- Trang Chủ
- Ngôn ngữ học
- Từ việc dịch tác phẩm văn học Nhật Bản, suy nghĩ về việc dạy và học văn học Nhật Bản ở Việt Nam hiện nay
Xem mẫu
- Chin lc ngoi ng trong xu th hi nhp Tháng 11/2014
TỪ VIỆC DỊCH TÁC PHẨM VĂN HỌC NHẬT BẢN,
SUY NGHĨ VỀ VIỆC DẠY VÀ HỌC VĂN HỌC NHẬT BẢN
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
Nguyn Th Oanh
Viện Nghiên cứu Hán Nôm
Tóm t
t: Việc dịch các tác phẩm văn học Nhật Bản ñồng thời là nhà giảng dạy, nghiên cứu văn học Nhật
ở Việt Nam từ năm 1950 cho tới nay ñã có sự phát Bản xuất sắc và sản phẩm dịch của họ chắc chắn sẽ
triển vượt bậc. Nếu trước ñây, việc dịch tác phẩm văn ñáp ứng ñược ñòi hỏi của công chúng và các nhà
học Nhật Bản phải thông qua ngoại ngữ khác như tiếng nghiên cứu, giảng dạy văn học Nhật Bản tại Việt Nam,
Anh, Pháp, Trung… thì ngày nay số lượng các tác góp phần tăng cường sự hiểu biết, giao lưu, hữu nghị
phẩm văn học Nhật Bản ñược dịch từ nguyên gốc tiếng giữa nhân dân hai nước Việt Nam và Nhật Bản.
Nhật ngày một nhiều, song việc ñánh giá chất lượng
Abstract: Since 1950 up to now, the translation of
các bản dịch hầu như chưa ñược chú ý ñúng mức. Các
Japanese literary works in Vietnam has been
nhà nghiên cứu lí luận phê bình văn học dịch nước ta
remarkably developing. While in the past, the
tuy ñã bàn nhiều ñến việc nâng cao chất lượng, hiệu
translation of Japanese literary works into Vietnamese
quả của lý luận, phê bình văn học, nhưng cũng chưa
must apply another bridging language such as English,
ñưa ra ñược khung phương pháp luận cho vấn ñề dịch
French or Chinese,… the number of Japanese literary
thuật và ñánh giá chất lượng bản dịch. Từ việc so sánh
works which are translated directly from the source
bản dịch tiểu thuyết Nỗi lòng, với bản gốc tiếng Nhật
language is increasing. However, the translation quality
tác phẩm Kokoro của nhà văn Natsume Soseki, trên cơ
is still not appropriately assessed. Despite numerous
sở vận dụng lý thuyết phiên dịch của một số nhà
discussion on improving the quality and effectiveness
nghiên cứu văn học phiên dịch trong nước và trên thế
of literary criticism theories, the researchers and
giới, tác giả bài viết ñã ñi sâu phân tích các trường hợp
criticizers in this field can still not set up a legal
sai lệch so với bản gốc và phương án sửa chữa từng
framework for translation and assessment of the
trường hợp cụ thể. Tuy nhiên, mục ñích của tác giả bài
translation quality. By comparing the translation of the
viết không chỉ dừng ở việc nêu ra và sửa chữa những
novel “Noi long” to its original in Japanese named
lỗi sai trong tác phẩm dịch, mà còn hy vọng từ việc so
Kokoro by the writer Natsume Soseki on the base of
sánh này cần suy nghĩ và thảo luận ñể làm sao có
applying translation theories of both home and
nhiều tác phẩm dịch có chất lượng, ñóng góp về cả
international literary translation researchers, the author
nghệ thuật và ngôn ngữ tiếng Việt, từ ñó ñề ra chiến
focuses on analyzing the errors and differences
lược giảng dạy và học tập môn văn học Nhật Bản ở
between the translation and its original and proposing
các trường ñại học ở Việt Nam hiện nay.
corrections for each error. Not only identifying and
Qua bài viết của các tác giả vừa là nhà nghiên cứu correcting the errors of the translation, the author also
Nhật Bản, vừa là giảng viên của các trường ñại học, suppose that it is worth more consideration and
chúng ta có thể thấy rõ hơn tình hình giảng dạy và discussion to improve the translation quality and
nghiên cứu văn học Nhật Bản ở một số trường ñại học contribute both artistic and lingual values to
của Việt Nam hiện nay. Ngoài những biện pháp ñể Vietnamese language. By this way, it helps to propose
khắc phục khó khăn, ñẩy mạnh công tác giáo dục ñào teaching and learning methods of Japanese literature
tạo nhân lực nhằm phát triển ñội ngũ các nhà nghiên in Vietnamese universities nowadays.
cứu, giảng dạy văn học Nhật Bản, cũng cần thiết phải
Through this article of a Japanese researcher and a
xây dựng một chiến lược lâu dài cho việc ñào tạo nhân university lecturer, we can understand more about the
lực nghiên cứu, giảng dạy và dịch văn học Nhật Bản. situation of teaching and researching Japanese
Hy vọng trong tương lai không xa sẽ có nhiều dịch giả literature in several universities in Vietnam at present.
209
- Ti
- u ban 1: Đào to chuyên ng
Besides solutions to recovery difficulties and promote còn trẻ nhưng ñã phát lộ khả năng dịch thuật khá
the education and labor training in order to develop the tốt các tác phẩm văn học Nhật Bản ra tiếng Việt,
force of researchers and lecturers of Japanese như Lương Việt Dũng, Bùi Thị Loan, Hoàng
literature, it is also important to plan a long term Long…
strategy for training a staff of researching, teaching ad
translating Japanese literature. It is expected that in the Vấn ñề dịch thuật văn học Nhật Bản ñã ñược
near future, there are more and more persons who are nhiều nhà nghiên cứu ñi trước ñề cập tới trong
both excellent researchers, lecturers and translators of một số các công trình và các bài viết liên quan ñến
Japanese literature and their translation works will tình hình dịch thuật-nghiên cứu-xuất bản văn học
certainly satisfy the public desires. The researchers Nhật Bản tại Việt Nam và gần ñây nhất là
and lecturers of Japanese literature in Vietnam will Hội nghị Lý luận phê bình văn học lần thứ III –
greatly contribute to the mutual understanding, Nâng cao chất lượng, hiệu quả của lý luận, phê
exchange and friendship between Vietnamese and bình văn học”, ngày 4-5/6/2013 tại thị trấn Tam
