Xem mẫu
- TIẾP CẬN PHÁT THANH CỦA NGƢỜI DÂN VÙNG NÖI
PHÍA BẮC
Th.S. Bùi Thu Hương
Bài viết này nhằm mô tả thực trạng tiếp cận phƣơng tiện phát thanh
của ngƣời dân Tây Bắc qua khảo sát ở sáu xã phƣờng thuộc hai tỉnh Lào
Cai và Yên Bái. Nằm giáp ranh giữa hai vùng Tây Bắc và Đông Bắc Việt
Nam, hai tỉnh này có vị trí địa lý- kinh tế vô cùng quan trọng. Lào Cai
đƣợc mệnh danh nhƣ cửa ngõ giao thƣơng giữa Việt Nam và Tây Nam
Trung Quốc và Yên Bái là cửa ngõ của vùng Tây Bắc. Nơi đây còn có
hàng chục dân tộc cùng chung sống với những bản sắc văn hoá vô cùng
phong phú và đặc sắc1.
1. Vài nét về đặc điểm nhân khẩu học
Ngƣời trả lời (NTL) đƣợc lựa chọn từ hai phƣờng và bốn xã thuộc
hai tỉnh Lào Cai và Yên Bái. Do đó, đa phần sinh sống tại địa bàn nông
thôn, chiếm 66,7% so với 33,3% thuộc các khu vực đô thị. Chênh lệch về
giới tính của NTL không lớn, 53% là nam so với 47% là nữ.
Đa phần NTL là dân tộc Kinh (49,7%), còn lại là các dân tộc nhƣ
Dao (22,8%), Nùng (12,8%), H‟Mông (4,5%), Tày (3,8%) và một số dân
tộc khác. Hơn 98% NTL không theo tôn giáo nào. 79,2% là các hộ gia
đình trung bình và khá giả.
Có 13% NTL chƣa bao giờ đi học và có 10,2% NTL không biết
đọc/ viết tiếng Việt và tiếng dân tộc của mình. Đa phần NTL thuộc lứa
tuổi từ 21 đến 50 (chiếm khoảng 75%). 88,8% NTL đang có vợ/ chồng.
Nghề chính của NTL là sản xuất nông nghiệp, chiếm 48,8%, cán bộ
viên chức là 17,5% và buôn bán dịch vụ là 13,8%, số ngƣời làm lâm
1
Giới thiệu chung về tỉnh Lào Cai. Tài liệu trên mạng, truy cập ngày 21 tháng 4 năm 2007, tại địa chỉ
http://www.laocai.gov.vn/home/view.asp?id=66&id_theloai=153; Giới thiệu chung về tỉnh Yên Bái.
Tài liệu trên mạng, truy cập ngày 21/04/2007, tại địa chỉ
http://vi.wikipedia.org/wiki/Y%C3%AAn_B%C3%A1i
162
- nghiệp hay tiểu thủ công nghiệp nhƣ một nghề chính không đáng kể,
chiếm khoảng 7,0%. Có tới 69% NTL không làm thêm nghề phụ gì, bên
cạnh một tỷ lệ khá nhỏ NTL làm các nghề phụ nhƣ công nhân, tiểu thủ
công (8,2%), SX nông nghiệp (6,8%), buôn bán/ dịch vụ (5,8%) hay lâm
nghiệp (5,0%).
2. Tiếp cận phát thanh của ngƣời dân
Hệ thống truyền thông đại chúng cung cấp thông tin về mọi mặt của
đời sống xã hội, bao gồm tất cả các khía cạnh nhƣ chính trị, văn hóa, xã
hội… nhiều nghiên cứu cho thấy số lƣợng thông tin xã hội mà con ngƣời
trong xó hội hiện đại thu nhận đƣợc là thông qua hệ thống TTĐC.Phát
thanh đi đến với nhiều nhóm công chúng khác nhau phân bố nhiều vùng
trong cả nước và đến với nhóm người dân nghèo dễ dàng nhất và sóng
phát thanh có hầu hết trên cả nước kể cả vùng sâu vùng xa;
Theo báo cáo của Bộ Văn hoá Thông tin, ngày 19-1-2005, tại Hội nghị
Toàn quốc về Công tác quản lý Nhà nƣớc trong lĩnh vực truyền thanh:
Hệ thống phỏt thanh ở Việt Nam có hàng trăm đài phát sóng, riêng Đài
Tiếng Nói Việt Nam là đài quốc gia thuộc chính phủ, trực tiếp quản lý 11
đài với công suất 8.000 KW. Địa phƣơng: 64 đài phát thanh trực thuộc Uỷ
ban Nhân dân tỉnh thành. Ngoài ra, có 612 đài phát thanh cấp huyện;
7.916 truyền thanh cấp xã. Đài Tiếng Nói Việt Nam (Voices of Vietnam)
có 6 hệ chƣơng trình: VOV1: thời sự, chính trị; VOV2: văn hoá đời sống;
VOV3: âm nhạc, thông tin giải trí; VOV4: dành cho dân tộc thiểu số;
VOV5: dành cho ngƣời nƣớc ngoài; VOV6: dành cho ngƣời Việt Nam ở
nƣớc ngoài và ngƣời nƣớc ngoài. Tổng thời lƣợng của 6 hệ chƣơng trình:
452 chƣơng trình với 191 giờ mỗi ngày, hiện phủ súng 95% diện tích lãnh
thổ và 87% số dân cƣ. Số lƣợng máy thu thanh: khoảng 11 triệu cái, bình
quân 7 ngƣời 1 máy.
2.1. Mức độ thường xuyên nghe đài trong một tháng qua
Có tới 75.2% NTL không nghe đài trong tháng qua. Chỉ có 15.8%
NTL nghe đài gần nhƣ nghe hàng ngày và hàng ngày. (Xem phụ lục một
163
- chiều bảng mức độ thường xuyên nghe đài trong một tháng qua trang 89).
Trong đó nam giới nghe đài nhiều hơn so với nữ giới, tỷ lệ này tƣơng ứng
là 33,3% và 15,2%. Điều này có thể lý giải là do phụ nữ còn phải làm
nhiều công việc gia đình hơn là nam giới, họ không có nhiều thời gian
rảnh rỗi để nghe đài.
Biểu 1: Tƣơng quan giữa điều kiện kinh tế hộ gia đình và
mức độ thƣờng xuyên nghe đài trong một tháng qua
100 85
74.6 70.2
80
60
Có nghe đài
40 29.8 Không nghe đài
25.4
15
20
0
Nghèo/đói Trung bình Khá giả
Qua biều trên ta thấy với nhóm hộ gia đình khá giả thời gian nghe
đài ít hơn so với hai nhóm hộ còn lại.
Với câu hỏi mức độ nghe đài Tiếng nói Việt Nam của NTL, thì kết
quả cho thấy 65,8% trả lời là thƣờng xuyên nghe so với 4,0% cho biết là
không bao giờ nghe. Trong khi đó, kết quả tƣơng ứng đối với đài địa
phƣơng là 32,9 so với 21,9% và đài nƣớc ngoài là 2,2% và 91,1%
2.2 Thời gian nghe đài
Kết quả nghiên cứu cho thấy không có sự khác biệt về tổng số phút
lớn nhất mà NTL cho biết dành cho nghe đài vào ngày thƣờng, thứ Bảy
hay Chủ Nhật, khoảng 600 phút. Tuy nhiên lại có khoảng cách khá lớn
giữa giá trị min và max (2 phút so với 600 phút). Trung bình NTL dành
khoảng 90 phút (một tiếng rƣỡi) để nghe đài vào ngày thƣờng, và thời gian
này vào các ngày cuối tuần lại giảm đi, thứ bảy chỉ còn khoảng 84 phút và
Chủ nhật còn khoảng 86 phút. Thời gian trung bình NTL dành cho nghe
đài nói chung còn ít hơn cả thời gian họ dành sử dụng máy vi tính/ truy
164
- cập internet (khoảng 94 phút vào thứ bảy và CN) và chỉ bằng 1/3 quĩ thời
gian họ dành cho xem truyền hình mỗi ngày. (Xem phụ lục số liệu một
chiều trang 21).
Thời điểm nghe đài mỗi ngày
Bảng 1: Nghe đài, xem truyền hình và các công việc khác NTL
thƣờng làm tại mỗi giờ trong ngày
Giờ Hoạt động NTL thƣờng làm Nghe đài ở nhà Xem truyền
tại mỗi thời điểm (%) hình ở nhà
Hoạt động Phần trăm (%)
NTL lựa chọn
5.30- 7.30 HĐ cá nhân 82.8 1.7 6.8
7.30-9.00 Đi làm việc 79.8 1.3 6.2
9.00-11.00 Đi làm việc 72.7 1.8 9.5
11.00- 13.30 HĐ cá nhân 52.0 3.0 30.8
13.30- 15.00 Đi làm việc 65.7 0.5 9.7
15.00- 17.00 Đi làm việc 71.3 1.3 8.7
17.00-19.00 HĐ cá nhân 52.0 3.3 21.8
19.00- 20.00 Xem TH 64.7 3.3 64.7
20.00-21.00 Xem TH 65.8 3.0 65.8
21.00- 22.00 Xem TH 48.8 4.2 48.8
HĐ cá nhân 40.2
22.00- 23.00 HĐ cá nhân 75.8 3.0 18.0
Sau 23.00 HĐ cá nhân 98.5 0.3 0.8
Bảng 1 (Nghe đài, xem truyền hình và các công việc khác NTL
thƣờng làm tại mỗi thời điểm trong ngày) cho thấy hai đặc điểm :
Thứ nhất, nghe đài ở nhà không phải là hoạt động chính của NTL
tại mỗi giờ lựa chọn nghiên cứu, dù tại mỗi giờ lựa chọn nghiên cứu đều
có ngƣời nghe đài; Khoảng hơn 3% NTL lựa chọn nghe đài là hoạt động
họ thƣờng làm trong khoảng các tiếng từ 17h- 23h mỗi ngày. Tuy nhiên,
so với các hoạt động mà đa số NTL lựa chọn là công việc họ thƣờng làm
mỗi giờ trong ngày thì số NTL nghe đài quá nhỏ bé;
165
- Thứ hai, xem truyền hình ở nhà là một trong ba nhóm hoạt động
chính NTL thƣờng làm tại mỗi giờ trong ngày. Kể cả khi không phải là
hoạt động đƣợc đa phần NTL lựa chọn là hoạt động thƣờng làm tại mỗi
giờ thì số NTL lựa chọn xem truyền hình là hoạt động thƣờng làm cũng
đứng thứ hai.
2.4 Lý do không nghe đài
Lý do NTL lựa chọn nhiều nhất để giải thích vì sao không nghe đài
đó là họ không có đài (chiếm 64,8%). Đứng thứ hai là vì họ không thích/
không có nhu cầu (chiếm 18,6%). Không có thời gian là 10 % NTL. Trong
2,7% NTL lựa chọn các lý do khác, đáng kể là có khá nhiều lý do liên
quan đến truyền hình. Cụ thể có các ý kiến cho rằng: “Có ti vi”, “Ti vi là
đủ”, “Ti vi có đầy đủ chương trình rồi”, “Tin tức rất cập nhật trên truyền
hình” hay “Xem tivi và báo là đủ”.
Nếu nhƣ xét theo nhóm điều kiện kinh tế cho thấy có mối quan hệ
chặt (***) chẽ giữa điều kiện kinh tế với lý do không nghe đài. Với lý do
không có đài thỡ nhúm cú điều kiện kinh tế trung bình có tỷ lệ trả lời cao
nhất chiếm 54,9% (161 TH), sau đó là nhóm nghèo/ đói 22,9% (67 TH).
