng ưu
đãi đối với các doanh nghiệp thuộc một số ngành, lĩnh vực đặc thù, như cho vay phát
triển nông nghiệp, nông thôn tại Nghị định số 55/NĐ-CP, sau đó được sửa đổi và bổ
sung Nghị định 116/2018/NĐ-CP ngày 7/9/2018. Đồng thời, ngày 24/4/2017, NHNN
Việt Nam đã có Quyết định số 813/QĐ-NHNN về chương trình cho vay khuyến khích
phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, nông nghiệp sạch theo Nghị quyết
30/NQ-CP ngày 07/3/2017 của Chính phủ. [SBV (2020 - 2021)]
Quá trình hình thành các chính sách nói trên, cũng như nội dung của từng chính
sách, những vấn đề sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện khả năng triển khai trong thực tiễn
cần được đưa vào trong bài giảng, phân tích, bình luận, đánh giá trong đào tạo nhân
lực kinh doanh nông nghiệp, kết hợp với những ví dụ khảo sát cụ thể trong thực tiễn
để nâng cao hiệu quả của nội dung đào tạo, hiệu quả đào tạo. Bài viết xin nêu 3 ví dụ
cụ thể về khảo sát ở phạm vi địa phương và khảo sát ở phạm vi doanh nghiệp, khảo sát
mối liên kết giữa ngân hàng và doanh nghiệp ở 3 mục có liên quan dưới đây.
2. Khảo sát thực tiễn triển khai chính sách tại tỉnh Hà Nam
Hà Nam là một tỉnh điển hình ở vùng Đồng bằng Bắc Bộ sớm triển khai, triển
khai trên diện rộng và triển khai khá có hiệu quả việc ứng dụng công nghệ cao trong
sản xuất nông nghiệp, thúc đẩy tích tụ và tập trung ruộng đất, đổi mới các hình thức
tổ chức sản xuất nông nghiệp. Tỉnh Hà Nam đã sớm thành lập Ban Quản lý khu nông
nghiệp ứng dụng công nghệ cao.
188
- KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA:
ĐÀO TẠO NGUỒN NHÂN LỰC NGÀNH KINH DOANH NÔNG NGHIỆP ĐÁP ỨNG NHU CẦU XÃ HỘI
Trong những năm qua, lĩnh vực nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao của tỉnh Hà
Nam đã thu hút được một số doanh nghiệp lớn về đầu tư, từng bước nâng cao giá trị
sản xuất và thu nhập cho người nông dân. Ðến nay, tỉnh Hà Nam đã phê duyệt 6 Khu
nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao với tổng diện tích 656,22 ha. Các hộ dân có đất
nông nghiệp trong các khu nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao đã ký hợp đồng cho
thuê 375,68 ha, các doanh nghiệp đang đẩy mạnh sản xuất trong các khu nông nghiệp
ứng dụng công nghệ cao, từng bước đưa sản phẩm nông nghiệp sạch ra thị trường.
Mục tiêu của tỉnh Hà Nam là hình thành các mô hình sản xuất nông nghiệp công nghệ
cao nhưng phải có sự tham gia của nông dân, doanh nghiệp sẽ xây dựng những vùng
sản xuất theo chuỗi để liên kết cùng nông dân. [Agribank (2020 - 2021)]
Trong những năm gần đây, các cơ chế chính sách thu hút đầu tư của tỉnh Hà Nam
tiếp tục tạo ra hiệu ứng tích cực trong việc thu hút đầu tư, thúc đẩy sản xuất nông
nghiệp ứng dụng công nghệ cao. Theo báo cáo của Ban Quản lý khu nông nghiệp ứng
dụng công nghệ cao tỉnh Hà Nam, đến nay, toàn tỉnh đã tích tụ được 375,6 ha đất, ký
hợp đồng cho doanh nghiệp thuê lại quyền sử dụng đất hơn 206 ha. Các doanh nghiệp
trong Khu nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao tại huyện Lý Nhân tiếp tục đầu tư
xây dựng cơ sở hạ tầng, phát triển sản xuất dưa vân lưới, rau, củ, quả, tạo việc làm ổn
định cho hơn 230 lao động; giá trị sản xuất bình quân từ 1,4 - 1,8 tỷ đồng/ha. Công
ty Vinaseed và Công ty VinEco đã khảo sát và liên kết sản xuất với các hộ nông dân
sản xuất lúa giống chất lượng cao, rau, củ… Toàn tỉnh Hà Nam có 38 xã xây dựng mô
hình liên kết, sản xuất lúa giống, lúa hàng hóa, rau, củ, quả, với tổng diện tích 575 ha.