Japanese people. Đảo, tỉnh Vĩnh Phúc ñã ñề cập ñến vấn ñề dịch
1. Về hoạt ñộng dịch thuật và phê bình tác thuật bao gồm cả dịch thuật văn học Nhật Bản.
phẩm văn học dịch tiếng Nhật Cho ñến nay, ngoại trừ tác phẩm Truyện Genji do
Nxb. KHXH ấn hành năm 1991 (không ñề tên
Như chúng ta ñã biết, từ năm 1950 cho tới nay,
dịch giả) là tác phẩm bị giới nghiên cứu văn học
cho dù phải thăng trầm qua thời gian, nhưng với
Nhật Bản eo xèo, chê trách là một dịch phẩm
113 ñầu sách xuất bản và 45 tác phẩm ñược dịch
không tốt (nhưng chưa có bài phê bình cụ thể nào),
trên mạng (chủ yếu là tiểu thuyết) cho
còn các tác phẩm dịch khác chưa thấy sự phản hồi
thấy sự phát triển vượt bậc của công việc dịch và
của ñộc giả về trình ñộ dịch thuật cũng như các
xuất bản văn học Nhật Bản tại Việt Nam. Nếu
vấn ñề khác. Cũng có thể nhà phê bình Việt Nam
trước ñây, việc dịch tác phẩm văn học Nhật Bản
chưa hứng thú với việc phê bình, ñánh giá các
phải thông qua ngoại ngữ khác như tiếng Anh,
sách dịch văn học Nhật Bản ở Việt Nam. Hoặc
Pháp, Trung… thì ngày nay số lượng các tác
tâm lí e dè, ngại ñụng chạm khi phải phê bình
phẩm văn học Nhật Bản ñược dịch từ nguyên gốc
cuốn sách dịch nào ñó. Bàn về vấn ñề văn học
tiếng Nhật ngày một nhiều, ngoài một số dịch giả
dịch nói chung, nhà phê bình văn học Phạm Xuân
và nhà nghiên cứu như Nguyễn Thị Oanh dịch
Nguyên cho rằng: “Phê bình dịch thuật văn
Nhật Bản linh dị ký của Keikai (Nxb.Văn học
chương ñang rất cần thiết nhưng hiện nay chưa
1999) và sẽ ra tiếp Tập truyện kể xưa nay
ñược chú ý ñúng mức và chưa ñược chuẩn bị, ñầu
(Konjyakumonogatarishu) (Nxb. KHXH); Trần
tư kỹ càng. Tình hình ñó làm cho thực trạng dịch
Thị Chung Toàn dịch Cái bếp của Yoshimoto
văn chương của ta nhiều khi bị gây nhiễu rối loạn
Banana (Nxb. Đại học quốc gia, 2000) và Vườn
không ñáng có vì những ý kiến quy chụp, phê
hoa trăm sắc của Fujiwarano Sadaie (Nxb. Thế
phán nặng nề từ những sai khác thông thường thay
giới, 2010); Lương Việt Dũng dịch Nhật ký mang
vì trao ñổi, thảo luận trên tinh thần cầu thị cho
thai (Nxb.Văn học, 2009); Giáo sư và công thức
những bản dịch tốt ñem lại cho văn chương Việt
toán (Nxb.Hội nhà văn) cùng của Ogawa Yoko;
Nam những ñóng góp cả về nghệ thuật và ngôn
Đôi mắt ấy vẫn ở trên giường của Yamada Amy
ngữ trong tiếng bản ngữ. Phê bình dịch thuật văn
(Nxb.Hội nhà văn, 2008); Bùi Thị Loan dịch Cậu
chương không chỉ và không hẳn là góp ý, sửa chữa
ấm ngây thơ (Nxb. Hội nhà văn, 2006) và Tôi là
những lỗi sai, mà quan trọng hơn nữa là phân tích,
con mèo (Nxb. Hội nhà văn, 2011) của nhà văn
ñánh giá, biểu dương những bản dịch tốt, dịch hay,
nổi tiếng Nhật Bản Natsume Soseki; Hoàng Long
những dịch giả có công lao bắc những nhịp cầu
dịch: Thất lạc cõi người (NXB HNV & Công ty
qua các biên giới quốc gia, dân tộc”.
Nhã Nam, 2011) và Tà dương (2012), và sẽ ra tiếp
tiểu thuyết Nữ sinh…”. Trong ñó có nhiều dịch giả Tuy nhiên, làm sao ñể phê bình dịch thuật văn
210
- Chin lc ngoi ng trong xu th hi nhp Tháng 11/2014
chương không chỉ là sự góp ý, sửa chữa những lỗi quan ñiểm của nhà phê bình George Steiner, cho
sai? Làm sao có thể kích thích các nhà phê bình rằng “dịch thuật là một nghệ thuật có tính chính
chú trọng tới tác phẩm? Dịch giả Trịnh Lữ cho xác”. Một khi nó là nghệ thuật, nó ắt mang dấu ấn
rằng, “cần có những bài phê bình dựa trên nền sáng tạo của người dịch. Theo dịch giả, trong văn
tảng lý thuyết, trên phương diện mang tính xây học, khó tìm ñâu một bản dịch ñúng. Thay vì ñó,
dựng thì mới khích lệ ñược công việc này”. Nhiều ông ñặt ra vấn ñề dịch theo xu hướng bản xứ hóa
nhà nghiên cứu văn học cũng báo ñộng tình trạng hay mang những yếu tố ngoại lai trong tác phẩm
sách lý luận phiên dịch hay phê bình dịch thuật tới người ñọc nước mình” . Dịch giả Lương
văn chương ở nước ta còn quá ít. Cho dù, ở nước Việt Dũng từ kinh nghiệm của việc dịch văn học
ngoài, các công trình nghiên cứu về phiên dịch Nhật Bản cho biết, “ở xứ Phù Tang, người ta
học không ít. Có thể người viết bài này chưa biết thường dịch theo xu hướng bản xứ hóa với những
nhiều về thành tựu của lĩnh vực này, nhưng các tác phẩm văn học, bằng việc thay ñổi tên ñịa danh,
cuốn sách như: Phiên dịch nhập môn và Tiêu nhân vật cho quen thuộc, giúp ñộc giả của họ có
chuẩn của việc dịch thuật – Cách ñọc và cách thể dễ dàng tiếp cận các tác phẩm văn học nước
truyền tải chương trình của Tsujitani Shinichiron; ngoài và ñiều này có hiệu quả, thể hiện ở lượng
Tìm hiểu các vấn ñề phiên dịch của Anthony Pym, tiêu thụ những tác phẩm dịch theo phong cách này
người dịch ra tiếng Nhật là Takeda Kayoko; Hay tại xứ mặt trời mọc”. Nhà phê bình văn học
cuốn Đương ñại phiên dịch lý luận của GS. Lưu Phạm Xuân Nguyên cho rằng, “Dịch là sự tiếp
Bật Khánh, trường Đại học Trung văn, Hồng biến, thương lượng giữa các nền văn hóa”. Tất
Kong;… ñều có thể dễ dàng tìm thấy trên mạng nhiên, ñể sự thương lượng này thỏa ñáng nhất và
Google. Tuy nhiên, công tác dịch thuật các tác mang lại bản dịch hay, chất lượng cho ñộc giả thì
phẩm về lý luận văn học dịch như trên ñã nói còn cần ñến tâm, tài của người dịch” .
rất ít, nhất là các sách phục vụ cho việc phê bình
Người viết với tư cách là nhà nghiên cứu ñồng
dịch thuật văn học Nhật Bản, vì thế công việc phê
thời là dịch giả văn học Nhật Bản rất ñồng tình
bình dịch thuật hầu như không xuất hiện. Đây là
với ý kiến của của nhà phê bình George Steiner,
ñiều ñáng suy nghĩ cho vấn ñề phê bình dịch thuật
cho rằng “dịch thuật là một nghệ thuật có tính
văn học Nhật Bản trong tương lai.
