Xem mẫu

  1. TỤC NGỮ CẢI BIÊN TRÊN BÁO CHÍ - ĐẶC DIỂM NỘI DUNG VÀ HÌNH THỨC NGUYỄN THỊ DIỆU HẰNG Khoa Ngữ văn 1. MỞ ĐẦU Tục ngữ cải biên trên báo là vấn đề hết sức mới mẻ, chúng vừa mang đặc thù của văn học dân gian và mang tính thông tin thời sự của báo chí. Nghiên cứu tục ngữ cải biên trên báo là nhằm nêu lên những vai trò, tác dụng của chúng trong thời đại mới – Thời đại mà thông tin liên lạc phát triển mạnh mẽ và nhu cầu tinh thần của con người đòi hỏi ngày càng cao hơn. Dù chỉ là một câu nói ngắn gọn, hàm súc, hay là một bài ca có vần điệu, những sáng tác cải biên vẫn truyền tải được một lượng thông tin rộng lớn, mang tính thời sự rõ rệt. Sự tồn tại và phát triển của tục ngữ cải biên trên báo là một hiện tượng tất yếu. Trên cơ sở nắm bắt những hoạt động thực tiễn của xã hội, người sáng tác nói chung và nhà báo nói riêng đã vận dụng tri thức của mình để sửa đổi, biên soạn những câu tục ngữ có sẵn trong dân gian thành những câu tục ngữ mới - tục ngữ cải biên. Bài viết này phân tích, đánh giá nội dung và hình thức của những sáng tác cải biên, đồng thời nêu lên vai trò, chức năng của chúng trên báo chí. 2. TỤC NGỮ CẢI BIÊN TRÊN BÁO CHÍ 2.1. Tục ngữ là một thể loại văn học dân gian mà chức năng chủ yếu là đúc rút kinh nghiệm, tri thức dưới hình thức những câu nói ngắn gọn, súc tích, giàu vần điệu, hình ảnh, dễ nhớ, dễ truyền. Ví dụ: Tre già măng mọc; Gần mực thì đen, gần đèn thì sáng; Tiên học lễ, hậu học văn... Tục ngữ cải biên là khái niệm hoàn toàn mới lạ, một câu tục ngữ được gọi là tục ngữ cải biên khi so sánh với tục ngữ truyền thống nó đã được sửa đổi ít nhiều. Ví dụ: Ăn cổ đi trước, lội nước đi sau được cải biên thành: Tiền bạc đi trước, thề ước đi sau. Đề tài của tục ngữ cải biên diễn ra theo chiều hướng thay đổi của bức tranh hiện thực cuộc sống, người sáng tạo phải nắm bắt hiện thực đời sống một cách nhanh chóng, phát hiện và lựa chọn những mảng hiện thực tiêu biểu, nổi bật để tạo thành câu tục ngữ mới phù hợp với cuộc sống hiện tại. Tục ngữ cải biên bước đầu tổng hợp, khái quát tri thức, kinh nghiệm của những lớp người mới thời hiện đại với chức năng chủ yếu là hướng đến phê phán, giễu nhại, giải trí. Lực lượng sáng tác của tục ngữ cải biên phong phú hơn và đặc biệt có sự hiện diện và tham gia tích cực của đội ngũ tri thức: các nhà giáo, nhà báo, kĩ sư, bác sĩ, sinh viên, học sinh, bộ đội, công nhân… Họ là những người có học và họ nhận thức được giá trị thẩm mĩ cũng như chức năng của thể loại văn học này nên tích cực sáng tác nó để phục vụ cho cuộc sống và công việc của chính mình; Phương thức lưu truyền của tục ngữ cải biên được rộng mở thông qua nhiều kênh thông tin với hình thức trực tiếp và gián tiếp. Rất nhiều các nhà báo đã đưa tục ngữ vào các bài báo để trang viết của mình có chiều sâu và truyền cảm. Kỷ yếu Hội nghị Khoa học Sinh viên năm học 2014-2015 Trường Đại học Sư phạm Huế, tháng 12/2014: tr. 124-132
  2. TỤC NGỮ CẢI BIÊN TRÊN BÁO CHÍ, ĐẶC ĐIỂM NỘI DUNG VÀ HÌNH THỨC 125 2.2. Nội dung thể hiện của tục ngữ cải biên trên báo chí bao gồm những nội dung chính sau đây: Cải biên để đúc kết tri thức, kinh nghiệm sống và phản ánh những mối quan hệ, cung cách ứng xử của người Việt thời hiện đại; Cải biên để phản ánh diện mạo của cuộc sống và con người trong thời đại mới; Cải biên để phê phán những thói hư tật xấu của người Việt thời hiện đại. Hình thức thể hiện của các sáng tác cải biên nhằm làm phong phú và đa dạng nội dung trên là: hình thức thay thế từ ngữ; hình thức bổ sung từ ngữ; hình thức vừa thay thế vừa bổ sung từ ngữ; hình thức vần – nhịp và hình thức đối xứng. Sau đây tôi sẽ làm rõ về nội dung và hình thức của tục ngữ cải biên trên báo chí. Cải biên để đúc kết tri thức, kinh nghiệm sống và phản ánh những mối quan hệ, cung cách ứng xử của người Việt thời hiện đại. Trong nội dung này tục ngữ cải biên nhằm phản ánh ba mối quan hệ là: quan hệ con người với thiên nhiên, quan hệ với gia đình và quan hệ với xã hội. Thứ nhất, người thời nay bên cạnh việc kế thừa những tri thức trong tục ngữ cổ để ứng phó với tự nhiên họ còn thể hiện rõ sự chủ động trong việc cải tạo và chinh phục tự nhiên như “Tranh thủ trời nắng, chiến thắng trời mưa, gặt trưa đập tối”. Những người nông dân thời nay không chỉ “Trông trời, trông đất, trông mây” một cách thụ động mà ý thức rõ sự tích cực can thiệp tự nhiên để làm nên những vụ mùa bội thu “Nghiêng đồng đổ nước ra sông” hay “Vắt đất ra nước, thay trời làm mưa”. Do kinh tế phát triển đa nghành làm cho nguồn tài nguyên thiên nhiên ngày càng khai thác nhiều hơn, tự nhiên bị xâm hại và con người đã nhận ra việc can thiệp tự nhiên một cách bừa bãi dẫn đến hủy diệt môi trường sống của chính mình. Chính vì vậy cần phải gióng lên hồi chuông cảnh tỉnh ý thức bảo vệ môi trường “Dùng mìn đánh cá là má huỷ diệt tài nguyên” hay “Chặt phá cây xanh là anh của bão bùng hạn hán”; “Trên đồng cạn dưới đồng sâu, Thuỷ điện xả lũ đâu đâu cũng tràn”. Thứ hai, trong mối quan hệ với gia đình, nếu trước đây trong tục ngữ, ca dao cổ truyền ta bắt gặp nhiều những lời than của người phụ nữ thì thời hiện đại có nhiều câu là tiếng nói của cánh đàn ông cất lên lời than phiền khi bị áp đảo “Ra đường sợ nhất công nông, về nhà sợ nhất vợ không nói gì”. Vấn đề vật chất trong mối quan hệ vợ chồng của xã hội hiện đại được tục ngữ cải biên phản ánh khá nhiều, nếu trước kia “Đi đâu cho thiếp đi cùng, đói no thiếp chịu, lạnh lùng thiếp cam” thì giờ đây được cải biên thành “Đi đâu cho thiếp đi cùng, no thì thiếp ở lạnh lùng thiếp bye”. Vấn đề tiền bạc được đặt ra trước các cuộc hôn nhân “Má ơi cứ gả con xa, để con còn có đôla gửi về”. Thậm chí vật chất được đặt ra như một vấn đề trọng điểm của hôn nhân: “Lấy vợ xem tông, lấy chồng xem quốc tịch” hay “Lấy vợ xem tông, lấy chồng xem lí lịch”. Thứ ba, sau năm 1975 đến nay kinh tế - xã hội có sự biến chuyển, đổi mới theo kinh tế thị trường, đất nước mở cửa có nhiều biến động vì vậy mối quan hệ xã hội có sự thay đổi. Ta thấy có những biểu hiện tiêu cực, tha hoá ở một số bộ phận cán bộ lãnh đạo và tục ngữ cũng đã phản ánh kịp thời. Tục ngữ cải biên hiện đại đã phản ánh những mối quan hệ mới giữa con người với con người trong cuộc sống ngày nay với những phương châm xử thế thay đổi so với truyền thống đó là ngày nay ở một bộ phận không nhỏ các mối quan hệ của con người thường trú trọng đến vật chất “Đầu tiên, tiền đâu”...Khi đời sống phát triển, những nhu cầu cá nhân được để ý nhiều hơn cũng là lúc đồng tiền phát huy vai trò của nó trong việc điều tiết các mối quan hệ xã hội. Người xưa cho rằng “Một điều nhịn là chín điều lành” còn ngày nay là “Một điều nhịn