Đặc biệt là với lý do không thích và không có nhu cầu thì nhóm khá giả có
tỷ lệ trả lời cao nhất 54,8% (46TH) còn nhóm nghèo/ đói có tỷ lệ trả lời
thấp nhất 8,3% (7TH). Điều này có thể đƣợc lý giải là nhóm gia đình có
điều kiện kinh tế họ khá giả trở lên họ có nhiều hình thức để giải trí và họ
có khả năng chi trả cho việc mua sắm các trang thiết bị hiện đại trong nhà
nhƣ tivi, đầu video, dàn âm thanh. Do vậy họ không dành nhiều thời gian
cho việc nghe thông tin qua đài phát thanh. Đối với nhóm gia đình nghèo
thì họ không có phƣơng tiện gía rẻ tiền hơn là chiếc đài phát thanh.
Điều này cũng xảy ra tƣơng tự với 2 nhóm biết đọc/ viết một trong
các thứ tiếng (Việt hoặc tiếng dân tộc) và nhóm không biết đọc/ viết bất
kỳ một thứ tiếng nào, (P. Value: 0,001). Với nhóm biết đọc biết viết thì lý
do không thích/ không có nhu cầu có tỷ lệ cao nhất 95,2%, còn với nhóm
không biết đọc biết viết chỉ là 4,8%. Kết quả cho thấy dƣờng nhƣ những
166
- ngƣời biết đọc biết viết họ có nhiều cơ hội tiếp cận với những thông tin xã
hội thông qua các phƣơng tiện truyền thông khác nhƣ truyền hình, báo,
sách…còn đối với nhóm kia thì đài phát thanh là cầu nối hữu hiệu hơn cả
đối với họ ra thế giới bên ngoài.
Tuy nhiên, một số câu hỏi kiểm tra khác đã cho thấy một số mâu
thuẫn trong các câu trả lời của NTL. Nhƣ trên lý do đƣợc nhiều ngƣời lựa
chọn để giải thích không nghe đài là do không có đài nhƣng khi đƣợc hỏi:
“Anh/chị có mong muốn được cấp phát máy thu thanh miễn phí không?”
thì chỉ có 19,2% NTL trả lời là có trong khi đó 75,2% NTL lựa chọn là
“Không nghe đài” theo tôi hiểu cũng là “Không cần” hay “Không”.
2.4. Tầm quan trọng của các chương trình phát thanh
Bảng 2. NTL lựa chọn các chƣơng trình PT quan trọng với bản thân (%)
Chƣơng trình Là chƣơng trình Là chƣơng trình Là chƣơng trình
quan trọng nhất quan trọng thứ hai quan trọng thứ ba
Tin tức 63,8 8,7 5,4
Chƣơng trình quân đội 4,0 10,1 7,4
Chƣơng trình âm nhạc 12,1 23,5 14,1
Thể thao 0,7 8,1 8,7
Kể chuyện 6,0 16,8 12,1
Chƣơng trình nông thôn 4,7 20,8 17,4
Sân khấu 4,0 2,7 21,5
Khác 3,4 9,4 12,8
Không biết 1,3 0 0,7
Tổng cộng 100 100 100
Đa số NTL (63,8%) cho rằng chƣơng trình phát thanh quan trọng
nhất đối với họ chính là tin tức. Đáng kể là, Chương trình âm nhạc trên
đài đƣợc 12,1% NTL (đứng thứ hai sau tin tức) lựa chọn là chƣơng trình
quan trọng nhất và 23,5% NTL lựa chọn là chƣơng trình quan trọng thứ
hai. Chƣơng trình nông thôn cũng chỉ đƣợc 20,8% NTL (đa phần sống ở
nông thôn và làm nông nghiệp) lựa chọn là chƣơng trình quan trọng thứ
167
- hai. Bên cạnh đó, có 21,4% NTL lựa chọn Sân khấu là chƣơng trình quan
trọng thứ ba. Có thể thấy, cùng với phần trăm NTL lựa chọn các phƣơng
án khác nhƣ kể chuyện, thể thao nhƣ là chƣơng trình quan trọng thứ nhất,
nhì hay ba thì phát thanh cũng đƣợc NTL lựa chọn nhƣ một kênh tin tức
và giải trí là chính.
Biểu 2. Ba chương trình được lựa chọn nhiều nhất với mỗi câu hỏi
về chương trình quan trọng nhất, nhì, ba
90
80
70 81.
60 9
50 60.
40 1 53
30
20
10
0
Ba CT quan trong Ba CT quan trong Ba CT quan trong
nhat thu nhì thu ba
2.5 Nhận xét về chương trình tin tức
Nhiều học giả cho rằng: hành vi theo dõi tin tức, thời sự trên các
phƣơng tiện truyền thông đại chúng không chỉ là một hành vi nhằm hiểu
biết tin tức mà còn là một hình thái để con ngƣời duy trì mối liên hệ
thƣờng xuyên với cộng đồng mà mình đang sinh sống. Khi tiếp cận với
các thông tin con ngƣời cũng đồng thời thể hiện nhu cầu muốn chứng tỏ
mỡnh quan tâm tới cộng đồng xó hội của mỡnh và mỡnh thuộc về cộng
đồng xã hội này.