chính xác”. Tuy nhiên cũng có rất nhiều quan
Tuy chưa có bài viết nào về vấn ñề dịch văn ñiểm khác nhau, thậm chí ñối lập về quan ñiểm
học Nhật Bản, nhưng từ ý kiến của các dịch giả dịch thuật. Có người cho rằng chỉ cần dịch ý, dịch
các thứ tiếng khác về vấn ñề dịch thuật cũng có tự do, nhưng cũng có người yêu cầu phải dịch sát
thể cho thấy phần nào về quan niệm dịch thuật tác ý (trực dịch), không ñược tùy tiện thêm bớt. Ở
phẩm văn học nước ngoài ở Việt Nam. Theo dịch Việt Nam vào khoảng những năm 1960 do yêu
giả Lê Hồng Sâm thì “Người dịch phải xác ñịnh cầu cấp bách cần phổ biến những giá trị tinh thần
cho mình một “ñộ” nhất ñịnh ñể vừa giữ ñược tinh của cha ông ta trong quá khứ nên công tác dịch
thần của tác phẩm gốc mà vẫn giúp bản dịch thuật Hán Nôm ñược ñẩy mạnh. Tuy không xác
không quá khó tiếp nhận ñối với ñộc giả trong lập các khung pháp lí cho công tác dịch thuật
nước”. Quan niệm về “ñộ”, dịch giả cho rằng: “cái nhưng tiêu chí các dịch giả bấy giờ ñặt ra là phải
“ñộ” ñó có thể thay ñổi theo thời gian, phù hợp “tín và nhã”. “Tín” là chính xác; “nhã” là nghệ
với sự biến chuyển của ngôn ngữ và văn hóa. Ví thuật. Để ñạt ñến sự “tín” và “nhã” rất cần khả
dụ, người ta sẽ không thể nào sử dụng ngôn ngữ năng ñọc giỏi chữ Hán và khả năng văn học của
của mấy chục năm về trước ñể chuyển tải nội người dịch thuật.
dung cho ñộc giả ngày nay, cũng như, việc dịch
Đối với việc dịch văn học Nhật Bản cũng như
thẳng những cụm từ thô, tục – vốn tồn tại rõ rành
vậy, ñể có bản dịch có chất lượng tốt, ngoài trình
rành trong bản gốc – hẳn khó chấp nhận trong thế
ñộ tiếng Nhật, dịch giả phải có phông văn hóa sâu
hệ của bà” . Dịch giả Trịnh Lữ khi trích dẫn
211
- Ti
- u ban 1: Đào to chuyên ng
rộng; có khả năng cảm thụ tác phẩm và truyền tải Dịch giả Trần Đình Hiến ñã nói: “Trước tiên
tinh thần của tác phẩm ra tiếng Việt. Nhưng chúng anh phải có sự hiểu biết sâu sắc về văn hoá của
ta ñã biết, trong số các tác phẩm văn học Nhật Bản chính dân tộc mình, sau ñó cũng phải hiểu biết sâu
ñược dịch và xuất bản hiện nay ña phần ñược dịch sắc văn hoá của ñất nước có ngôn ngữ mà anh ñịnh
từ tiếng Anh, Pháp, Trung. Lẽ ñương nhiên, nếu chuyển ngữ. Bởi, văn học dịch là sự giao lưu giữa
dịch giả văn học Nhật Bản là những người không hai nền văn hoá chứ không ñơn thuần là ngữ nghĩa.
biết tiếng Nhật, không hiểu biết nhiều về văn hóa Không am hiểu cả hai nền văn hóa thì khó có bản
Nhật Bản thì khó có thể có bản dịch tốt. dịch tốt. Sau ñó là khả năng Việt hóa ngôn ngữ,
văn dịch phải như văn viết bằng tiếng Việt” .
Gần ñây, nhân ñược ñọc phản biện bài viết
Đánh giá chất lượng bản dịch – Khảo sát với bản Wilhelm von Humboldt, nhà nghiên cứu ngôn
dịch tiếng Việt tác phẩm “Kokoro” của Natsume ngữ người Đức Heyman Steinthal (1823-1899)
Soseki của Bùi Mạnh Hùng (Khoa sau ñại học, cũng nhấn mạnh hơn ñến nghiên cứu ngôn ngữ và
Trường Đại học Hà Nội) , chúng tôi có dịp cho rằng “nghiên cứu các hình thức của ngôn ngữ có
ñọc ñối chiếu lại bản dịch tác phẩm “Nỗi lòng” thể cho ta khả năng ñạt tới chỗ hiểu thấu tinh thần
của nhà văn Natsume Soseki do Đỗ Khánh Hoan của dân tộc: "Các dữ kiện của ngôn ngữ minh họa rõ
và Nguyễn Tường Minh dịch, Nxb. Sông Thao ràng nhất mọi nguyên lý của tâm lý các dân tộc".
phát hành vào năm 1971 (chúng tôi gọi là “bản
Khảo sát các trường hợp dịch chưa chính xác
dịch cũ”). Qua so sánh với bản gốc, chúng tôi thấy
do có sự khác biệt về văn hóa, phong tục tập quán,
bản dịch của hai dịch giả mắc khá nhiều lỗi. Có
ngoài lí do chưa hiểu thấu ñáo về tiếng Nhật,
thể chia các lỗi trên thành các loại như sau:
nhiều khả năng dịch giả dịch từ ngôn ngữ khác
Thứ nhất: Dịch chưa chính xác nên chưa thể “tìm ra những giá trị ngang bằng”
trong trường hợp chuyển dịch. Ví dụ ở trường hợp
1/ Dịch chưa chính xác do hiểu nhầm từ.
(2), nếu dịch “ñi theo ñể kỳ lưng” thì câu ñó sẽ
Khảo sát rất ít các trường hợp dịch chưa chính ñược hiểu là: người mẹ ñi theo người cha cùng
xác, chúng tôi thấy phần lớn ñều do dịch giả hiểu một lúc vào nhà tắm. Nhưng ý câu lại không phải
nhầm từ dẫn ñến dịch sai. Ví dụ ở trường hợp (1), như vậy, người cha vào nhà tắm, ñến khi người
nguyên văn là ( たしか〜と思う ) có nghĩa là “có mẹ “ñi vào kỳ lưng” và “ñang kỳ lưng” thì người
lẽ”. Dịch giả dịch nhầm thành “tôi nhớ rõ”. “Tôi cha ngất ñi, bà liền hô ầm lên gọi người con, ñến
nhớ rõ” và “có lẽ’ là hai tổ hợp từ khác nhau, một khi người con chạy vào xem thì thấy người cha
bên là tổ hợp từ cho thấy sự chính xác của ký ức; “mình trần ñược mẹ tôi ôm giữ lấy từ phía sau”.
một bên là tổ hợp từ cho thấy sự phân vân, phỏng Nếu dịch giả chú ý ñến văn hóa “ofuro” (nhà tắm)
ñoán, khẳng ñịnh một cách dè dặt về ñiều trong và thói quen “tắm” của người Nhật trong truyền
quá khứ, nghĩ rằng “có thể như thế”. Hoặc trường thống ắt sẽ dịch chính xác hơn ở trường hợp này.
hợp (10) nhầm từ “nhà xí” ( 便所 )thành “nhà tắm” Chúng ta ñã biết, người Nhật rất thích ngâm mình
風呂 . trong các bồn tắm nước nóng tới tận cổ, gọi là
2/ Dịch chưa chính xác do chưa hiểu thấu ñáo suefuro. Đến khoảng ñầu thế kỷ XVII, các
về văn hóa, phong tục Nhật Bản. “suefuro” không phải chỉ là ñể xông hơi và nước
tắm bằng thảo dược mà người ta ñã dùng nước
Nhà nghiên cứu phê bình lí luận ngôn ngữ
giếng ñể ñun lên gọi là suifuro và các suifuro ñã
phiên dịch học người Anh Catford là người ñầu
trở lên phổ biến trong các gia ñình Nhật Bản.
tiên ñề xướng khái niệm gọi là “phiên dịch ngang
Ngoài ra, do yufune (bồn tắm thuyền) rất tốn nước
bằng giá trị”. Theo Catford mục tiêu chính trong
nóng, và cũng chỉ chứa ñược ít lượng nước nóng
hoạt ñộng phiên dịch là “hãy tìm ra những giá trị
không ñủ tắm nên người Nhật là dùng thùng gỗ cá
giống nhau”. Tuy nhiên ñể tìm ra “những giá trị
nhân. Thông thường thùng cao khoảng 80 cm,
giống nhau” cần tìm hiểu ngôn ngữ trên nền văn hóa.