  3. 126 NGUYỄN THỊ DIỆU HẰNG là chín điều nhục”. Với bộ phận người khác trong xã hội thì ý chí chiến đấu và tinh thần đấu tranh bị đẩy lùi, tâm lí và lối sống của họ có xu hướng “an phận thủ thường” họ cho rằng “Đấu tranh là tránh đâu” hay “Lời nói thẳng hay mất lòng, lưng cong thường được việc”. Tục ngữ cải biên cũng đã phản ánh lối sống của thế hệ trẻ ngày nay. Nếu xưa người Việt xem trọng cách ứng xử ý tứ, tế nhị “Ăn trông nồi, ngồi trông hướng” thì ngày nay lối cuộc sống thực dụng, xô bồ đã đi vào cả trong tục ngữ “Ăn trông nồi, ngồi trông ghế”. Có lẽ vì vậy mà những câu tục ngữ có vẻ nôm na hơn, lối nói không còn bóng bảy, nhiều nghĩa hàm ẩn như trước mà trực tiếp, thẳng thắng hơn. Cải biên để phản ánh diện mạo của cuộc sống và con người trong thời đại mới. Thời hiện đại ý thức cá nhân của con người có điều kiện phát triển nhất là trong thời bình, cuộc sống đơn giản, gọn nhẹ hơn và nhu cầu về sự đòi hỏi của cá nhân ngày càng lớn khiến cho nhu cầu sinh hoạt, sự phân biệt giàu nghèo ngày càng lớn, không ít người bị tha hoá… Hình ảnh những con người của thời đại được khắc hoạ với diện mạo mới “Đầu nồi hông, mông di động”, “Ti vi, tủ lạnh, honđa, thiếu ba thứ ấy không ra con người”. Tục ngữ hướng đến phản ánh những vấn đề nhức nhối của xã hội “Dự án đến đâu, cò bâu đến đó”, “Ruộng đất bề bề không bằng nghề bán nước bọt”. Hiện nay đang nảy sinh tình trạng chạy theo bằng cấp vì thực tế tuyển dụng có bằng cấp mới xin được việc làm, bằng cấp là một sự đảm bảo cho tương lai tốt đẹp. Con đường học hành thi cử được nhiều người lựa chọn như một cứu cánh “Bàn ơi thương lấy ghế cùng, tới mùa thi cử là chung cực hình”, “Muốn sang sông thì bắc cầu Kiều, muốn con hay chữ phải tiêu khối tiền”. Điều này dẫn đến tình trạng thừa thầy, thiếu thợ trong xã hội hiện nay. Trong tục ngữ cổ truyền ta thấy người xưa xem trọng vẻ đẹp tâm hồn, nhân cách hơn hình thức bề ngoài “Cái nết đánh chết cái đẹp” nhiều khi cho rằng hình thức đẹp còn là sự tiềm ẩn của hiểm hoạ “Hồng nhan bạc phận” nhưng thời hiện đại với rất nhiều các cuộc thi sắc đẹp được tổ chức người ta nhận ra “Hồng nhan bạc triệu”, sự chỉnh trang sắc đẹp sẽ đem lại cho con người mà nhất là người phụ nữ những cơ hội và cuộc sống tốt đẹp “Có công mài “sắc” có ngày nên “tiên”, cái đẹp hình thức thậm chí còn được tôn vinh hơn cả cái đẹp về tri thức, sự hiểu biết, trí tuệ “Thủ khoa thua xa hoa hậu”. Thời hiện đại các tác giả dân gian ngoài mục đích sáng tác tục ngữ để phản ánh những hiện thực và bức xúc của thời đại, tổng kết tri thức, lối sống mà còn sáng tác tục ngữ để nhằm mục đích giải trí, giảm căng thẳng, stress. Đây cũng là một nhu cầu rất mới mẻ, một chức năng mới của thể loại văn học dân gian này. Nhiều câu tục ngữ mang tính chất hài hước, dí dỏm thường được đưa lên để đọc cho vui, giảm căng thẳng sau những giờ làm việc và nó được rất nhiều người tán đồng như “Trăm năm bia đá thì mòn, Bia mời uống đã vẫn còn tỉnh queo”; “Cá không ăn muối cá ươn, Gà đem hấp muối nhậu thường tốn bia”; “Muốn sang thì bắc cầu kiều, muốn đưa cay rượu thì kêu tỏi gà”; “Một cây làm chẳng nên non; Gặp không tán gẫu còn gì là vui”. Nhu cầu giải trí đang được đặt ra như một vấn đề cấp thiết trong xã hội, nhiều ý kiến cho rằng việc sáng tác các câu tục ngữ cải biên là một cách giải trí lành mạnh. Có lẽ vì vậy mà trên các báo in, báo mạng hiện nay đã có mở những chuyên mục này như báo Tuổi trẻ cười, Dân trí... Tục ngữ cải biên để phê phán những thói hư tật xấu của người Việt thời hiện đại là một nội dung tiêu biểu và nổi bật nhất, nó khái quát nhanh chóng những thói hư tật xấu