Bảng 3 (Nhận xét chung về chương trình tin tức đài quốc gia, địa
phương và nước ngoài) cho thấy chỉ có hơn 50% NTL cho rằng CT thời
sự ở Đài Quốc gia là phù hợp (57,7%) và cập nhật (54,4%). Còn lại với
các ý kiến nhận xét nhƣ CT thời sự trung thực, dễ hiểu hay hấp dẫn thì
phần trăm NTL đồng tình không cao. Phần trăm tƣơng ứng nhận xét CT
TS của Đài Quốc gia là 34,2%, 47% và 44,3% và Đài địa phƣơng là
168
- 18,1%, 33,6% và 22,8%. Tỷ lệ NTL đồng tình với nhận xét “CT thời sự
phản ánh ý kiến của chúng tôi” còn thấp hơn, chỉ có 18,1% cho là đúng ở
CT TS của Đài quốc gia so với 22,1% ở Đài địa phƣơng và “CT thời sự
bàn về những vấn đề mà NTL quan tâm” là 28,2% ở Đài Quốc gia so với
24,8% ở Đài địa phƣơng.
Bảng 3. Nhận xét chung về chương trình tin tức đài quốc gia, địa
phương và nước ngoài (%)
Nhận xét Đài Quốc gia Đài địa Đài nƣớc
phƣơng ngoài
CT thời sự là phù hợp 57,7* 36,9 1,3
CT thời sự là hấp dẫn 44,3 22,8 1,3
CT thời sự cập nhật 54,4 26,8 2,0
CT thời sự trung thực 34,2 18,1 KTL
CT thời sự dễ hiểu 47,0 33,6 0,7
Ngôn ngữ của TS dễ hiểu 35,6 35,6 KTL
CT thời sự phản ánh đƣợc ý 18,1 22,1 KTL
kiến của NTL
CT thời sự bàn về những vấn 28,2 24,8 0,7
đề mà NTL quan tâm
* Phần trăm NTL lựa chọn đồng ý với ý kiến nhận xét CT thời sự, còn lại là KTL.
Nhìn vào bảng 3, có thể thấy rằng với các nhận xét về chƣơng trình
thời sự ở đài nƣớc ngoài, mà có lẽ chủ yếu là Đài Trung quốc (53,8%) và
đài Mỹ (23,1%), tỷ lệ NTL đồng tình không hề cao. Kết quả nghiên cứu
cho thấy, chỉ có 9,9% NTL cho biết có nghe đài nƣớc ngoài. Có thể là do:
1) hạn chế về phƣơng tiện, 67,6% NTL cho biết là họ không có đài, 2) hạn
chế về ngoại ngữ và 3) chất lƣợng thu đài nƣớc ngoài rất thấp, có tới
61,2% cho biết là không thu đƣợc.
169
- Biểu 3. Nhận xét chung về chương trình tin tức đài quốc gia và địa
phương
Tỷ lệ % 70
60
50
40 Đài QG
30 Đài ĐP
20
10
0
3. Kết luận
Kết quả nghiên cứu đã cho thấy một bức tranh khá sinh động về khả
năng và nhu cầu tiếp cận các phƣơng tiện TTĐC mà trong trƣờng hợp này
là đài phát thanh. Tại hai tỉnh vùng núi phía Bắc lựa chọn nghiên cứu này,
số liệu cho thấy phát thanh không có vị trí quan trọng. Thậm chí là yếu thế
hơn nhiều so với truyền hình và internet. Rất nhiều hộ gia đình không có
đài (67,6%), không phải vì họ không thể mua mà vì họ không có nhu cầu
có đài hay nghe đài (75,2%). Đây cũng là lý do chính vì sao họ không
nghe đài -- họ không có đài. Họ không có đài vì họ không nghe và họ
không nghe nên họ không cần có đài.
Sự tiện dụng (dễ mang vác, dễ thu thanh, rẻ hơn, có thể dùng pin…)
của chiếc đài đối với ngƣời dân, đặc biệt là ở miền núi và những nơi
không có điện, không còn đƣợc đánh giá cao. Nhất là khi có sự xuất hiện
của truyền hình ở các tỉnh miền núi này và đặc biệt sự xuất hiện của các
phƣơng tiện thu hình hiện đại vừa rẻ vừa tốt nhập khẩu từ Trung Quốc
giúp cho các gia đình không chỉ có thể thu đƣợc các chƣơng trình truyền
hình đa dạng phong phú của đài quốc gia, địa phƣơng mà còn nhiều
170
- chƣơng trình khác trong khu vực và thế giới. Thực tế này đã khiến NTL có
“nhiều lựa chọn thú vị” hơn mà bỏ qua đài phát thanh.
Một điều đáng lƣu tâm là các chƣơng trình trên đài chƣa thực sự
phong phú và hấp dẫn. Đài phát thanh cũng đƣợc coi là một kênh thông tin
giải trí (nhƣ đã đề cập ở trên), tuy nhiên, ngƣời nghe không có nhiều lựa
chọn. Theo NTL, chƣơng trình quan trọng nhất là tin tức thì cũng chƣa
thực sự hấp dẫn, trung thực, dễ hiểu. Chương trình thời sự kể cả ở Đài
Quốc gia hay địa phƣơng cũng chƣa phản ánh đƣợc tâm tƣ nguyện vọng
hay bàn về những vấn đề mà ngƣời dân quan tâm. Đặc biệt là Chương
trình nông thôn không đƣợc lựa chọn là một trong ba chƣơng trình quan
trọng nhất của NTL. Trên thực tế các chƣơng trình của Đài tiếng nói Việt
nam rất phong phú. Thậm chí có cả chƣơng trình riêng dành cho ngƣời
dân tộc và phát bằng tiếng dân tộc. Nhƣng trong nghiên cứu, không có
nhiều NTL đề cập đến vấn đề này 1. Có thể giải thích sự khuyết trống
trong nhận thức này ở chính lý do là họ không nghe đài bởi vì nghĩ rằng
chƣơng trình đài không hay và do vậy không biết và cũng không cần biết
rằng các chƣơng trình đó đã đƣợc cải thiện lên rất nhiều.