212
- Chin lc ngoi ng trong xu th hi nhp Tháng 11/2014
miệng rộng khoảng 80 cm. Trong phòng tắm, chúng tôi sự thêm vào này có thể chấp nhận ñược.
người ta ñặt thùng tắm, nơi treo mắc quần áo, bên Nếu không thêm vào, ñộc giả cũng có thể tưởng
cạnh thùng tắm còn làm cả chỗ ñể người khác có tượng trong trường hợp ñó, người con không thể
thể giúp kỳ cọ. Như vậy trong trường hợp bà mẹ hành ñộng khác mà sẽ “hốt hoảng, vội vã chạy
ñi kì lưng cho ông bố, khi ông ngất ñi, bà mẹ chỉ vào”. Tuy nhiên, chúng ta ñã biết Natsume Soseki
có thể ôm ñể ông bố (nguyên văn là “mẹ tôi ôm “thuộc thế hệ những trí thức tinh hoa theo khuynh
giữ lấy từ phía sau) ñể mặt ông không ñập xuống hướng sáng tạo văn hóa từ cuộc ñối ñầu phương
nước hoặc va vào miệng thùng tắm. Ông bố không Đông và phương Tây thời kỳ Minh Trị (1868-
thể “nằm ñưỡn người (tức nằm thẳng, cứng ñờ) 1912), là một trong những chủ soái của trường
trên tay bà mẹ ñược”. phái văn chương tâm lý cao sang (Yoyuha – Dư
dụ phái) bút chiến với chủ nghĩa tự nhiên
Catford khi nói ñến “những giá trị ngang bằng”
(shizenshugi) trên văn ñàn Nhật Bản những năm
cũng nhấn mạnh ñến những giá trị giống nhau về
ñầu thế kỷ 20” . Ở ñoạn văn này có lẽ nhà
văn pháp như từ vựng, cú pháp…. Lẽ ñương nhiên
văn không ñặt trọng tâm vào việc mô tả chân thực
việc chuyển ngữ từ ngôn ngữ này sang ngôn ngữ
sự hốt hoảng ấy là từ người con, ông muốn nhấn
kia khó có thể giữ nguyên hoàn toàn những giá trị
mạnh ñến tình trạng của người cha. Người cha
giống nhau về văn pháp, song nếu giữ ñược thì ñó
vừa mới ngất ñi, nhưng khi ñược ñưa vào nhà ñã
là phương án tối ưu cho việc phiên dịch (dịch văn
ngay lập tức hồi tỉnh trở lại, và ñó là nguyên nhân
bản và dịch miệng). Khảo sát trường hợp thứ (7)
dẫn ñến sự giằng co trong nội tâm nhân vật khi
từ nguyên gốc là “bên gối”, ñược dịch là “bên
quyết ñịnh có lên ñường hay không ở ñoạn văn sau.
giường” “Bên giường” và “bên gối” ñều chỉ ñịa
ñiểm xẩy ra hành ñộng chăm sóc ân cần của người Trong tiểu thuyết và truyện ngắn của Soseki,
con khi cha vừa bị ngất, nhưng chúng lại cho ông ñặc biệt nhấn mạnh ñến yếu tố cảm xúc trong
chúng ta biết về sự khác nhau trong cuộc sống sáng tạo nghệ thuật. Vì thế khi so sánh nguyên
sinh hoạt ăn ở của người Nhật. Chúng ta ñã biết, gốc với bản dịch, chúng thấy lối dịch suy diễn,
vào thời cận ñại ở Nhật Bản, ñối lập với nhà ở thêm từ của dịch giả không chỉ làm cho câu văn
kiểu tây là nhà kiểu Nhật, gọi là “zashitsu”. Ở thời thêm dài dòng, ý sai lạc mà còn ảnh hưởng ñến văn
Natsume Soseki người Nhật vẫn sống chủ yếu phong của tác giả.
trong các zashitsu (nhà kiểu Nhật), tức nhà gỗ, cửa
Ví dụ, ở trường hợp (33), (34) (bản dịch cũ):
kéo, không có tường, chỉ ngăn bằng bình phong,
“Mẹ tôi ñã lấy làm ñiều tốt lành cái triệu chứng
rèm… và nằm trên sàn chiếu tatami, rất ít nhà
ñáng làm cho mình thất vọng hơn hết (33). Tuy
dùng giường. Như vậy, từ “zashiki” và
nhiên, bà ñã dùng tiếng “ñói khát” theo lối nói
“makuramoto” ñã cho biết người cha sống trong
ngày xưa, vừa có nghĩa là ñói ăn, vừa có nghĩa là
ngôi nhà truyền thống zashiki của Nhật và nằm
khát uống nhưng chỉ dùng khi nói ñến những
trên nệm dải trên sàn chiếu tatami. Vì vậy nếu
người ốm ñau bệnh tật mà thôi (34)”. Nguyên văn
dịch “ngồi lại bên gối” thì không chỉ dịch chính
母は失望していいところにかえって
tiếng Nhật là:
xác từ gốc cho mà còn cho chúng ta hiểu rõ thêm
頼みを置いた。そのくせ病気の時にしか使わない渇
văn hóa dân tộc Nhật Bản.
くという昔風の言葉を、何でも食べたがる意味に用
Thứ hai: dịch suy diễn, thêm vào quá nhiều từ いていた。Phương án dịch của chúng tôi: Trong
lúc thất vọng, mẹ tôi ñã ñặt hy vọng như thế(33).
Lối diễn dịch, dịch suy diễn, thêm quá nhiều từ
Nhưng, hai chữ “ñói khát” nói theo kiểu ngày xưa
chiếm một tỉ lệ khá lớn 15/36 trường hợp. Thực tế
thì chỉ dùng khi bệnh nặng với ý là cái gì cũng
dịch giả có quyền thêm vào ñể cho câu văn thêm
muốn ăn (34).
sáng nghĩa. Ví dụ ở trường hợp (3), câu “Tôi ñâm
nháo ñâm nhào chạy vào” ñược thêm vào sau câu Thực ra câu dịch này không sai, nhưng từ câu
“bỗng dưng gọi tôi giật giọng ầm ĩ cả lên”. Theo ñơn giản dễ hiểu ở nguyên gốc, khi chuyển sang
213
- Ti
- u ban 1: Đào to chuyên ng
tiếng Việt dịch giả lại làm cho câu văn trở nên rối “của ngon vật lạ” còn cảm thấy “vừa buồn cười,
rắm, khó hiểu. Hai từ “ñói khát” ñược dịch giả vừa thực thê thảm” bởi cha mình “ ñâu có sống ở
giải thích thêm “vừa có nghĩa là ñói ăn, vừa có chốn thị thành, nơi có thể thưởng thức những của
nghĩa là khát uống” vừa làm cho câu văn dài dòng, ngon vật lạ. Tối ñến, ông bảo nướng cho mấy thứ
vừa thiếu chính xác. Nguyên gốc dùng từ “khát” như bánh gạo, ngồi nhai rôm rốp”. Cuộc sống của
có nghĩa là “thèm khát”, mà “thèm khát” lại không người cha ở nơi thôn quê qua mô tả của nhà văn
phải “khát uống” mà ñúng như nhà văn giải thích thật dung dị và chất phác.
“thèm khát” có nghĩa là “cái gì cũng muốn ăn”.