  4. TỤC NGỮ CẢI BIÊN TRÊN BÁO CHÍ, ĐẶC ĐIỂM NỘI DUNG VÀ HÌNH THỨC 127 trong xã hội để phê phán và tố cáo một cách mạnh mẽ, điều này cũng cho thấy tục ngữ cải biên đã phát huy vai trò trong việc phê phán để con người tự nhận thức và điều chỉnh lối sống, cách ứng xử. Tục ngữ cải biên chỉ rõ cái xấu trong xã hội luôn rình rập muốn kéo con người ra khỏi nền tảng đạo đức truyền thống. Cái xấu xuất hiện trong mọi khía cạnh của đời sống, ở nhiều phạm vi, lứa tuổi, cung bậc, mức độ khác nhau và tục ngữ cải biên được viết ra để phản ánh các khía cạnh như: phản ánh các hiện tượng tiêu cực, tệ nạn xã hội ở tầng lớp lãnh đạo, quản lí; Các hiện tượng tiêu cực, tệ nạn xã hội trong tầng lớp nhân dân; Giáo dục ý thức pháp luật và văn hóa ứng xử của con người. Một trong những vấn đề gây bức xúc đối với nhân dân đó là lề lối làm việc của các cán bộ viên chức nhà nước nhiêu khê, phách lối “Hành chính, hành là chính”, “Làm láo, báo cáo hay”. Hơn đâu hết tục ngữ cải biên phê phán một cách mạnh mẽ tệ nạn “phong bì”, thật đáng buồn tệ nạn này đang trở thành một xu hướng của xã hội hiện nay, nó lũng đoạn và chi phối các mối quan hệ xã hội. Nó hiện hình sau các buổi họp hành “Liên hoan là em hội nghị, hội nghị là chị phong bì”. Những người có chức, có quyền nắm cương vị lãnh đạo ở các cơ quan mà theo cách gọi của dân gian thì đó là những ông quan tham vơ vét của cải của nhân dân để về làm giàu cho bản thân, thậm chí chèn ép nhân dân để tư lợi cho mình. Tất nhiên đây chỉ là bộ phận nhỏ nhưng cũng rất đáng nêu ra và lên án. Hình ảnh những ông quan tham đã được khắc hoạ với diện mạo và cung cách đặc trưng “Bụng to, đầu hói, nói chung chung”, “Giầy đen, giầy nâu đến đâu cũng phá”. Những sáng tác cải biên không chỉ phản ánh mà còn lên tiếng cảnh tỉnh, chỉ cho các vị quan tham thấy hậu hoạ để tự “sửa mình” “Tham ô đi trước, tù ruớc theo sau”, “Quan ơi nhớ lấy câu này, có công đeo nhẫn, có ngày rước gông”. Những tệ nạn đó còn là “Cả năm tiền lương không bằng một lần “thương” sếp”, “Quà biếu đâu phải thứ đùa, lựa quà mà biếu cho vừa lòng quan”. Sự phê phán, đả kích nhiều lúc được đẩy lên cao độ nhằm lên tiếng cảnh báo một thực trạng sổ sàng và thể hiện rõ sự đả phá của những sáng tác cải biên: “Qủy công mà biết đánh đòn, bọn quan tham nhũng chẳng còn cái mông”, “Cha chung không ai khóc, nhưng tài sản chung nhiều người ham “móc”. Để nhìn nhận rõ hơn diện mạo của họ, các sáng tác cải biên còn phản ánh thái độ sống cơ hội, chủ nghĩa thực dụng, làm ăn bất chính… tồn tại nhan nhản trong xã hội “Vụng ăn thì nghèo, vụng trèo lâu lên chức”, “Gần mực thì đen, gần đèn thì rạng/ Xa sếp thì nạn, xa bạn… vô tư”; “Nhất cận thị, nhì cận sơn, muốn đẹp hơn… cận sếp”; “Lưng có cúi, túi mới nặng”. Ngày xưa, ông cha ta đúc kết được nhiều kinh nghiệm sống hết sức quý báu như: “Lạc nhà nắm đuôi chó, lạc ngỏ nắm đuôi trâu”, hay “Ăn trông nồi, ngồi trong hướng”… Ngày nay cũng là những kinh nghiệm ấy, nhưng lại được đúc kết bởi những con người cơ hội. Nó được những sáng tác cải biên đề cập đến nhằm hàm ý giáo dục mọi người hạn chế các tệ nạn xã hội, các việc làm đáng chê trách: “Lạc nhà theo chó, lạc ngõ theo trâu, lạc… cửa hậu theo… sếp”; Ăn trông “nồi”, ngồi trông “ghế”, bế trông… “ô dù”; “Trồng khoai lấy củ, làm “thủ” lấy bổng lộc”. Nhiều lúc, chân dung của kẻ tham ô được phác họa một cách rõ nét, nó vừa mang tính xác thực, vừa mang tính hình tượng, tạo nên tính giáo dục rất cao mà vẫn giữ được tính hài hước, trào lộng của dân gian: “Lúa tốt vì phân, tăng cân nhờ… lên chức”. Những sáng tác cải biên là hồi chuông cảnh báo cho toàn xã hội, cho bọn quan tham và cho mọi người. Tha hóa, lộng quyền, cơ hội, tham nhũng… rồi chúng cũng nhận một kết quả tương xứng, họ