Theo chúng tôi, một trong những hạn chế khiến cho phát thanh
không còn chiếm vị trí độc tôn và thậm chí còn khiến đối tƣợng nghe đài
ngày càng giảm đó là vì phần lớn các chƣơng trình vẫn còn coi thính giả
nhƣ những đối tƣợng tiếp thu thông tin thụ động, một chiều mà chẳng hề
quan tâm đến việc họ có thực sự cần những thông tin mà mình cung cấp
hay không. Nhiều chƣơng trình còn nằm trong phạm vi „đóng‟ của một
kịch bản khô cứng, dựng sẵn, chƣa tạo một diễn đàn, một „sân chơi‟ cho
thính giả cùng tham gia chia sẻ, đóng góp ý kiến, thậm chí nên tạo cơ hội
cho họ đƣa ra những câu hỏi, vƣớng mắc, thể hiện thái độ của họ trƣớc
một vấn đề nào đó. Thực trạng này có thể sửa chữa rất dễ dàng bằng cách
ngay khi chƣơng trình đang phát sóng hay khi vừa kết thúc nên có một vài
1
Giới thiệu về Đài TNVN. Tài liệu trên mạng, truy cập ngày 21/04/2007 tại địa chỉ
http://www.tnvn.gov.vn/
171
- câu hỏi về nội dung nào đó của chƣơng trình, yêu cầu bạn nghe đài nhắn
tin hoặc gọi điện đến số điện thoại dễ nhớ nào đó của chƣơng trình để
nhận giải thƣởng, v.v.
Những câu hỏi đơn giản, kiểm tra kiến thức, chủ yếu nhằm tạo ra sự
tƣơng tác, giao lƣu giữa chƣơng trình với bạn nghe đài, lôi kéo sự quan
tâm của họ (giống nhƣ các chƣơng trình truyền hình nhƣ: làm giàu không
khó, sức sống mới, tôi và chúng ta, khởi nghiệp… vẫn đang làm). Hoặc
thính giả có thể gọi trực tiếp vào studio khi chƣơng trình đang phát sóng
để đặt câu hỏi hay đƣa ra yêu cầu (giống nhƣ một số chƣơng trình âm
nhạc, bài hát theo yêu cầu trên phát thanh, vv.), và tất nhiên chƣơng trình
sẽ đƣợc xây dựng theo hƣớng „mở‟, hoàn toàn dựa trên các câu hỏi, yêu
cầu hay ý tƣởng phát triển nội dung nào đó của ngƣời nghe cho ngay
chƣơng trình đang phát hoặc cho những chƣơng trình sau. Sự cùng tham
gia còn thể hiện ở chính việc sử dụng những ý tƣởng, chƣơng trình, tin
tức, phóng sự phát thanh do các phóng viên không chuyên (là những thính
giả nghe đài) thực hiện của Đài phát thanh địa phƣơng và quốc gia.
Việc xây dựng các chƣơng trình phát thanh theo hƣớng „mở‟ này
đòi hỏi trƣớc hết là phải có kỹ thuật (nếu là tƣơng tác trực tiếp thì phải có
máy dừng lời… để kiểm duyệt nội dung câu hỏi trƣớc khi phát sóng, hệ
thống máy tính nối mạng, v.v), quan trọng hơn cả và có ý nghĩa quyết định
là đội ngũ phóng viên, biên tập viên tâm huyết, chuyên nghiệp, có bản
lĩnh, có trình độ, có khả năng ứng phó, có thể phối hợp và làm việc theo
nhóm, v.v. Cuối cùng, cũng không kém phần quan trọng là đội ngũ lãnh
đạo mạnh dạn, dám nghĩ dám làm và cam kết tạo điều kiện cho mọi sự đổi
mới tích cực trong Đài dựa trên những thông tin nghiên cứu đáng tin cậy
về đối tƣợng nghe đài.
Tuy vậy, đó mới chỉ là những diễn giải số liệu và giải pháp ban đầu.
Những số liệu thu thập đƣợc còn rải rác, chƣa tập trung, chủ yếu từ các địa
bàn dân cƣ có cuộc sống trung bình và khá giả, do vậy khó có thể suy rộng
cho toàn bộ ngƣời dân vùng núi phía bắc khác không tham gia vào nghiên
172
- cứu. Để có thể hiểu rõ hơn những tâm tƣ, nguyện vọng của ngƣời nghe đài
nói chung và ngƣời nghe đài ở vùng núi phía bắc nói riêng, rất cần có
nhiều nghiên cứu định tính, sử dụng phƣơng pháp dân tộc học khác sâu
hơn, rộng hơn. Các thông tin sâu, đa dạng này sẽ giúp các chƣơng trình
phát thanh đổi mới nội dung và hình thức chƣơng trình một cách thực sự,
gần gũi hơn với ngƣời nghe, phản ánh đƣợc tiếng nói của ngƣời dân và
thực sự lôi kéo đƣợc ngƣời dân vào trong các quá trình xây dựng chƣơng
trình. Việc làm này sẽ củng cố và phát huy đƣợc thế mạnh vốn có của phát
thanh trong công tác truyền thông cho sự nghiệp phát triển của địa phƣơng
và đất nƣớc.
Tài liệu tham khảo
1. Báo cáo nghiên cứu sự tiếp cận các phƣơng tiện thông tin đại chúng của ngƣời dân
vùng núi phía Bắc. Khoa xã hội học- 2006.
2. Bộ số liệu một chiều về tiếp cận TTĐC của ngƣời dân Tây Bắc. Khoa Xã hội học-
2006.
3. Giới thiệu chung về tỉnh Lào Cai. Tài liệu trên mạng, truy cập ngày 21/04/2007, tại
địa chỉ http://www.laocai.gov.vn/home/view.asp?id=66&id_theloai=153.