Thứ ba, cách chọn từ
Cách vừa dịch vừa diễn dịch của dịch giả theo
chúng tôi là ñiều tối kỵ trong phiên dịch. Chỉ Đối với nhà văn, mỗi câu, mỗi chữ viết ra ñều
trong trường hợp khác biệt về văn hóa và không phải ñắn ño suy nghĩ kỹ càng mới hạ bút, thậm chí
thể chuyển dịch tương ñương thì người dịch mới ngay cả khi viết ra rồi vẫn không hài lòng, tẩy xóa
thêm từ ñể cho rõ nghĩa. Diễn dịch sẽ làm cho câu ñi và viết lại. Vì thế việc dịch văn chương càng
dài dòng và dễ gây ngộ nhận cho ñộc giả về văn cần phải thận trọng. Qua khảo sát một số trường
phong của tác phẩm. Thậm chí có một số từ khi hợp diễn dịch, chúng tôi thấy dịch giả quá dễ dãi
ñưa thêm vào ñã làm “hỏng” hình ảnh của nhân trong việc dùng từ. Ví dụ trường hợp sau: “Tôi trở
vật, làm cho tính cách nhân vật trở nên “méo mó”. về phòng riêng giương mắt nhìn (20) hành lý
trỏng trơ trên sàn. Hành lý ñã ñược buộc dây chặt
Ví dụ ở trường hợp (36) (Bản dịch cũ): “Dĩ
chẽ, sẵn sàng theo tôi lên ñường. Tôi ñứng mơ
nhiên là thầy tôi muốn giữ bác tôi lại ñể cho mình
màng (21) một lúc không biết là có nên tháo dây
khỏi quá cô quạnh nhưng tôi ngờ rằng còn có một
buộc ra không”. Nguyên văn là:
lý do khác nữa: thầy tôi muốn có ai ñó ngồi nghe
私は自分の部屋にはいって、そこに放り出され
mình than thở nỗi bất bình về việc mẹ con tôi ngại
た行李を眺めた。行李はいつ持ち出しても差支えな
ngần không chịu ñể ông ăn những món ông thèm
cho ñến sướng miệng”. いように、堅く括られたままであった。私はぼんや
伯父が見舞に来たとき、父はいつまでも引き留 りその前に立って、また縄を解こうかと考えた 。
Phương án dịch của chúng tôi: “Tôi trở về phòng
めて帰さなかった。淋しいからもっといてくれとい riêng, lặng nhìn (20) ñống hành lý vứt chỏng chơ
うのが重な理由であったが、母や私が、食べたいだ trong phòng. Hành lý ñã ñược buộc dây chặt chẽ,
け物を食べさせないという不平を訴えるのも、その có thể sẵn sàng mang ñi bất cứ lúc nào. Tôi thẫn
目的の一つであったらしい。Phương án dịch của thờ ñứng trước ñống ñồ (21), nghĩ không biết có
chúng tôi: “Ông lấy lý do chính là buồn nên muốn
nên tháo dây buộc ra nữa hay không”.
bác tôi ở lại lâu hơn nhưng, hình như còn có một
mục ñích muốn phàn nàn với bác tôi rằng, ông “Giương mắt nhìn” chỉ việc mở to mắt nhìn
chỉ muốn ăn những thứ ông thèm, mà mẹ tôi và tôi việc xảy ra với vẻ ngây ngô và bất lực, nhưng
lại không cho”. ñộng từ “nagameru” lại có nghĩa “ngắm nhìn cái
gì ñó từ xa”; “vừa nhìn vừa suy nghĩ”; “vừa nhìn
Dịch giả thêm vào mấy câu “cho ñến sướng
vừa trầm tư”. Vì thế phương án dịch là “lặng
miệng” trong ñoạn văn trên sẽ khiến hình ảnh của
nhìn” sẽ thích hợp hơn khi nhân vật ñang ở trạng
người cha trở nên “méo mó” trong mắt người ñọc.
thái băn khoăn, do dự.
Ông trở thành kẻ “phàm phu tục tử”, ăn chẳng
nghĩ ñến ai, chỉ cốt “sướng miệng mình”. Nhưng Từ “mơ màng” cũng cho thấy sự dễ dãi của
không phải như vậy, ñoạn văn (31)(32) ñã cho dịch giả trong việc chọn lựa từ ngữ. “Mơ màng”
thấy cái gọi là “của ngon vật lạ” mà người cha nói chỉ trạng thái luôn mơ tưởng ñến ñiều mình mong
ñến ñâu phải “cao lương mỹ vị” gì, món mà ông muốn (thường là không thiết thực). Nhưng
thích chỉ mấy thứ quà vặt, bình thường, dân dã. “bonyari” không phải với nghĩa ñó, “bonyari”
Ngay cả người con khi khi cha nói tới mấy thứ dùng ñể chỉ trạng thái như ñờ người ra, ñầu óc
214
- Chin lc ngoi ng trong xu th hi nhp Tháng 11/2014
trống rỗng, không chú ý tới bất kỳ việc gì, mất hết と父が聞いた 。 “Cha tôi hỏi: “Hôm nay chẳng
vẻ linh hoạt nhanh nhẹn. Ở trường hợp này, phải là ngày con ñi Tokyo hay sao”. Sự không
“bonyari” ñược Natsume Soseki dùng ñể mô tả chính xác thể hiện ở chỗ, thực tế người con ñã
ñúng tâm trạng “tiến thoái lưỡng nan” của nhân ñịnh ngày lên ñường ñi Tokyo và người cha ñã
vật khi xẩy ra chuyện trở bệnh của người cha. biết về ñiều ñó. Ngoài ra ngôn ngữ ñối thoại trong
nguyên bản là ngôn ngữ ñời thường, ngắn gọn,
Thứ tư: chưa chú ý ñến hoàn cảnh ngôn ngữ
nhưng khi dịch dịch giả lại không chú ý ñến hoàn
ñối thoại
cảnh ngôn ngữ làm cho ñoạn ñối thoại trở nên
Nhà nghiên cứu văn học Bích Thu viết: “Ngôn rườm rà, thiếu tự nhiên.
ngữ ñối thoại giữ vai trò ñáng kể trong khắc họa
“Tiểu thuyết thuộc loại hình tự sự nên nghệ
tính cách nhân vật. Mỗi nhân vật ñược nhà văn
thuật trần thuật là một trong những yếu tố quan
quan niệm như một ý thức, một tiếng nói, một chủ
trọng trong phương thức biểu hiện, và còn là thành
thể ñộc lập”. Trong tiểu thuyết của “Nỗi
tố cơ bản thể hiện cá tính sáng tạo của nhà văn.
lòng” của Natsume Soseki khi nhân vật ñều là
Ngôn ngữ người kể chuyện, ngôn ngữ nhân vật
người trong gia ñình thì ông hầu như sử dụng
tạo nên giá trị nghệ thuật của tác phẩm tự sự thông
ngôn ngôn ngữ ñời thường, không chút màu mè.
qua ñối thoại. Nhờ ñối thoại mà các vấn ñề trong
Tuy nhiên, khi dịch ra tiếng Việt, dịch giả lại
tác phẩm ñặt ra ñược xem xét dưới những ñiểm
không chú ý ñến ñiều này khiến cho các cuộc ñối
nhìn khác nhau”.
thoại giữa những người trong gia ñình không còn
giữ ñược sự tự nhiên như trong ñời sống thực tế. Trở lên là một số vấn ñề liên quan ñến việc
それでも座
Ở ñoạn chú số (5), nguyên văn viết:
dịch văn học Nhật Bản ở Việt Nam – trọng tâm là
敷へ伴れて戻った時、父はもう大丈夫だといった tác phẩm “Nỗi lòng” của nhà văn Natsume Soseki.