  5. 128 NGUYỄN THỊ DIỆU HẰNG không thể tránh khỏi vòng vây của pháp luật: “Lạc nhà theo chó, lạc ngõ theo trâu/ Đục khoét sâu nắm vành móng ngựa”; “Mạnh về gạo, bạo về dù, đến khi sa cơ cũng tù mù mút chỉ”. Cho dù có nhiều thủ đoạn, mánh khóe nhưng rồi họ cũng cùng chung số phận: “Lòng vả cũng như lòng sung, những kẻ tham nhũng cùng chung nhà tù”; “Ăn chia thì mày còn sống, ngốn cả đống thì chết”. Nguyên nhân đưa họ vào vòng lao lý thì đã quá rõ, có khi xuất phát từ chính bản chất xấu xa, tác phong làm việc của họ: “Làm kiếp trâu ăn cỏ, làm kiếp chó ăn dơ, làm sổ sách mập mờ, ăn…còng số tám”; “Vòi vĩnh là bệnh quan tham, chỉ mỗi nhà giam là nơi điều trị”. Có khi sự sai trái đó không phải tự nhiên chúng gây ra mà do bị chi phối bởi nhiều yếu tố hoặc thái độ trông chờ ỷ lại: “Lệnh ông không bằng cồng bà/ Vợ vẫn nhận quà, chồng giả vờ không biết”; “Một người làm quan cả họ được nhờ, Cháu làm phất phơ chú cho suất đất”; “Đói ăn rau, đau uống thuốc, muốn “nuốt” cậy ô dù”. Đôi lúc những sáng tác cải biên là lời mỉa mai, nhắc nhở, cảnh báo: “Tham nhũng mà có ô dù, mức phạt nặng nhất là tù án treo”. Những người làm công việc quản lý, lãnh đạo là lực lượng tiêu biểu, tiên phong trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội. Sự tha hóa, biến chất của những con người đó gây hậu quả vô cùng nguy hiểm cho sự phát triển, phồn vinh của đất nước. Những năm qua Đảng và nhà nước đã có nhiều chủ trương và chính sách chống tiêu cực, tham nhũng… trong đó báo chí là một trong những lực lượng đi đầu và là vũ khí sắc bén trên mặt trận chống tiêu cực, kết quả đạt được của hoạt động báo chí là vô cùng to lớn. Trong đó, có sự đóng góp không nhỏ của những sáng tác cải biên như vừa kể trên. Ngoài việc phê phán các hiện tượng trong tầng lớp lãnh đạo, quản lý các sáng tác cải biên còn phê phán các hiện tượng tiêu cực, tệ nạn xã hội trong tầng lớp nhân dân: các tệ nạn xã hội nảy sinh trên diện rộng của tất cả mọi lĩnh vực trong đời sống, đó có thể là sự lệch lạc về tư tưởng, thái độ, lối sống… có thể là những biểu hiện sai trái trong từng hành vi, hành động cụ thể, tệ nạn xã hội như: cờ bạc, nghiện ngập, trai gái… tất cả những điều đó đã được những sáng tác cải biên chĩa mũi nhọn để phản ánh, đề cập đến. Tính chất khuyên răn, giáo huấn của tục ngữ thể hiện rất rõ ở lĩnh vực này “Máu me ăn nhậu là cậu của kí nợ khắp làng, trác táng dâm ô là cô của phụ tình bội nghĩa, phung phí xa hoa là cha tham ô, buôn lậu”; “Gần mực thì bia, gần đèn thì thuốc”. Thời hậu hiện đại con người theo nhịp sống công nghiệp thu mình trong ốc đảo cá nhân, một hiện tượng nổi bật mà tục ngữ cải biên cũng hướng đến để phê phán, đả kích đó là lối sống “vô cảm” thường được mọi người gọi là “bệnh vô cảm”. Người Việt từ xưa luôn đề cao sự tương thân tương ái “Lá lành đùm lá rách”, “Một con ngựa đau cả tàu bỏ cỏ” và phê phán những kẻ “Cháy nhà hàng xóm bình chân như vại”. Và tục ngữ cải biên cũng phản đối lối sống ích kỉ của con người “Một con ngựa đau cả tàu thêm phần cỏ”. Sự thờ ơ trước nỗi đau khổ, sự bất hạnh của người khác cũng là điều đáng để lên án, nhẫn tâm hơn nữa lại là sự dửng dưng coi nỗi buồn của người khác là niềm vui, hạnh phúc của mình thì lại là điều không thể chấp nhận được. Một thời gian dài các phương tiện truyền thông đại chúng đã lên tiếng cảnh báo về hiện tượng ăn chơi, nhậu nhẹt ở nước ta. Lúc bấy giờ thường có những câu nói ví von để mỉa mai tệ nạn này: “Nhà nhà cùng nhậu, người người cùng nhậu”. Hậu quả của tệ nạn này rất nghiêm trọng, gây lãng phí tiền của của con người, đây cũng là lúc để những sáng tác cải biên đề cập đến với tinh thần rất cao. Đây không chỉ là những lời đàm tiếu, nhắc nhở nhẹ nhàng: “Bia miệng để đời, bia hơi để uống”, “Bia đá thì