4. Giới thiệu chung về tỉnh Yên Bái. Tài liệu trên mạng, truy cập ngày 21/04/2007, tại
địa chỉ http://vi.wikipedia.org/wiki/Y%C3%AAn_B%C3%A1i
5. Giới thiệu về Đài TNVN. Tài liệu trên mạng, truy cập ngày 21/04/2007 tại địa chỉ
http://www.tnvn.gov.vn/
173
- THỰC TRẠNG TIẾP CẬN VÀ SỬ DỤNG ĐÀI PHÁT THANH
CỦA NGƢỜI DÂN ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG
Ths. Nhạc Phan Linh - Lê Thu Hà
Nằm trong khuân khổ dự án phối hợp giữa Viện Friedrich Ebert
(FES) của Đức tại Hà Nội và Học viện Báo chí và Tuyên truyền, nghiên
cứu “Thực trạng tiếp cận các phƣơng tiện truyền thông đại chúng của
ngƣời dân và nhu cầu đối với đài phát thanh” đã đƣợc tiến hành tại khu
vực đồng bằng Sông Cửu Long trong năm 2008. Địa bàn đƣợc lựa chọn
làm mẫu để nghiên cứu bao gồm 01 thành phố, 01 thị xã và 03 huyện của
tỉnh Đồng Tháp. Có 500 phiếu điều tra anket và 10 thảo luận nhóm (TLN)
tập trung đã đƣợc triển khai thực hiện.
Bài viết này xin đƣợc giới thiệu một phần kết quả nghiên cứu về
thực trạng tiếp cận và sử dụng đài phát thanh của ngƣời dân đồng bằng
Sông Cửu Long.
1. Tiếp cận đài – Radio
Với sự đa dạng, tiện lợi về mẫu mã, chủng loại, cộng với giá thành
ngày càng hạ do sự phổ cập của công nghệ nhƣng chỉ 41,4% hộ gia đình ở
Đồng Tháp còn sở hữu đài radio (trong khi tivi là 93%). Những hộ không
có chỉ chiếm 3,8% số hộ đói và nghèo - theo đánh giá của cán bộ địa
phƣơng. Bên cạnh đó, chất lƣợng cuộc sống thấp cũng nhƣ điều kiện lao
động khó khăn cũng không giúp cho việc nâng cao tỷ lệ ngƣời nghe đài
radio tại khu vực nông thôn. Ngƣợc lại, số hộ thành thị sở hữu đài lại cao
hơn nhiều (51,5% so với 34,7%). Điều này chứng tỏ điều kiện kinh tế của
gia đình không phải là yếu tố quyết định đến việc ngƣời dân sử dụng đài
radio hay không.
174
- Mặc dù có tới 47,2% số ngƣời đƣợc hỏi cho biết đã từng nghe đài
nhƣng trong một tháng trở lại đây, tính tại thời điểm đƣợc phỏng vấn, con
số này giảm xuống chỉ còn 28,8%. Lý do đƣợc lựa chọn nhiều nhất dẫn
đến việc ít tiếp cận radio của ngƣời dân là do nội dung các chƣơng trình
phát thanh không hấp dẫn bằng các chƣơng trình của truyền hình (54,6%),
trong đó, 37,9% cho biết đây là lý do quan trọng nhất.
Yếu tố kỹ thuật là lý do phàn nàn của khoảng ¼ số mẫu nghiên cứu.
Những số liệu cho rằng chất lƣợng sóng kém hay không thu đƣợc sóng
chƣơng trình mình ƣa thích sẽ minh chứng cho nhận định này (Bảng 1).
Bảng 1: Lý do ngƣời dân không nghe đài (%)
Stt Lý do không nghe đài Xếp vào lý Tổng
do quan số lựa
trọng nhất chọn
1. Nội dung của đài không hấp dẫn bằng TV 37.9 54.6
2. Dò sóng mất thời gian/ Không dò đƣợc đài
muốn nghe 5 27.3
3. Chất lƣợng sóng kém, lúc bắt đƣợc lúc
không bắt đƣợc 5 24.2
4. Nội dung của đài không phù hợp với sở thích 2.5 21.7
5. Thông tin từ loa truyền thanh của ấp, xã đã
đủ đáp ứng nhu cầu 2.5 11.2
6. Không có địa điểm để nghe đài thích hợp 5.6 10.5
7. Thời điểm phát sóng không phù hợp với nhu
cầu 1.2 7.5
8. Khác 40 45.5
- Khu vực tôi ở toàn công nhân viên chức, 60% -70% hộ gia đình có
đài. Mất điện thì nghe Radio hết, nhưng có điện thì coi Tivi (Sađec:
nữ, viên chức).
175
- - Tại nó hư nên bỏ đi, không nghe nữa. Giờ có Tivi thay thế rồi. Xem
sướng hơn! Sửa làm gì nữa tốn tiền (TLN Sađec: nam, sinh 1956,
làm ruộng).
- Radio cũ kỹ, mua mắc công. Đài rè rè, nghe không thấy hình. Tivi
vừa nghe vừa thấy được hình. Nguyên nhân nữa là vì sóng không
tốt (TLN Sađec: nam, sinh 1962, buôn bán).
Qua các ý kiến phỏng vấn sâu, một nguyên nhân góp phần đáng kể
làm sụt giảm số lƣợng ngƣời nghe là do radio cũ, hỏng và ngƣời dân ngại
đi sửa.
- Trước đây thích nghe Radio, nghe được nhiều chương trình. Bây
giờ vẫn thích nghe nhưng nó hư rồi, ngại không sửa (TLN Sađec:
nữ, sinh 1957, trồng hoa kiểng).
Sự thụ động trong việc nghe đài còn đƣợc thể hiện qua ý kiến sau:
- Trúng lúc nào nghe lúc đấy, tại buồn nghe thôi nên không rõ thích
nghe gì (TLN Sađec: nam, sinh 1956, làm ruộng).
- Con tui học đại học, giờ nó lên Internet. Tụi tui không biết sử dụng.