Việc so sánh phân tích những vấn ñề trong bản
Bản dịch cũ là: “Nhưng vừa ñược ñi về phòng,
dịch trước ñây của hai dịch giả Đỗ Khánh Hoan
thầy tôi tỉnh lại ngay “Bây giờ tôi thấy khoẻ rồi”.
và Nguyễn Tường Minh không chỉ dừng ở mục
“もう大丈夫だ ”là thể hiện tình trạng hoàn toàn ñích sửa chữa những lỗi nhầm lẫn trong tác phẩm
yên ổn, không có vấn ñề gì, không còn nguy hiểm. dịch, mà còn hy vọng giúp suy nghĩ và thảo luận
Nếu dịch là: “Bây giờ tôi thấy khỏe rồi”, về mặt ý ñể làm sao có nhiều tác phẩm dịch tốt có ñóng góp
nghĩa không có vấn ñề gì, nhưng ñặt trong hoàn về cả nghệ thuật và ngôn ngữ tiếng Việt, từ ñó ñề
cảnh ñối thoại thì dư thừa quá nhiều từ, nhất là ở ra chiến lược giảng dạy và học tập môn văn học
も
tình trạng nhân vật vừa tỉnh lại sau khi bị ngất. Nhật Bản ở các trường ñại học ở Việt Nam hiện
う大丈夫 chỉ cần chuyển ngang ñúng nghĩa tức là nay.
“không sao rồi”, “ổn rồi”. Phương án dịch của
2. Về việc giảng dạy văn học Nhật Bản tại một
chúng tôi là: “Nhưng khi vừa ñược ñưa về phòng,
số trường ñại học ở Việt Nam hiện nay
cha tôi ñã bảo “Không sao rồi”.
「お前は Việc giảng dạy và nghiên cứu văn học Nhật
Hoặc trường hợp (18). Nguyên văn là:
今日東京へ行くはずじゃなかったか」と父が聞いた。 Bản ở Việt Nam ñã ñược một số nhà nghiên cứu
「ええ、少し延ばしました」と私が答えた。「おれ ñiLưỡng
trước ñề cập tới qua một số bài viết của Hà Văn
のためにかい」と父が聞き返した。Bản dịch cũ là: và Trần Thị Chung Toàn . Bài
viết của Hà Văn Lưỡng ñã cho biết khá cụ thể về
“Đến chiều hôm ñó, thầy tôi hỏi: “Thế tới hôm
tình hình giảng dạy văn học Nhật Bản ở các
nay mà con vẫn chưa lên ñường ñi Tokyo hay
trường cao ñẳng và ñại học ở Việt Nam. Ông viết:
sao?”(18). “Vâng, con ñã quyết ñịnh nán lại nhà ít
“Bên cạnh việc giới thiệu một cách khái quát tiến
ngày, thầy ạ”. “Chỉ vì thầy có phải không, con?”.
trình phát triển của văn học qua các thời kỳ dưới
Ở câu trên, dịch giả ñã dịch không chính xác tác ñộng và ảnh hưởng của các biến cố và sự kiện
câu: 「お前は今日東京へ行くはずじゃなかったか」 lịch sử, sinh viên ñược học văn học Nhật Bản với
215
- Ti
- u ban 1: Đào to chuyên ng
ñầy ñủ các tác giả tiêu biểu và các thể loại văn học nước ta với một khối lượng tác phẩm khá lớn,
khác nhau. Với số lượng dao ñộng từ 15 tiết ñến nhưng hầu như chưa có một bài nghiên cứu nào
30 tiết (tùy theo ngành học và chưa kể thời gian viết về sáng tác của họ”.
làm bài tập, niên luận và khóa luận tốt nghiệp),
Nhận xét trên ñây của tác giả Hà Văn Lưỡng
văn học Nhật Bản ñược trình bày từ văn học dân
ñã phản ánh phần nào những khó khăn trong công
gian ñến văn học cận và hiện ñại. Trong ñó,
tác nghiên cứu và giảng dạy văn học Nhật Bản
chương trình tập trung cụ thể vào những tác giả,
(không qua nguyên tác tiếng Nhật) tại Việt Nam.
tác phẩm lớn tiêu biểu cho từng thời kỳ văn học,
Cũng như công việc dịch thuật văn học Nhật Bản,
thể loại như: M.Basho và thơ Haikư (thời Trung
ñể nghiên cứu và giảng dạy tốt môn Văn học Nhật
ñại), R.Akutagawa và thể loại truyện ngắn (thời
Bản, lý tưởng nhất cũng phải biết tiếng Nhật ở
Cận ñại) và Y. Kawabata và văn xuôi Nhật Bản
mức ñộ nào ñó (ví dụ có thể ñọc và cảm thụ tác
hiện ñại. Như vậy, với cách trình bày ñó, văn học
phẩm qua tác phẩm gốc mà không phải tác phẩm
Nhật Bản ñược giới thiệu một cách khá hoàn
dịch); Phải có phông văn hóa sâu rộng, phải có sự
chỉnh vừa có diện, vừa có ñiểm trong chương trình
hiểu biết về Nhật Bản, ñặc biệt trên lĩnh vực văn
ñại học. Điều này cung cấp cho sinh viên những
hóa, văn học. Lẽ ñương nhiên, ñây là vấn ñề rất
kiến thức chủ yếu, quan trọng mang tính khoa học
khó, ñòi hỏi sự cố gắng vượt bậc của ñội ngũ
và hệ thống về một nền văn học cụ thể góp phần
giảng viên và các nhà nghiên cứu văn học Nhật
làm giàu và phong phú hơn vốn văn học và năng
Bản ở các khoa Ngữ văn các trường ñại học của
lực cảm thụ thẩm mỹ”. Ông nhận xét: “Khoảng
Việt Nam hiện nay. Bên cạnh ñó, cũng ñòi hỏi các
trong vòng nửa thế kỷ, thông qua nghiên cứu và
nhà nghiên cứu và dịch giả biết tiếng Nhật phải
giảng dạy, văn học Nhật Bản ngày càng ñược phổ
nâng cao năng lực tiếng Nhật và khả năng cảm thụ
biến sâu rộng trong nhiều tầng lớp khác nhau của
văn học ñể có thể chuyển tải ñúng tinh thần của
xã hội, ñặc biệt là giới trí thức, học sinh, sinh viên
tác phẩm tới bạn ñọc. Điều này lại liên quan ñến
và những người yêu văn học của nước ta. Đó là
công việc giảng dạy và học môn Văn học Nhật
những tín hiệu ñáng mừng, cần quảng bá hơn nữa
Bản tại khoa Nhật Bản tại các trường ñại học
nền văn học này ñể chúng ta hiểu sâu thêm về ñất
chuyên ngữ hiện nay.
nước, con người, văn hóa của xứ sở Phù Tang”.