Đặc biệt, sản phẩm dưa nhà lưới trong Khu nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao tại
xã Nhân Khang của Công ty Cổ phần Đầu tư và Phát triển Nông nghiệp công nghệ cao
Hà Nam đạt giải Bông lúa vàng; Công ty VinEco Hà Nam đạt danh hiệu doanh nghiệp
vì nhà nông năm 2018. [Agribank (2020 - 2021)]
Tỉnh Hà Nam chú trọng nhân rộng các mô hình nông nghiệp ứng dụng công nghệ
cao. Hà Nam hiện có 46 xã xây dựng được 55 mô hình tích tụ ruộng đất với tổng diện
tích 578 ha của 1.885 hộ tham gia sản xuất lúa, rau, củ, quả, tham gia vào chuỗi nông
sản hàng hóa an toàn. Tỉnh hiện có 20 cửa hàng giới thiệu, bán sản phẩm nông sản an
toàn được mở tại các trung tâm huyện, thành phố. Chương trình liên kết với doanh
nghiệp được đẩy mạnh, như Công ty VinEco đã tổ chức khảo sát 40 hợp tác xã, nhóm
hộ, hộ nông dân và đã ký hợp đồng liên kết được với 24 trong số 40 hộ dân. Hiện đã
có 5 trong số 24 hộ, cơ sở sản xuất nông sản sạch đưa 76,6 tấn sản phẩm nông nghiệp
sạch lên kệ tại hệ thống siêu thị Vinmart, giá bán tăng từ 15% đến 25% so với giá bán
tại địa phương. Công ty Cổ phần Giống cây trồng Trung ương (Vinaseed) hằng tháng
cung cấp cho hệ thống siêu thị Vinmart từ 120 đến 150 tấn gạo chất lượng cao. Giá trị
sản xuất trong các khu nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, khu sản suất ngoài trời
189
- KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA:
ĐÀO TẠO NGUỒN NHÂN LỰC NGÀNH KINH DOANH NÔNG NGHIỆP ĐÁP ỨNG NHU CẦU XÃ HỘI
đạt 1.200 triệu đồng/ha/năm, khu trong nhà kính đạt 4,5 tỷ đồng/ha/năm. [Agribank
(2020 - 2021)]
Công ty cổ phần đầu tư và phát triển nông nghiệp công nghệ cao Hà Nam trở thành
mô hình điểm của tỉnh Hà Nam và 11 tỉnh Đồng bằng Bắc Bộ trong chuyển đổi cơ cấu
cây trồng, thực hiện tích tụ ruộng đất theo chủ trương chính sách của tỉnh, tổ chức sản
xuất hàng hóa tập trung, quy mô lớn, ứng dụng nông nghiệp công nghệ cao, tạo ra các
sản phẩm năng suất chất lượng cao, thích ứng với biến đổi khí hậu toàn cầu…
Bên cạnh những kết quả đạt được, nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao của tỉnh
Hà Nam vẫn còn một số hạn chế sau: tiến độ tích tụ ruộng đất vẫn còn chậm; hạ tầng
phục vụ sản xuất chưa đồng bộ; việc triển khai các mô hình tích tụ ruộng đất làm
vệ tinh liên kết sản xuất ở các xã còn gặp nhiều khó khăn; năng lực tài chính, kinh
nghiệm sản xuất và khả năng tiếp cận thị trường của nông dân còn hạn chế...
Tích tụ ruộng đất là xu hướng, yêu cầu cần thiết để phát triển sản xuất nông nghiệp
hiện nay. Tuy nhiên, quá trình tích tụ, tập trung ruộng đất tại các địa phương gặp rất
nhiều khó khăn. Nông dân chưa đủ năng lực xây dựng mô hình đảm bảo theo tiêu chí
của Kế hoạch 1381/KH-UBND ngày 29/5/2018 của Ủy ban nhân dân (UBND) tỉnh
Hà Nam về Kế hoạch sản xuất nông nghiệp sạch làm vệ tinh, liên kết chuỗi với các
cơ sở, doanh nghiệp tiêu thụ sản phẩm giai đoạn 2018 - 2019, để được hưởng cơ chế
hỗ trợ của tỉnh Hà Nam. UBND tỉnh Hà Nam cần ban hành cơ chế, chính sách hỗ trợ
nông dân tháo gỡ khó khăn về thuê đất nông nghiệp; hỗ trợ lãi suất vay vốn cho các
hộ tham gia liên kết sản xuất nông sản sạch, chăn nuôi quy mô lớn.