Lứa tuổi mình lạc hậu, thích không khí êm dịu. Nghe Radio cho đỡ
buồn (TLN Hồng Ngự: nam, sinh 1964, cán bộ nông nghiệp).
Đặc biệt, một lý do nữa dẫn đến việc không thích nghe radio đƣợc
phát hiện hiện liên quan đến hình thức phát sóng:
- Khuyết điểm lớn nhất của Radio là phát 1 chiều. Đài không biết là
có bao nhiêu người nghe, thích nghe gì (TLN Thanh Bình, nam,
sinh 1950, buôn bán tạp hoá).
Thời điểm những ngƣời đã từng sử dụng radio nhƣng đến nay
không tiếp tục nghe đài nữa chủ yếu xảy ra trong khoảng thời gian 10 năm
trở lại đây (Bảng 2), đặc biệt tăng lên từ năm 2003 (Bảng 3).
176
- Bảng 2: Thời điểm ngƣời dân Bảng 3: Tỷ lệ ngƣời dân dừng
không tiếp tục nghe radio (%) nghe radio từ năm 2000 đến 2008
Thời điểm Tỷ lệ Năm Tỷ lệ
Trƣớc 1980 0.7 2000 6.9
2001 5.5
Từ 1980 - 1984 1.4
2002 4.8
Từ 1985 - 1989 2.8 2003 11.7
Từ 1990 - 1994 3.5 2004 10.3
Từ 1995 - 1999 11.2 2005 11.0
Từ 2000 - 2004 39.9 2006 11.7
2007 9.7
Từ 2005 - nay 42
2008 9.0
Để làm rõ nguyên nhân sụt giảm lƣợng ngƣời nghe do yếu tố kỹ
thuật, những đánh giá về chất lƣợng các sóng phát thanh qua nhận xét của
ngƣời dân cũng rất cần thiết. Với danh mục các đài phát thanh đƣa ra, chất
lƣợng sóng của đài địa phƣơng (Đài Đồng Tháp) đƣợc 93,1% những
ngƣời nghe đánh giá tốt, tiếp đến là Đài Tiếng nói Việt Nam với 89,3%.
Do đặc điểm địa hình bằng phẳng nên một số đài địa phƣơng lân cận cũng
đƣợc đánh giá có chất lƣợng phủ sóng tốt tại địa bàn nghiên cứu là đài
Vĩnh Long (83,7%), đài TP. Hồ Chí Minh (75,7), đài An Giang (58,6%).
Một số đài nƣớc ngoài nhƣ Trung Quốc, Căm-Pu-Chia, Mỹ, Anh v.v..
cũng đƣợc ghi nhận có sự phủ sóng tại địa bàn nghiên cứu nhƣng chất
lƣợng kém và không ổn định.
Đánh giá về chất lượng sóng phát thanh
100%
12.9
90% 23.4 20
31.9
80% 43.4
70%
45.7 Rất tốt
60%
55.7 Tốt
50%
60.3 Kém/ Không ổn định
40% 57.4 Không thu được
30% 49.7
25.7
20%
17.9
10% 12 15.7
6.4
4.8 4.3 4.3 6.4
0% 2.1
Đài Đồng Đài Tiếng nói Đài Vĩnh Đài Tp. Hồ Đài PT An
Tháp Việt Nam Long Chí Minh Giang
177
- 2. Mức độ nghe đài
Nếu nhƣ ngƣời dân đồng bằng sông Cửu Long dành thời gian xem
truyền hình trung bình đạt 153 phút/ ngày thì khoảng thời gian trung bình
dành cho việc nghe radio chỉ là 105 phút/ ngày. Số liệu cụ thể về thời gian
nghe đài trong ngày đƣợc biểu thị trong Bảng 4 dƣới đây.
Bảng 4: Thời gian nghe đài trong một ngày (%)
Số giờ nghe đài trong ngày Tỷ lệ
Nghe dƣới 1 giờ/ ngày 27.1
Nghe từ 1h – 3h/ ngày 53.6
Nghe từ 3h – 6h/ ngày 15.7
Nghe từ 6h – 10h/ ngày 3.6
Bên cạnh đó, với những ngƣời có thói quen nghe đài hàng ngày,
những khung giờ sử dụng radio nhiều nhất là buổi sáng sớm (05h30 –
07h30), buổi trƣa (11h30 – 13h30) và buổi chiều tối (17h00 – 22h00). Kết
quả nghiên cứu cũng cho thấy lƣợng ngƣời nghe vào hai ngày cuối tuần
thứ Bảy và Chủ nhật hầu nhƣ không khác so với năm ngày còn lại trong
tuần (từ 28% đến 30% lƣợng thính giả).
Thời điểm nghe đài trong ngày của những người có thói quen sử dụng radio
Sau 23.00 giờ 4.2
Từ 22.00- 23.00 giờ 15.3
Từ 21.00- 22.00 giờ 28.5
Từ 20.00- 21.00 giờ 25
Từ 19.00- 20.00 giờ 20.8
Từ17.00- 19.00 giờ 23.6
Từ 15.00- 17.00 giờ 10.4
Từ 13.30- 15.00giờ 8.3
Từ 11.30 đến13.30 giờ 28.5
Từ 09.0 đến11.30 giờ 7.6
Từ 07.30 đến 09.00 giờ 9.7
Từ 05.30 đến 07.30 giờ 37.5
0 5 10 15 20 25 30 35 40
178
- Với việc tiếp cận các kênh phát thanh nhƣ đã mô tả, mức độ tiếp
cận các nguồn thông tin ra sao?
Với ƣu thế là kênh thông tin chính thức của địa phƣơng, đài Đồng
Tháp thu hút đƣợc đến 71,8% lƣợng thính giả thƣờng xuyên. Kế tiếp là
Đài Tiếng nói Việt Nam với 67,9% và các đài khác trong khu vực Đồng
bằng sông Cửu Long với trên 50% lƣợng thính giả thƣờng xuyên. Điều
này chứng tỏ nhu cầu về các kênh thông tin trên sóng phát thanh của mẫu
nghiên cứu khá đa dạng.