Tình hình giảng dạy và học tập văn học Nhật
Tuy nhiên, tác giả bài viết cũng chỉ ra một số
Bản tại khoa tiếng Nhật ở các trường ñại học
hạn chế của việc nghiên cứu và giảng dạy văn học
chuyên ngữ như thế nào. Qua bài viết: Tình hình
Nhật Bản ở Việt Nam. Ông cho rằng: trong khi
dịch thuật, xuất bản, giáo dục và nghiên cứu văn
một số lượng lớn các tác phẩm văn học Nhật Bản
học Nhật Bản tại Việt Nam – hiện trang và vấn ñề
ñược dịch ra tiếng Việt, nhưng ñội ngũ nghiên cứu
(bản tiếng Nhật) của tác giả Trần Thị Chung Toàn
và giảng dạy văn học Nhật ở nước ta mới chỉ bó
chúng ta cũng có thể biết khá kỹ lưỡng về chương
hẹp trong phạm vi những người nghiên cứu văn
trình giảng dạy văn học Nhật Bản tại Trường Đại
học ở các viện, trung tâm và giảng dạy ở các
học Hà Nội. Theo tác giả bài viết, môn Văn học
trường phổ thông, cao ñẳng, ñại học. Các giảng
Nhật Bản ñược bắt ñầu từ học kỳ II, năm thứ 3,
viên các trường cao ñẳng và ñại học chưa thật chú
tức bắt ñầu dạy từ Học kỳ thứ 6. Mỗi tuần 1 buổi,
tâm và công việc nghiên cứu. Một số sách và bài
cộng 18 buổi với 6 ñơn vị học trình (90 giờ).
viết chỉ tập trung chủ yếu vào một số thể loại (tiểu
Trong 141 ñơn vị học trình của chuyên ngữ tiếng
thuyết, truyện ngắn, thơ) và tác giả (M. Basho, Y.
Nhật, môn Văn học Nhật Bản chỉ chiếm 4, 25 %.
Kawabata…), các mảng kịch và văn học dân gian
Với thời gian ít ỏi như vậy, môn Văn học Nhật
Nhật Bản còn chưa ñược nghiên cứu một cách sâu
Bản chỉ có thể tập trung giới thiệu cuộc ñời và sự
sắc, cụ thể. “Hai tác giả Haruki Murakami (sinh
nghiệp sáng tác của 7 tác gia nổi tiếng ñược sắp
năm 1949) và Banana Yoshimoto (sinh năm 1964)
xếp theo trật tự thời gian và dòng lịch sử từ văn
của văn học Nhật Bản ñương ñại ñã ñược dịch ở
216
- Chin lc ngoi ng trong xu th hi nhp Tháng 11/2014
học cổ ñiển tới văn học hiện ñại, như Matsuo không có học sinh tốt nghiệp chuyên ngành Văn
Basho, Natsume Soseki, Akutagawa Ryunosuke, học Nhật Bản. Số lượng giáo viên, giảng viên
Dazai Osamu, Kawabata Yasunari, Miyazawa chuyên môn về văn học cũng rất ít. Các giảng viên
Kenji, Yoshimoto Banana. Từ năm 2010, bổ sung môn văn học Nhật Bản chủ yếu tự ñào tạo, ban
thêm tác giả thời cận ñại Murakami Haruki. ñầu chỉ là sự hứng thú của bản thân ñối với môn
học và sau ñó là từ việc phiên dịch, nghiên cứu
Ngoài 7 tác gia nổi tiếng, môn Văn học Nhật
văn học Nhật Bản, vì thế phương pháp nghiên cứu
Bản cũng giới thiệu khái quát về văn học qua các
cũng như tri thức chuyên môn chưa ñủ ñể có thể
thời kỳ, như Văn học Thượng ñại (từ văn học từ
giảng dạy văn học Nhật Bản với tư cách là chuyên
thời thái cổ cho ñến thời Nara), Văn học Trung cổ
gia văn học. Giáo trình và sách tham khảo cũng
(tức văn học thời Heian cho ñến ñầu thời
chưa ñược chuẩn bị. Việc giao lưu, trao ñổi với
Kamakura), Văn học Trung thế (văn học thời
các nhà nghiên cứu văn học trong và ngoài nước
Kamakura, Nanbokucho, Muuromachi), Văn học
cũng hạn chế…
Cận thế (văn học thời Edo); Văn học Cận ñại (văn
học sau thời Meiji); Văn học thời hiện ñại. Các tác Đứng trước những khó khăn cần giải quyết, tác
giả Miyazawa Kenji với tác phẩm Cửa hàng thực giả Trần Thị Chung Toàn cũng nêu ra nhiều biện
phẩm có nhiều người ñặt hàng; Yoshimoto pháp nhằm ñổi mới phương pháp dạy và học môn
Banana với tác phẩm Cái bếp; Natsume Soseki; Văn học Nhật Bản ở Khoa Nhật Bản, Trường Đại
Akutagawa Ryunosuke với tác phẩm Lũ chúng ta học Hà Nội, trong ñó biện pháp ñầu tiên là ñào tạo
là những con mèo; Dazai Osamu với tác phẩm Sợi nhân tài sử dụng tiếng Nhật ñể nghiên cứu, giảng
tơ nhện và Melos ơi chạy nhanh lên; Kawabata dạy và làm công tác dịch thuật; tiếp ñó là cần có
Yasunari với tác phẩm Xứ tuyết; Matsumoto sự chỉ ñạo, hợp tác giúp ñỡ ñối với việc giảng dạy
Basho với thơ Hai ku. môn Văn học Nhật Bản, cần tạo ra môi trường liên
kết cho các hoạt ñộng giảng dạy và nghiên cứu
Khác với sinh viên khoa Ngữ văn các trường
Văn học Nhật Bản; cần phải ñầu tư thời gian và
cao ñẳng và ñại học, sinh viên học môn này ñều
công sức cho việc biên soạn giáo trình ñể làm sao
ñược học trực tiếp từ nguyên tác tiếng Nhật, ngoài
sinh viên có hứng thú với môn học này; trong việc
việc ñọc, tìm hiểu nội dung tác phẩm còn yêu cầu
ñào tạo nhân lực cũng ñến lúc cần phải có Viện
dịch ra tiếng Việt. Theo tác giả bài viết, tuy chưa
sau ñại học (học viện) nhằm ñào tạo ñội ngũ giảng
phải là giờ dạy chuyên về văn học Nhật Bản
viên có trình ñộ thạc sĩ và tiến sĩ; cần phải mời các
nhưng với thời gian 90 tiếng, mục ñích chủ yếu
chuyên gia Nhật Bản giảng dạy Văn học Nhật Bản
của môn này là cung cấp trí thức mang tính cơ sở
cho bậc sau ñại học…
và khái quát về nền văn học Nhật Bản với những
tác gia và tác phẩm nổi tiếng, ngoài ra cũng còn có Những vấn ñề mà tác giả Trần Thị Chung Toàn
mục ñích nâng cao năng lực tiếng Nhật cho sinh nêu ra trong bài viết, thiển nghĩ không chỉ là khó
viên. Thời gian học môn này không nhiều, nhưng khăn của riêng Khoa Nhật Bản - Trường Đại học
nếu so với giờ dạy môn văn học Nhật Bản ở Khoa Hà Nội, mà còn là khó khăn chung ñối với việc
Văn hóa và Ngôn ngữ Phương Đông, Đại học giảng dạy văn học Nhật Bản ở các khoa chuyên
Ngoại ngữ, Đại học Quốc gia Hà Nội, thì số giờ ngữ tiếng Nhật các trường ñại học khác.
của Khoa Nhật Bản, Trường Đại học Hà Nội gấp
Ngoài Trường Đại học Hà Nội, chúng tôi tham
1,5 lần.