Tỉnh Hà Nam cần tiếp tục đôn đốc các doanh nghiệp đẩy nhanh tiến độ sản xuất
trên diện tích đã bàn giao; các sở ngành chức năng và Ban quản lý khu nông nghiệp
ứng dụng công nghệ cao tỉnh Hà Nam cần tập trung xúc tiến đầu tư để thu hút các
doanh nghiệp đầu tư vào các Khu nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao trong và ngoài
quy hoạch; tổ chức nghiệm thu, hỗ trợ các nhóm hộ, tổ hợp tác, hợp tác xã (HTX) thực
hiện tích tụ ruộng đất sản xuất nông nghiệp sạch làm vệ tinh, liên kết với các cơ sở,
doanh nghiệp tiêu thụ sản phẩm… Ban Quản lý Khu nông nghiệp ứng dụng công nghệ
cao cũng cần quan tâm tiếp tục tham mưu cho UBND tỉnh Hà Nam trong lĩnh vực phát
triển nông nghiệp công nghệ cao như: về số lượng HTX kiểu mới được thành lập, diện
tích sản xuất, số mô hình tích tụ ruộng đất…
3. Khảo sát thực tiễn một số doanh nghiệp tiên phong đầu tư nông nghiệp
công nghệ cao
Từ năm 2006, Công ty Cổ phần Sữa Việt Nam (Vinamilk) đã bắt đầu đầu tư vào
lĩnh vực chăn nuôi bò sữa một cách trực tiếp thông qua xây dựng các trang trại nuôi
190
- KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA:
ĐÀO TẠO NGUỒN NHÂN LỰC NGÀNH KINH DOANH NÔNG NGHIỆP ĐÁP ỨNG NHU CẦU XÃ HỘI
bò sữa công nghiệp với tổng vốn khởi điểm là hơn 500 tỷ đồng và đã tăng đến trên
3.000 tỷ đồng (năm 2013). Hiện nay, tổng đàn bò cung cấp sữa cho Vinamilk (bao
gồm các trang trại của Vinamilk và bà con nông dân có ký kết hợp đồng bán sữa) là
hơn 120.000 con bò, cung cấp khoảng 750 tấn sữa tươi nguyên liệu mỗi ngày. Với kế
hoạch phát triển các trang trại mới, Vinamilk sẽ đưa tổng số đàn bò từ các trang trại và
của các nông hộ lên khoảng 160.000 con vào năm 2017 và khoảng 200.000 con vào
năm 2020, với sản lượng nguyên liệu sữa dự kiến đến năm 2020 sẽ tăng lên hơn gấp
đôi, đạt 1.500 - 1.800 tấn/ngày. Tính đến nay, Vinamilk đã có hệ thống 10 trang trại
đang hoạt động với quy mô lớn cùng toàn bộ bò giống nhập khẩu từ Úc, Mỹ, và New
Zealand. Trong các năm sắp tới, Vinamilk dự kiến sẽ tiếp tục nhập bò giống cao sản
từ các nước này để đáp ứng cho nhu cầu con giống của các trang trại mới. [Agribank
(2020 - 2021)]
Trang trại bò sữa Organic Đà Lạt của Công ty Vinamilk tại Lâm Đồng được đầu
tư 200 tỷ đồng, quy mô ban đầu hơn 500 con. Giống bò được tuyển chọn nghiêm ngặt
nên có sẵn hệ miễn dịch mạnh, nguồn thức ăn cho chúng là 100% hữu cơ. Dự án gồm
các hạng mục: đàn bò, hệ thống cơ sở hạ tầng, chuồng trại, trang thiết bị kỹ thuật…
được Tổ chức Toàn cầu Control Union Certifications (Hà Lan) chứng nhận là trang
trại bò sữa Organic tiêu chuẩn châu Âu. Trang trại Vinamilk Organic Đà Lạt là bước
đi chiến lược để Vinamilk có thể đẩy mạnh phát triển dòng sản phẩm hữu cơ cao cấp
tại Việt Nam và xuất khẩu ra các nước trên thế giới. [Agribank (2020 - 2021)]
Dự án đầu tư Nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao VinEco Tam Đảo do Tập đoàn
Vingroup triển khai tại thị trấn Gia Khánh, huyện Bình Xuyên, tỉnh Vĩnh Phúc, là một
trong số những điển hình về đầu tư trong lĩnh vực này của tập đoàn. VinEco Tam Đảo
là 1 trong 14 nông trường đang được triển khai trên cả nước của Công ty TNHH Đầu
tư phát triển sản xuất nông nghiệp VinEco, thành viên của Tập đoàn Vingroup. Dự
án chính thức đi vào hoạt động từ tháng 7/2015, có quy mô 78 ha, nằm trên địa bàn 2
huyện của tỉnh Vĩnh Phúc. VinEco - Công ty TNHH Đầu tư Phát triển Sản xuất Nông
Nghiệp VinEco, một thành viên của Tập Đoàn Vingroup, đã chính thức tham gia vào
lĩnh vực nông nghiệp từ tháng 3/2015, tổng số vốn đầu tư lên tới 4000 tỷ đồng và quy
mô 1000 nhân sự. VinEco có 3 vùng sản xuất lớn ở miền Bắc, miền Nam, Lâm Đồng
với 14 nông trường đã và đang chuẩn bị đưa vào sản xuất. [Agribank (2020 - 2021)]
Bắt đầu thực hiện từ năm 2009, sau 8 năm triển khai dự án, Tập đoàn TH đã xây
dựng trang trại bò sữa tại Nghĩa Đàn, Nghệ An, ứng dụng công nghệ cao với quy mô
hơn 45.000 con bò. Từ năm 2015, Tập đoàn này tiếp tục phát triển trang trại chăn nuôi
hữu cơ, thực hiện chăn nuôi theo tiêu chuẩn organic châu Âu và Mỹ. Đến nay, Tập
đoàn đã sở hữu đàn bò sữa, bê hữu cơ quy mô lớn tại Việt Nam với hơn 1.000 con.