Mức độ nghe các kênh phát thanh
80
71.8 67.9 71.1
70
64.7
60
51.2
50
40
36.8 34.1
30
30.8
20
18.8
10 11.5
0
Đài Đồng Tháp Đài Tiếng nói Đài Vĩnh Long Đài Tp. Hồ Chí Đài PT An Giang
Việt Nam Minh
Thính giả thường xuyên Thính giả không thường xuyên
Kết quả này cũng chỉ ra rằng, so với các đài địa phƣơng, Đài Tiếng
nói Việt Nam đã chứng tỏ là một kênh truyền thông tin cậy, thu hút đƣợc
khá lớn lƣợng thỉnh giả là ngƣời dân Nam bộ. Sự tin cậy này còn đƣợc
khẳng định qua số liệu điều tra về ba đài phát thanh đƣợc ƣa thích nhất.
Ba đài phát thanh yêu thích nhất
50
42.5 43.6
45
40
35 32.1
29.2
30
25 19.8
20 17.8 16.7
14.3
15 12.3
10
5
0
Thích nhất Thích thứ hai Thích thứ ba
Đài Tiếng nói Việt Nam Đài Đồng Tháp Đài Vĩnh Long
179
- Mặc dù tổng số ngƣời yêu thích thấp hơn Đài Đồng Tháp (80,1% so
với 88%) nhƣng xếp theo thứ tự ƣu tiên, Đài Tiếng nói Việt Nam lại đứng
đầu với 42.5% lƣợng thính giả yêu thích nhất. Lý do đƣợc đƣa ra chủ yếu
là:
- Thích đài Tiếng nói Việt Nam vì phát các nội dung trong cả nước.
Đài tỉnh chỉ có mỗi nội dung của tỉnh (TLN Thanh Bình: nam, sinh
1974, làm ruộng).
- Sóng của đài tỉnh yếu, nghe tạm được, không bằng TNVN: sóng
trong, âm lượng lớn. Đài Đồng Tháp tin tức chỉ riêng tỉnh. TNVN:
thời sự cả nước. Nói chung tin tức thời sự tỉnh không bằng (TLN
Hồng Ngự: nam, sinh 1958, cán bộ văn hóa Xã).
3. Đánh giá về các kênh sóng và nội dung phát thanh
Về nội dung các chƣơng trình phát thanh, chƣơng trình tin tức thời
sự thu hút đƣợc nhiều sự quan tâm nhất với 92,5% ngƣời lựa chọn, trong
đó, 66,1% cho rằng đây là chƣơng trình yêu thích nhất trên sóng phát
thanh.
Mức độ yêu thích các chương trình phát thanh của thính giả
92.5
66.1
56.6
51
41.1 Yêu thích
Thích nhất
27.5
15
13.2 10.3
9.7 4.8 4.6
3.2 1.6 0.6 0.3
Tin tức Sân Chương Chương Thể thao Kể Chương Khác
khấu, trình âm trình chuyện trình
dân ca nhạc nông quân đội
vọng cổ thôn
Với đặc điểm của văn hóa vùng miền, ngƣời dân Đồng Tháp nói
riêng và ngƣời dân đồng bằng sông Cửu Long nói chung rất thích các hoạt
180
- động văn hóa văn nghệ mang đặc trƣng miền sông nƣớc. Do vậy, các
chƣơng trình sân khấu, dân ca vọng cổ thu hút đƣợc lƣợng thính giả nhiều
thứ hai sau các chƣơng trình tin tức thời sự với 56%. Các chƣơng trình về
đời sống nông thôn chỉ đứng thứ ba với 41,1% lƣợng thính giả yêu thích.
Với mỗi nội dung, chƣơng trình, ngƣời dân lại chọn những kênh
phát thanh khác nhau để thỏa mãn nhu cầu nghe đài của mình. Các
chƣơng trình tin tức, thời sự về tình hình kinh tế, chính trị, văn hóa, an
ninh của đất nƣớc đƣợc khai thác nhiều qua sóng của Đài tiếng nói Việt
Nam. Trong khi đó, các chƣơng trình âm nhạc, sân khấu vốn là đặc trƣng
của mảnh đất Nam bộ chủ yếu đƣợc khai thác qua các đài địa phƣơng,
đứng đầu là đài phát thanh của tỉnh nhà – Đài Đồng Tháp.
Bảng 5: Lựa chọn nội dung yêu thích trên các sóng phát thanh (%)
Stt Đài Đài Đài Đài
TNVN Đồng Tp.HCM tỉnh
Tháp khác
1. Tin tức 56,4 33,1 4,9 5,6
2. Âm nhạc 7,6 33,6 23,6 34,8
3. Sân khấu (tấu hài, ca 5,0 31,4 24,3 39,3
kịch)
4. Khác 30,0 46,7 20,0 13,3
Hình thức phát thanh đƣợc ƣa thích nhất là việc phát riêng các nội
dung tin tức, âm nhạc, sân khấu, giáo dục v.v.. trên từng kênh sóng riêng
biệt. Việc kết hợp các nội dung nhƣ vậy với nhau trên cùng một sóng phát
thanh không dành đƣợc nhiều sự thiện cảm của thính giả địa phƣơng. Bên
cạnh đó, kết quả khảo sát cũng cho thấy ở đây, vị trí của Đài Tiếng nói
Việt Nam trong việc phục vụ thính giả Nam bộ cũng đƣợc khẳng định khi
đáp ứng đƣợc nhu cầu của 42,8% lƣợng ngƣời nghe đài thông qua các
kênh sóng đã đƣợc khu biệt về nội dung thông tin và đối tƣợng thính giả
của mình.
181
nguon tai.lieu . vn