  6. TỤC NGỮ CẢI BIÊN TRÊN BÁO CHÍ, ĐẶC ĐIỂM NỘI DUNG VÀ HÌNH THỨC 129 mòn, bia lon thì đắt” mà còn là sự nhắc nhở, kêu gọi mọi người hãy cẩn thận chớ sa vào con đường đó. Khi tệ nạn này đã lên đến cao trào thì những sáng tác cải biên không còn là sự nhắc nhở nhẹ nhàng mà đã là sự phê phán, châm biếm mạnh mẽ. Những sáng tác cải biên trên báo đã vận dụng những câu nói quen thuộc trong dân gian pha vào yếu tố trào lộng lại tạo thêm sức mạnh thông tin của báo chí, từ đó góp phần không nhỏ vào việc tuyên tuyền, ngăn chặn những căn bệnh trầm kha của xã hội. Một tệ nạn khác cũng không kém phần nguy hiểm được những tục ngữ cải biên phản ảnh đến, đó là nạn nghiện ngập, hút chích, ý thức được điều này tác giả đã vận dụng được tính dễ đọc, dễ nhớ và tính truyền miệng của tục ngữ, ca dao để ra lời kêu gọi: “Thóc đâu mà đãi gà rừng, tiền cho nghiện hút xin đừng tiếp tay”. Tác hại ghê gớm của tệ nạn này tàn phá con người về thể chất, tinh thần, làm mất đi phẩm chất đạo đức tốt đẹp vốn có, từ đó làm đổ vỡ nhiều mối quan hệ trong gia đình, xã hội: “Tham ô luồn cửa hậu, buôn lậu vượt cửa biên, chích tiêm vào cửa tử”. Những sáng tác cải biên phần nào đã phản ánh mạnh mẽ những hiện tượng đó nhằm lên tiếng cảnh báo cho mọi người, cho xã hội, kêu gọi mọi người hãy góp phần vào việc bài trừ những tệ nạn xã hội đó để làm trong sạch môi trường văn hóa, giáo dục… của nước nhà. Những sáng tác cải biên ta thường gặp trên báo còn phản ánh nạn mánh khóe, gian lận trong việc buôn bán, họ bất chấp cả nhân cách, đạo lý để làm giàu “Hàng giả bán bừa bãi, thuốc rởm nhái y chang, tiền mất tật mang mua hàng về vứt xó”. Những sáng tác cải biên đã mạnh mẽ đả kích những việc làm sai trái để góp phần định hướng, giáo dục con người ngày càng hoàn thiện hơn và hướng họ đi đến lối sống chân, thiện, mĩ. Giáo dục ý thức pháp luật và văn hóa ứng xử của con người là một nội dung không thể thiếu của tục ngữ cải biên, dù không “đao to búa lớn” nhưng nó cũng nhằm hướng con người đến chân lý, phù hợp với đạo lý dân tộc. Đó là những lời kêu gọi, thúc đẩy mọi người hướng đến lối sống lành mạnh, trong sáng để gia đình ngày càng ấm no, hạnh phúc, xã hội ngày càng công bằng văn minh: “Mật ngọt càng tổ chết ruồi, những nơi cay đắng là nơi thật thà, nghiện hút cờ bạc tránh xa, lao động, tiết kiệm mới là người ngoan”; “Ai ơi giữ chí cho bền, dù ai xoay hướng đổi nền mặc ai, dân đoàn kết trọng nhân tài, đầu tư phát triển trong ngoài vững tin”. Chúng ta thấy nội dung phản ánh của tục ngữ cải biên phong phú đa dạng vì nó được sinh tồn trong thời đại đa màu và giàu âm sắc. Trong bức tranh hiện thực cuộc sống mà tục ngữ cải biên phản ánh có những chỗ mảng màu mờ nhạt đi nhưng cũng có những chỗ được tô đậm hơn so với tục ngữ cổ truyền vì mỗi thời đại hiện thực cuộc sống có những đổi thay khác nhau. Tục ngữ đã bám sát hiện thực và có sự phản ánh, đúc kết một cách tự nhiên, sinh động từ đó ta hình dung được cuộc sống, nếp cảm, nếp nghĩ, tư duy, nhận thức của người Việt thời hiện đại để đi đến giá trị “Chân- thiện- mĩ”. 2.3. Hình thức thay thế từ ngữ là hình thức cho phép tác giả có thể tự lựa chọn ngôn từ để thay thế cho phù hợp với nội dung cần phản ánh. Hình thức này đòi hỏi một khả năng tư duy cao đối với người sáng tác lẫn người tiếp nhận. Có thể hình dung điều này qua một số dạng cụ thể sau: Dạng thứ nhất, thay thế một vài từ ngữ ở vế sau cho phù hợp với nội dung cải biên để hình thành câu tục ngữ với nội dung hoàn toàn mới, ví dụ: “Ăn trông nồi, ngồi trông hướng” được cải biên thành: “Ăn trông nồi, ngồi trông ghế”; “Ruộng đất bề bề, không bằng cái nghề trong tay” được cải biên thành: “Ruộng đất bề