191
- KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA:
ĐÀO TẠO NGUỒN NHÂN LỰC NGÀNH KINH DOANH NÔNG NGHIỆP ĐÁP ỨNG NHU CẦU XÃ HỘI
Theo kế hoạch, tới năm 2018, đơn vị này sẽ sản xuất sữa organic trên quy mô 3.000
con. [Agribank (2020 - 2021)]
Tập đoàn Hoàng Anh Gia Lai là một trong số ít doanh nghiệp tư nhân ở Việt Nam
đầu tư trọng điểm vào nuôi bò công nghệ cao. Công ty đã dành tới 6.300 tỷ đồng vào dự
án chăn nuôi với tổng đàn 236.000 con, trong đó có 120.000 con bò sữa. Hoàng Anh Gia
Lai còn hợp sức cùng Tập đoàn An Phú thành lập Công ty Cổ phần Bình Hà. Mới đây,
Bình Hà cho biết đã hoàn thành giai đoạn I của dự án chăn nuôi bò lớn nhất Việt Nam
tại Hà Tĩnh. Công trình có vốn đầu tư lên tới 4.582 tỷ đồng, nằm trên diện tích 5.000 ha
với khoảng 3.000 lao động. Dự kiến đến năm 2017, tổng đàn bò tại đây là 217.000 con.
Mục tiêu dự án là phát triển chăn nuôi bò giống và bò thịt theo quy trình công nghệ cao,
phục vụ xuất khẩu và tiêu thụ trong nước. Sau khi hoàn thành, trang trại này sẽ đem lại
khoảng 1.000 - 1.500 tỷ đồng lợi nhuận mỗi năm. [Agribank (2020 - 2021)]
4. Khảo sát thực trạng tiển khai của doanh nghiệp và ngân hàng
4.1. Chủ động đầu tư của doanh nghiệp và ngân hàng
Về góc độ chủ động đầu tư cho nông nghiệp công nghệ cao của NHTM phải nói
đến Standard Chartered Bank, đây là ngân hàng 100% vốn nước ngoài tại Việt Nam,
từ đầu năm 2014 đã triển khai dự án 70 triệu USD, vốn vay ưu đãi cho Công ty Bảo vệ
thực vật An Giang (AGPPS) đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp, phát triển mô hình cánh
đồng mẫu lớn tại khu vực Đồng bằng sông Cửu Long, với mục đích giúp hình thành
một chuỗi giá trị sản xuất kinh doanh lúa gạo khép kín bền vững. Năm 2018 (theo kế
hoạch), chuỗi sản xuất của AGPPS sẽ có 360.000 ha và hoàn thành 12 cụm nhà máy
chế biến có tổng công suất 2,4 triệu tấn gạo/năm tại Đồng bằng sông Cửu Long. [SBV
(2020 - 2021)]
4.2. Triển khai của Ngân hàng Nhà nước và các Bộ ngành có liên quan
Triển khai Nghị quyết số 14/NQ-CP ngày 05/3/2014 của Chính phủ, NHNN đã ban
hành Quyết định 1050/QĐ-NHNN ngày 28/5/2014về chương trình cho vay thí điểm
phục vụ phát triển nông nghiệp. NHNN cũng đã chủ trì phối hợp với Bộ NN&PTNT,
Bộ KH&CN tiến hành khảo sát các mô hình liên kết, ứng dụng công nghệ cao trong
sản xuất nông nghiệp tại 8 địa phương trên toàn quốc làm cơ sở xây dựng cơ chế chính
sách cho vay thí điểm. NHNN đã phối hợp với Bộ NN&PTNT, Bộ KH&CN lựa chọn
28 doanh nghiệp tại 22 tỉnh, thành phố trên toàn quốc thực hiện 31 dự án sản xuất
nông nghiệp theo mô hình liên kết, ứng dụng công nghệ cao. Tính đến nay các NHTM
đã giải ngân cho vay 22 trong tổng số 28 doanh nghiệp để thực hiện 22 trong tổng số
31 dự án sản xuất nông nghiệp theo chương trình với số vốn đạt 7.333,73 tỷ đồng.
[SBV (2020 - 2021)]
192
- KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA:
ĐÀO TẠO NGUỒN NHÂN LỰC NGÀNH KINH DOANH NÔNG NGHIỆP ĐÁP ỨNG NHU CẦU XÃ HỘI
Sau hơn 2 năm triển khai, trên cơ sở kết quả của chương trình, các bộ ngành:
NHNN, Bộ NN&PTNT, Bộ KH&CN đã thống nhất kết thúc chương trình theo đúng
kế hoạch, các dự án đang triển khai đã được chuyển sang thực hiện vay theo các chính
sách tín dụng tại Nghị định 55/2015/NĐ-CP của Chính phủ ngày 09/6/2015 về chính
sách tín dụng phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn.
Riêng trường hợp dự án nuôi cá tra của Công ty Thuận An tại tỉnh An Giang,
UBND Tỉnh và Công ty Thuận An cho phép Công ty được kéo dài thời gian thí điểm
thêm 2 năm đến 28/5/2018 do Công ty mới hoàn thành liên kết với 13/30 hộ dân được
phê duyệt tham gia chương trình, các hộ dân còn lại vẫn đang hoàn tất các thủ tục
tất toán khoản vay cũ tại ngân hàng khác (thời gian mất khoảng 3 - 5 tháng) để làm
thủ tục vay mới tại Ngân hàng NN&PTNT Việt Nam - Agribank (ngân hàng cho vay
chuỗi cá tra của Công ty Thuận An trong chương trình thí điểm) và cần thêm khoảng
3 - 5 tháng để hoàn thành cơ sở hạ tầng nuôi, chuyển giao kỹ thuật.
Mô hình liên kết chuỗi cá tra của Công ty Thuận An là mô hình đặc thù trong nuôi
trồng - thu mua - chế biến và xuất khẩu cá tra có hiệu quả trên địa bàn tỉnh An Giang
và khu vực Đồng bằng sông Cửu Long. Trong mô hình liên kết này, doanh nghiệp cam
kết bao tiêu sản phẩm, hỗ trợ kỹ thuật và một phần chi phí cơ sở hạ tầng. Các hộ dân
liên kết trực tiếp vay vốn tại NHTM để trang trải chi phí nuôi trồng. Bộ KH&CN và
Agribank đã đồng thuận việc gia hạn thời gian thí điểm đối với Công ty Thuận An.
Tuy nhiên, Bộ NN&PTNT cho rằng, Công ty Thuận An nên chuyển sang vay theo
Nghị định 55/2015/NĐ-CP vì việc kéo dài thời gian thực hiện thí điểm thêm 2 năm
chỉ đối với một dự án của một doanh nghiệp là không cần thiết và mô hình liên kết này
không mang tính điển hình cho liên kết. [SBV (2020 - 2021)]
Sau khi xem xét, NHNN thấy rằng mô hình này có tính đặc thù cao trong nuôi
trồng thủy sản tại Đồng bằng sông Cửu Long (như đầu tư nuôi vốn từ 10 - 12 tỷ đồng/
ao nuôi, doanh nghiệp không có khả năng hỗ trợ toàn bộ, chỉ có khả năng cung ứng
giống, kỹ thuật, đầu tư một phần cơ sở hạ tầng giúp hộ nuôi đáp ứng tiêu chuẩn vùng
nuôi và cam kết tiêu thụ hết sản phẩm). Do đó, NHNN cần thêm thời gian nghiên cứu
mô hình này. Nếu chuyển sang vay vốn theo Nghị định 55/2015/NĐ-CP, các hộ dân
nuôi trồng thủy sản ký hợp đồng tiêu thụ sản phẩm với Công ty Thuận An chỉ được
NHTM xem xét cho vay không tài sản bảo đảm ở mức tối đa 500 triệu đồng. Vì vậy,
nếu chấm dứt ngay việc vay theo chương trình thí điểm thì các hộ dân trong chuỗi liên
kết sẽ gặp khó khăn về tài sản bảo đảm. [SBV (2020 - 2021)]
NHNN xem xét cho phép kéo dài thời gian thực hiện thí điểm cho vay đối với mô
hình Chuỗi liên kết dọc cá tra Tafishco của Công ty TNHH Sản xuất Thương mại Dịch
vụ Thuận An thêm 2 năm đến 28/5/2018 để tạo điều kiện cho doanh nghiệp và các
193
- KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA:
ĐÀO TẠO NGUỒN NHÂN LỰC NGÀNH KINH DOANH NÔNG NGHIỆP ĐÁP ỨNG NHU CẦU XÃ HỘI
hộ dân trong chuỗi liên kết hoàn thiện và phát triển mô hình liên kết theo đề nghị của
UBND tỉnh An Giang, Công ty Thuận An và Agribank. [SBV (2020 - 2021)]
4.3. Triển khai của Agribank – Ngân hàng chủ lực trong cho vay vốn phát triển
nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao thúc đẩy tích tụ và tập trung ruộng đất, đổi
mới hình thức tổ chức sản xuất nông nghiệp
Về chương trình cho vay khuyến khích phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ
cao, nông nghiệp sạch theo Nghị quyết 30/NQ-CP ngày 07/3/2017 của Chính phủ,
ngày 24/4/2017, NHNN Việt Nam đã ban hành Quyết định số 813/QĐ-NHNN chỉ
đạo triển khai cụ thể. Theo số liệu của NHNN Việt Nam, sau thời gian triển khai cho
vay lĩnh vực nông nghiệp công nghệ cao, các NHTM đang có dư nợ 3.700 tỷ đồng đối
với 25 doanh nghiệp được Bộ NN&PTNT cấp giấy chứng nhận doanh nghiệp nông
nghiệp công nghệ cao. Trong đó, Agribank đóng vai trò chủ lực, tiên phòng đi đầu
trong lĩnh vực này. [SBV (2020 - 2021)]
Agribank đã ban hành văn bản hướng dẫn cho vay doanh nghiệp phát triển nông
nghiệp ứng dụng công nghệ cao, nông nghiệp sạch theo Quyết định 813/QĐ-NHNN
của NHNN Việt Nam về chương trình cho vay khuyến khích phát triển nông nghiệp
ứng dụng công nghệ cao, nông nghiệp sạch theo Nghị quyết 30/NQ-CP ngày 07/3/2017
của Chính phủ.