  7. 130 NGUYỄN THỊ DIỆU HẰNG bề, không bằng cái nghề cò đất”. Dạng thứ hai, thay thế một vài từ ngữ ở cả hai vế. Ví dụ,“Khéo ăn thì no, khéo co thì ấm” được cải biên thành “Khéo nịnh thì giàu, khéo bò thì ấm ghế”. Dạng thứ ba, thay đổi cả vế, thường là vế sau. Hình thức này hầu như không làm thay đổi cấu tạo vốn có của câu tục ngữ gốc, nhưng về nội dung đã đổi khác “Thuốc đắng giã tật, nói thật mất lòng” được cải biên thành “Thuốc đắng giã tật, lời thật phật ý cấp trên”. Hình thức thay thế tục ngữ là một hình thức cải biên được vận dụng khá nhiều, do chúng có phần đơn giản, dể sử dụng. Hình thức bổ sung từ ngữ được sử dụng phổ biến trong các sáng tác cải biên. Tác giả sử dụng nguyên mẫu của một câu tục ngữ gốc được đúc kết của người xưa để lồng vào đó một thực trạng ngày nay. Lúc này nội dung của câu tục ngữ đã được biên đổi ngược lại, nếu khi xưa là một kinh nghiệm đáng trân trọng, thì ngày nay là thực trạng xấu, cần lên án. Dựa trên nguyên mẫu câu tục ngữ gốc, có các hình thức thêm từ sau: Thứ nhất, tác giả bổ sung vào đó một từ hoặc một số từ tạo nên một sáng tác cải biên. Thứ hai, tác giả thêm một vế liền sau câu tục ngữ gốc. Ví dụ: “Cha chung không ai khóc” được cải biên thành “Cha chung không ai khóc, nhưng tài sản chung thì nhiều người…ham móc”. Cũng hình thức này, nhưng tác giả không chỉ bổ sung một vế mà bổ sung vào đó cả một vế riêng biệt, mang tính độc lập tương đối. Ví dụ: “Làm kiếp trâu ăn cỏ, làm kiếp chó ăn dơ” khi được cải biên vẫn giữ nguyên câu tục ngữ đó và bổ sung thêm câu: “Làm sổ sách mập mờ, ăn…còng số tám”. Ở những ví dụ trên, có thể dễ dàng nhận thấy cách gieo vần, ngữ điệu rất gần với những quy cách bắt buộc trong ca dao. Đây là hiện tượng phổ biến mà ta hay bắt gặp ở những sáng tác cải biên. Từ đây có thể nhận ra một điều rằng: “Với các sáng tác cải biên ranh giới giữa tục ngữ và ca dao thông thường được xác định rõ ràng, nhiều lúc đã có sự giao thoa giữa chúng”. Chẳng hạn, một sáng tác cải biên, về nội dung thì mang đặc thù của tục ngữ, nhưng về hình thức, âm điệu thì lại mang dáng dấp của ca dao. Hình thức cải biên vừa thay thế từ ngữ, thay vế, vừa thêm từ, thêm vế là một hình thức cho thấy sự biến hóa linh hoạt của những sáng tác cải biên. Hình thức này làm biến đổi hoàn toàn cấu tạo lẫn nội dung của câu tục ngữ gốc. Ví dụ: “Muốn vu oan làm quan mà nói” được cải biên thành “Muốn vu oan làm kẻ gian mà nói, muốn phán giỏi làm thầy bói mà trừ yêu”. Đôi lúc, những sáng tác cải biên chỉ dựa vào tính quy luật của những câu tục ngữ gốc để tạo thành những văn bản mới. Ví dụ, “Con kiến mà kiện củ khoai” được cải biên thành “Con kiến mà kiện củ khoai, kiện trên, kiện dưới, kiện ai bây giờ”. Dựa trên yếu tố vần, nhịp của tục ngữ truyền thống, những người sáng tác đã sử dụng rất nhiều hình thức để sửa đổi, biên soạn lại thành tục ngữ cải biên. Trong những sáng tác cải biên có nhiều văn bản được gieo vần như: “Ăn trông nồi, ngồi trông quà cáp”. Trong tục ngữ dân gian có những câu mang vần lưng cách, nghĩa là vần được gieo trong vế thứ hai cách một, hai…âm tiết so với vế đầu, ví dụ “Trồng khoai lấy củ, làm thủ lấy bổng lộc”, “Có bố làm to, không lo thi rớt”. Cũng hình thức này nhưng vần được gieo ở vế sau cách ba, bốn, năm âm tiết so với vế đầu, ví dụ “Qũy công mà biết đánh đòn, bọn quan tham nhũng chẳng còn cái mông”. Nhịp điệu của tục ngữ cải biên có thể xuất hiện giữa những vế có số âm tiết không đều nhau: “Nói ít làm nhiều, không bằng nói điêu