Agribank dành tối thiểu 50.000 tỷ đồng bằng vốn huy động thương mại của
Agribank, bắt đầu thực hiện từ ngày 01/11/2016. Đối tượng khách hàng vay vốn của
chương trình là doanh nghiệp, hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, chủ trang trại… tham
gia các khâu trong chuỗi sản xuất sản phẩm nông nghiệp an toàn, quy mô lớn với lãi
suất cho vay thấp hơn từ 0,5% - 1,5% so với lãi suất cho vay đối với lĩnh vực nông
nghiệp, nông thôn theo quy định hiện hành. Trên thực tế, Agribank đã triển khai mô
hình cho vay thí điểm chuỗi liên kết, mô hình sản xuất nông nghiệp quy mô lớn, ứng
dụng công nghệ cao, như: mô hình trồng hoa nhà kính tại Lâm Đồng; cánh đồng mẫu
lớn tại Cần Thơ, Đồng Tháp; chăn nuôi lợn tại Hà Nam; trồng mía tại Khánh Hòa;
sản xuất hoa quả, rau an toàn ở khu vực các tỉnh Tây Nguyên… và bước đầu các mô
hình này đã tạo sự đồng thuận cao giữa các doanh nghiệp và người dân. [SBV (2020
- 2021)]
Agribank cùng doanh nghiệp tháo gỡ được những khó khăn vướng mắc như: về
thủ tục đăng ký giao dịch bảo đảm, xem xét cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu tài
sản của doanh nghiệp (đối với tài sản gắn liền với đất); tháo gỡ, giảm thủ tục hành
chính đẩy nhanh tiến độ cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất
cho doanh nghiệp; hỗ trợ doanh nghiệp tăng khả năng tự hoàn thiện cơ chế quản lý,
năng lực quản trị kinh doanh, quản lý tài chính theo hướng minh bạch, rõ ràng, đầu tư
194
- KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA:
ĐÀO TẠO NGUỒN NHÂN LỰC NGÀNH KINH DOANH NÔNG NGHIỆP ĐÁP ỨNG NHU CẦU XÃ HỘI
đổi mới công nghệ, nâng cao khả năng cạnh tranh. Doanh nghiệp cần tái cấu trúc kinh
doanh nhằm tập trung vào các mảng sản xuất, kinh doanh chủ chốt, có thế mạnh, có
khả năng tạo ra dòng tiền ổn định để tăng khả năng trả nợ khi tiếp cận vốn vay ngân
hàng. Mặt khác, Agribank cũng đồng hành cùng doanh nghiệp được hỗ trợ vốn tập
huấn về tiêu chí xác định chương trình, dự án nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao,
nông nghiệp sạch, danh mục công nghệ cao ứng dụng trong nông nghiệp; triển khai
bảo hiểm trong nông nghiệp đảm bảo an toàn vốn.
Agribank còn cho phép vay tín chấp hoặc vay bảo đảm một phần, khách hàng được
miễn phí chuyển tiền trong hệ thống Agribank và giảm 50% theo mức phí quy định
hiện hành của Agribank đối với chuyển tiền ngoài hệ thống.
Đối tượng cho vay gồm cung ứng vật tư đầu vào (cây, con giống, thức ăn chăn
nuôi, phân bón chất lượng cao,…); sản xuất (xây dựng nhà máy, chuồng trại, ao nuôi
nhà kính, nuôi trồng, chế biến, thiết bị và các chi phí sản xuất khác…). Về tài sản bảo
đảm, tùy vào đối tượng khách hàng sẽ được Agribank xem xét cấp tín dụng không có
tài sản bảo đảm đối hoặc có đảm bảo một phần bằng tài sản.
5. Một số đánh giá những vướng mắc trong cho vay vốn đầu tư phát triển
nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao thúc đẩy tích tụ và tập trung ruộng đất, đổi
mới hình thức tổ chức sản xuất nông nghiệp
Trước hết, chúng ta cần phải xác định rõ nội hàm của nông nghiệp công nghệ cao,
xác định được phạm vi bao gồm: nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, nông nghiệp
sạch và danh mục công nghệ cao ứng dụng trong nông nghiệp hay còn nội dung nào
khác. Đồng thời, các vấn đề liên quan đến chính sách tín dụng hiện nay vẫn còn chưa
rõ ràng về thời gian vay ngắn hạn, trung hạn hay dài hạn thì áp dụng cho vay lĩnh vực
nào, khâu nào, và tỷ lệ của các loại kỳ hạn trong gói tín dụng này được xác định ra
sao. Các ngân hàng có đảm bảo hạn mức sử dụng vốn huy động ngắn hạn để cho vay
trung và dài hạn đối với ngành nông nghiệp công nghệ cao khi tỷ lệ hạn mức này càng
ngày càng giảm. Bên cạnh đó, liên quan đến việc cho vay vốn đầu tư vào nông nghiệp
công nghệ cao cũng còn nhiều vấn đề đang đặt ra như: Về phạm vi cho vay, ngân hàng
cho vay theo chuỗi hay cho vay theo từng công đoạn của sản xuất nông nghiệp công
nghệ cao? Về đối tượng cho vay, ngoài các doanh nghiệp, các hợp tác xã, các hộ kinh
doanh, trang trại, gia trại liệu có vay được không?
Thứ hai, một số khó khăn khác đó là hạn chế trong: chính sách mở rộng hạn điền;
chính sách về tín dụng ưu đãi; chính sách khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào nông
nghiệp xanh; sự phối kết hợp giữa Nhà nước, nhà nông, nhà khoa học và nhà kinh
doanh; mối liên kết giữa người sản xuất và doanh nghiệp thu mua, chế biến và tiêu
thụ sản phẩm.
195
- KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA:
ĐÀO TẠO NGUỒN NHÂN LỰC NGÀNH KINH DOANH NÔNG NGHIỆP ĐÁP ỨNG NHU CẦU XÃ HỘI
Thứ ba, do quy hoạch cây, con, ngành nghề của các địa phương còn chưa rõ ràng
và manh mún; việc cấp giấy chứng nhận nông nghiệp công nghệ cao còn chậm và các
ngân hàng phải tự mày mò các quy định liên quan; giá trị đất đai làm tài sản đảm bảo
thấp do địa phương định giá theo khung giá của Nhà nước trong khi các khoản vay
giá trị lớn; pháp luật chưa cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu tài sản trên đất nông
nghiệp (như: nhà xưởng, nhà kính, xe vận chuyển chuyên dùng…), trong khi đây đều
là những tài sản có giá trị cao…
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ CHÍNH SÁCH
Trước hết, công tác đào tạo nguồn nhân lực cần không ngừng đổi mới nội dung,
phương pháp giảng dạy, đào tạo cán bộ kinh doanh nông nghiệp, gắn lý luận với phân
tích, mổ xẻ các chính sách phát triển nông nghiệp - nông thôn - nông dân trong xu thế
hội nhập kinh tế quốc tế. Nội dung đào tạo cần có kết quả khảo sát cụ thể, với những số
liệu cụ thể. Với những nội dung này, giảng viên, giáo viên có thể chủ động xây dựng
đưa ra giảng dạy, hoặc giao bài tập tình huống, gợi ý, hướng dẫn người được đào tạo
tiến hành nghiên cứu, khảo sát.
Thứ hai, trong nội dung nghiên cứu, giảng dạy, đào tạo cần phân tích chuyên sâu
về những nhân tố tác động đến sự ra đời của các chính sách kinh tế phát triển nông
nghiệp - nông thôn, cơ sở lý luận và thực tiễn của chính sách, tính cấp bách của chính
sách; nhưng ưu điểm và nhược điểm triển khai chính sách trong thực tiễn, đề xuất
khuyến nghị có liên quan. Nếu như có những đánh giá độc lập về tác động của chính
sách đối với thực tiễn thì càng có tính thuyết phục đối với người được đào tạo, hay
nâng cao kỹ năng và kiến thức cho người được đào tạo.
Ví dụ, từ những nội dung về chính sách và triển khai chính sách nói trên, có thể
đưa ra một số khuyến nghị như sau: cần có đột phá trong cơ chế đầu tư tín dụng cho
phát triển nông nghiệp công nghệ cao, nhất là cho nghiên cứu, chuyển giao công
nghệ sản xuất, bảo quản, chế biến nông sản; đồng thời, cần tách bạch rõ ràng giữa tín
dụng chính sách với tín dụng thương mại. Khi thực hiện nhiệm vụ chính sách, các tổ
chức tín dụng cũng phải được hưởng những ưu đãi của chính sách như các đơn vị thụ
hưởng, được hỗ trợ nguồn vốn cho vay, cấp bù lãi suất do thực hiện chính sách giảm
lãi suất; cách tính các hệ số an toàn, chính sách thuế, cơ chế xử lý rủi ro cần linh hoạt
hơn. Không hình sự hóa các quan hệ tín dụng, xác định đến cùng trách nhiệm trả nợ
của người vay, ngăn chặn sự lạm dụng, rủi ro đạo đức và giảm tâm lý lo ngại của cán
bộ tín dụng khi thực hiện cho vay khách hàng.
Hoặc là, một số khuyến nghị khác có liên quan như: Chính phủ cần khuyến khích
thành lập một số quỹ bảo hiểm nông nghiệp, quỹ hỗ trợ nông dân, doanh nghiệp nông
nghiệp, cũng như coi trọng xây dựng các cơ chế, chính sách, lộ trình thực hiện các ưu
196
- KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA:
ĐÀO TẠO NGUỒN NHÂN LỰC NGÀNH KINH DOANH NÔNG NGHIỆP ĐÁP ỨNG NHU CẦU XÃ HỘI
đãi thuế, tín dụng; tăng cường đào tạo nguồn nhân lực và cán bộ; phát triển các trung
tâm và các dịch vụ hỗ trợ chuyển giao và quản lý công nghệ cao trong nông nghiệp; hỗ
trợ xây dựng và phát triển, mở rộng thị trường, nâng cao chất lượng mẫu mã, bao bì,
xây dựng thương hiệu, áp dụng thương mại điện tử trong tiêu thụ nông sản; xây dựng
và duy trì hàng rào kỹ thuật đúng quy định và các cam kết hội nhập để bảo vệ nông
nghiệp trong nước; hỗ trợ nông dân, doanh nghiệp trong việc làm hồ chứa, đập thủy
lợi nhỏ và có chính sách tín dụng cho vay vốn để thay đổi công nghệ trong sản xuất,
tạo động lực cho nông nghiệp phát triển.