  8. TỤC NGỮ CẢI BIÊN TRÊN BÁO CHÍ, ĐẶC ĐIỂM NỘI DUNG VÀ HÌNH THỨC 131 làm ít” và các vế có số âm tiết đều nhau như “Xong việc, tiệc bày ra, khách ba, chủ nhà bảy”. Tóm lại, yếu tố vần – nhịp trong những sáng tác cải biên như là chất keo gắn chặt các thành phần trong câu thành những phần vững chắc, vừa tạo nên tính ổn định về nội dung vừa kết tinh được một số đặc trưng tiêu biểu trong lối nói của nhân dân ta. Trong những văn bản cải biên tác giả đã sáng tác rất nhiều câu cân đối, hài hòa về từ ngữ, ý nghĩa, thanh điệu tạo cho người đọc cảm giác dễ tiếp nhận và tăng hiệu quả chức năng thông tin. Hình thức này đòi hỏi tác giả phải chuẩn xác, tinh tế trong cách chọn lọc ngôn từ, cách gieo vần sao cho âm, ý phù hợp với nhau, lúc đó mới tạo sự cân xứng giữa câu trên với câu dưới, vế trên với vế dưới. Có rất nhiều dạng đối xứng khác nhau của những sáng tác cải biên, ví dụ: “Ăn cổ đi trước, lội nước theo sau” trong sáng tác cải biên có câu: “Tiền bạc đi, trước thề ước đi sau”. Qua ví dụ trên ta thấy từ ngữ, ý nghĩa, vần điệu của hai câu đó hoàn toàn đối xứng với nhau rõ ràng tác giả đã dựa vào câu tục ngữ truyền thống để cải biên thành sáng tác của mình dựa trên hình thức đối xứng. Như vậy, những sáng tác cải biên dù được xây dựng bởi một hình thức nào đi chăng nữa thì đó đều là một quá trình tìm tòi, quan sát, phân tích của người sáng tác. 3. KẾT LUẬN Ra đời trong thời đại mới gắn với hoàn cảnh lịch sử xã hội có nhiều thay đổi, tục ngữ cải biên là tấm gương phản chiếu hiện thực sinh động và biến động của xã hội trong mấy thập kỉ qua. Để hoàn thành sứ mệnh của mình tục ngữ không chỉ có sự đổi mới trên phương diện nội dung mà còn đổi mới cả về thi pháp nghệ thuật. Tục ngữ luôn hướng đến những mảng hiện thực phong phú của cuộc sống để phản ánh bức tranh hiện thực xã hội, nhấn mạnh tính phê phán, giễu nhại, giáo dục ý thức và giải trí. Tục ngữ cải biên trên báo chí đã kế thừa những đặc điểm nghệ thuật của tục ngữ cổ truyền như cách nói vần vè, tính đối xứng, nhịp nhàng, gọn, chắc nên dễ đi vào lòng người, tạo hiệu ứng và có sức lan toả nhanh chóng trong xã hội bởi tính dễ thuộc, dễ nhớ. Để thể hiện nội dung phản ánh đó tục ngữ cải biên còn được thể hiện bởi các hình thức nghệ thuật như: thay từ, thay vế, bổ sung từ, bổ sung vế, nhịp – vần và đối xứng. Trên đây là những kết quả cụ thể mà bài viết đã trình bày. Hy vọng đề tài này sẽ được tiếp tục đi sâu nghiên cứu thêm, tiếp tục khẳng định thêm những giá trị của tục ngữ ra đời trong thời mới, nhất là thời đại mà chức năng thông tin, báo chí đang trên đà phát triển. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] Trần Thị An (2000). Tổng tập văn học dân gian các dân tộc thiểu số Việt Nam, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội. [2] Chu Xuân Diên (1975). Tục ngữ Việt nam, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội. [3] Chu Xuân Diên, Lương Văn Đang, Phương Tri (1975). Tục ngữ Việt Nam, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội. [4] Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (1992). Từ điển thuật ngữ văn học, NXB Giáo dục. [5] Lê Công Tuấn (2005). “Về hiện tượng "cải biên" hay chơi chữ trong tục ngữ”, Tạp chí Ngôn ngữ và đời sống, Số (09).
  9. 132 NGUYỄN THỊ DIỆU HẰNG [6] Trần Thị Trâm (2006). “Sử dụng thành ngữ, tục ngữ trong sáng tạo tác phẩm báo chí”, Tạp chí Người làm báo, Hà Nội. [7] Vũ ngọc Phan (1971). Tục ngữ, ca dao, dân ca Việt Nam, NXB Khoa học Xã hội. NGUYỄN THỊ DIỆU HẰNG SV lớp Văn 4B, khoa Ngữ Văn, trường Đại học Sư phạm – Đại học Huế ĐT: 0122 553 9010, Email: Hangdethuong1992@gmail.com
nguon tai.lieu . vn