Những đề xuất như vậy làm cho người được đào tạo nắm được tính hệ thống của
một chính sách, tính xuyên suốt và các mối liên hệ có liên quan của chính sách.
Thứ ba, trong phân tích và đánh giá thực tiễn khi giảng dạy và đào tạo nhân lực
kinh doanh nông nghiệp, các giảng viên cần làm cho người được đào tạo thấy được
mối liên hệ giữa các chính sách, sự phối hợp của các cơ quan và bộ ngành chức năng.
Nhóm tác giả xin đưa thêm một ví dụ có thể xem là các khuyến nghị tiếp theo về triển
khai chính sách nói trên, đó là:
Bộ Công Thương và Ủy ban nhân dân các tỉnh thuộc Đồng bằng Bắc Bộ, tỉnh Hà
Nam cần: (i) đẩy mạnh xúc tiến thương mại đối với sản phẩm nông nghiệp Việt Nam
cả trong nước và quốc tế, tăng kim ngạch xuất khẩu nông sản chất lượng cao có giá
trị; (ii) tăng cường tuyên truyền, phổ biến và lồng ghép các nhiệm vụ của chương
trình phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao với các nhiệm vụ phát triển của
ngành, địa phương, chương trình mục tiêu quốc gia, chương trình phát triển kinh tế -
xã hội; (iii) nâng cao năng lực và hiệu lực quản lý của Nhà nước trong việc kiểm soát
quy chuẩn chất lượng các sản phẩm nông nghiệp được minh bạch, tin cậy và khuyến
khích đầu tư, sản xuất và tiêu thụ các sản phẩm nông nghiệp sạch với đặc thù giá thành
cao; xử lý nghiêm minh các hành vi gian lận, vi phạm pháp luật; coi trọng dự báo và
cung cấp thông tin thường xuyên về cung - cầu, giá cả thị trường trong nước và thế
giới; hỗ trợ tuyên truyền, tiếp thị, quảng bá để tạo thương hiệu quốc gia, thúc đẩy tiêu
thụ các sản phẩm nông nghiệp công nghệ cao.
Thêm một ví dụ nữa trong quá trình nghiên cứu, giảng dạy đào tào nhân lực kinh
doanh nông nghiệp có thể tham khảo, đó là: các địa phương thuộc quy hoạch tổng thể
khu nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại
Quyết định số 575/QĐ-TTg ngày 04/5/2015 (giai đoạn đến năm 2020) cần chủ động
huy động nguồn lực, bảo đảm đủ kinh phí đầu tư xây dựng khu nông nghiệp ứng dụng
công nghệ cao; hỗ trợ đầu tư cơ sở hạ tầng điện, đường, nước; nghiên cứu phát triển
các mô hình hợp tác xã, tổ hợp tác nông nghiệp kiểu mới; thành lập và phát triển các
Câu lạc bộ Nông nghiệp công nghệ cao ở các cấp với quy mô và nội dung hoạt động
197
- KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA:
ĐÀO TẠO NGUỒN NHÂN LỰC NGÀNH KINH DOANH NÔNG NGHIỆP ĐÁP ỨNG NHU CẦU XÃ HỘI
phù hợp ở các địa phương có sự kết nối toàn quốc và khuyến khích các hình thức hợp
tác, liên kết tổ chức sản xuất gắn với chế biến, xây dựng, quảng bá thương hiệu và tiêu
thụ sản phẩm nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao giữa người sản xuất, các trang trại,
tổ hợp tác, hợp tác xã với doanh nghiệp; coi trọng hiện đại hóa, nâng cấp văn minh
thương mại, khắc phục tình trạng bán hàng kiểu đổ đống, không bao bì, không nhãn
mác, thương hiệu không có áp phích và poster giới thiệu… để tạo động lực mới và
mở ra cơ hội mới, kỳ vọng mới cho phát triển và hiện đại hóa bền vững ngành nông
nghiệp Việt Nam.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam - Agribank (2020 -
2021), Truy cập tại: https://www.agribank.com.vn: “Báo cáo hoạt động kinh
doanh; báo cáo đầu tư vốn tín dụng cho các chương trình đặc biệt của Agribank”,
truy cập từ ngày 14-19/01/2021.
2. Bộ NN&PTNT (2020 - 2021), “Báo cáo hoạt động ngành nông nghiệp năm 2020”,
tháng 1/2021. (Bản cứng)
3. GSO (2020 - 2021): Truy cập tại: https://www.gso.gov.vn; truy cập từ ngày 14-
19/01/2021.
4. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam - SBV (2020 - 2021): Truy cập tại: https://www.
sbv.gov.vn: Mục tin tức – văn bản, truy cập từ ngày 14-19/01/2021
198
nguon tai.lieu . vn