khảo thêm một số chương trình giảng dạy môn
Ngoài chương trình giảng dạy, tác giả Trần Thị Văn học Nhật Bản ở một số trường ñại học
Chung Toàn cũng cho biết những khó khăn mà chuyên ngữ khác như Khoa Ngôn ngữ & Văn hóa
môn học Văn học Nhật Bản ở bậc ñại học nói Phương Đông – Đại học Ngoại ngữ, Đại học Quốc
chung ñang phải ñối diện, ñó là không có môn học gia Hà Nội; hay Bộ môn Nhật Bản học tại trường
chuyên sâu về văn học Nhật Bản, vì thế cũng Đại học KHXH&NV Thành phố Hồ Chí Minh. Ở
217
- Ti
- u ban 1: Đào to chuyên ng
Khoa Ngôn ngữ và Văn hóa Phương Đông, Đại không phải là giảng viên giảng dạy môn Văn học
học Ngoại Ngữ, Đại học quốc gia Hà Nội xây Nhật Bản tại các trường ñại học của Việt Nam,
dựng môn Lịch sử văn học Nhật Bản, mục ñích nhưng nhiều năm làm công tác nghiên cứu, dịch
kết hợp giữa việc trang bị kiến thức về lịch sử văn thuật văn học cổ ñiển Việt Nam, Trung Quốc và
học Nhật Bản với cái nhìn khái quát về lịch sử Nhật Bản, chúng tôi cũng nhận thấy tầm quan
Nhật Bản cho sinh viên. Với thời gian ít ỏi một trọng của việc ñào tạo nhân lực cho việc nghiên
học kỳ của năm thứ ba, cũng không hy vọng có cứu, giảng dạy và dịch thuật văn học Nhật Bản.
thể ñào tạo chuyên sâu về môn này, tuy nhiên môn Ngoài những biện pháp ñể khắc phục khó khăn,
học cũng ñã ñáp ứng phần nào việc trang bị cho ñẩy mạnh công tác giáo dục ñào tạo nhân lực
sinh viên kỹ năng nghiên cứu những vấn ñề liên nhằm phát triển ñội ngũ các nhà nghiên cứu, giảng
quan ñến văn hóa, lịch sử Nhật Bản từ những kiến dạy văn học Nhật Bản hiện nay như ñã nêu trên,
thức về văn học, ngoài ra, môn học còn trang bị cũng cần thiết phải nâng cao hơn nữa năng lực
kỹ năng trình bày các vấn ñề văn học Nhật Bản cảm thụ và khả năng chuyển ngữ các tác phẩm
dưới hình thức viết báo cáo hoặc thuyết trình. Về văn học Nhật Bản ra tiếng Việt của các dịch giả
chương trình, ngoài việc giới thiệu khái quát về tiếng Nhật. Bởi như trên ñã phân tích, các nhà
các tác giả, tác phẩm của từng thời kỳ lịch sử, nghiên cứu và giảng dạy văn học Nhật Bản không
môn học còn giới thiệu khái quát cho sinh viên về sử dụng ñược tiếng Nhật khi giảng dạy và phân
bối cảnh lịch sử và sự phát triển văn học qua các tích tác phẩm sẽ rất cần bản dịch chính xác có chất
giai ñoạn. Ví dụ thời kỳ Heian có văn học cung lượng từ nguyên tác. Tuy nhiên, việc dịch ra tiếng
ñình và văn học nữ lưu, với tác phẩm nổi tiếng Việt lại cần có nghệ thuật mà nghệ thuật ñó cần
như Genjimonogatari, Isemonogatari… Văn học ñược xây dựng trên nền tảng phông văn hóa, văn
thời trung ñại ñã ñi vào giới thiệu về vị trí của các học và ngôn ngữ tiếng Việt của người dịch.
tác phẩm về về chiến tranh như
Gần ñây, nhân tham gia một số Hội thảo quốc
Heikemonogatari… Sự ra ñời của kịch No. Văn
tế về văn học Nhật Bản, ñược tiếp xúc với các nhà
học thời cận ñại ñã giới thiệu về dòng văn chương
nghiên cứu và giảng dạy văn học Nhật Bản ở khoa
Ukiyo (văn học thế tục, thông tục); sự ra ñời và
Ngữ văn các trường ñại học của Việt Nam, chúng
phát triển của kịch Kabuki; giới thiệu tác giả nổi
tôi cũng ñược nghe nhiều ý kiến về vấn ñề dịch
tiếng của văn học thời kỳ này qua các thể loại,
thuật các tác phẩm văn học Nhật Bản dịch từ
như về thơ có Matsuo Basho; tiểu thuyết có Ihara
nguyên tác tiếng Nhật. Các nhà nghiên cứu và
Saikaku; kịch có Chikamatsu Monzaemon…. Văn
giảng viên các trường ñại học ñã ñánh giá cao
học thời hiện ñại (văn học thời Meiji) ñã ñi vào
những tác phẩm chuyển ngữ tốt, chuyển tải ñược
giới thiệu một số trào lưu và khuynh hướng sáng
tinh thần của tác phẩm, nhưng cũng có ý kiến cho
tác của văn học thời kỳ này như chủ nghĩa lãng
rằng, trình ñộ tiếng Việt văn học của các dịch giả
mạn và chủ nghĩa tự nhiên trong văn học, các
tiếng Nhật còn yếu, cần phải cố gắng nhiều hơn.
trường phái sáng tác văn học, sự phát triển của
Một giảng viên của Khoa Văn học và Ngôn Ngữ,
chủ nghĩa hiện thực trong văn học… với các tác
Đại học KHXH&NV thành phố Hồ Chí Minh cho
giả nổi tiếng như Kawabata Yasunari, Natsume
biết, khi giảng dạy môn Văn học Nhật Bản, cô ñã
Soseki, Oe Kenzaburo… Văn học ñương ñại với
sử dụng thử một số tác phẩm dịch từ nguyên tác
các tác giả tiêu biểu như Murakami Haruki,
tiếng Nhật, nhưng thấy không hay nên lại quay lại
Yoshimoto Banana….
sử dụng các bản dịch từ tiếng Anh hoặc tiếng
Qua bài viết của các tác giả vừa là nhà nghiên Trung Quốc. Chúng tôi cho rằng nhận xét trên
cứu Nhật Bản, vừa là giảng viên của các trường không phải không có lý bởi các trường ñại học có
ñại học, chúng ta có thể thấy rõ hơn tình hình khoa ngoại ngữ, hoặc bộ môn tiếng Nhật ñều chưa
giảng dạy và nghiên cứu văn học Nhật Bản ở một có sinh viên tốt nghiệp chuyên ngành văn học
số trường ñại học của Việt Nam hiện nay. Mặc dù Nhật Bản và cũng chưa có giảng viên với tư cách
218
- Chin lc ngoi ng trong xu th hi nhp Tháng 11/2014
là chuyên gia văn học Việt Nam và Nhật Bản. Vì thuật văn học Nhật Bản, thì trong tương lai không
thế ñể có bản dịch tốt từ nguyên tác tiếng Nhật, xa sẽ có nhiều dịch giả ñồng thời là nhà nghiên
dịch giả phải giỏi tiếng mẹ ñẻ. Muốn giỏi tiếng cứu văn học Nhật Bản xuất sắc và sản phẩm dịch
Việt thì sinh viên khoa tiếng Nhật cần phải ñược thuật của họ chắc chắn sẽ ñáp ứng ñược ñòi hỏi
trang bị kiến thức về văn học (kể cả văn học Việt của công chúng và các nhà nghiên cứu, giảng dạy
Nam) và tiếng Việt. văn học Nhật Bản tại Việt Nam, góp phần tăng
cường sự hiểu biết, giao lưu, hữu nghị giữa nhân
Để ñáp ứng ñược ñòi hỏi của công chúng và
dân hai nước Việt Nam và Nhật Bản.
các nhà nghiên cứu, giảng dạy văn học Nhật Bản
tại Việt Nam, trước hết cần nâng cao năng lực Chú thích
giảng dạy và nghiên cứu Văn học Nhật Bản cho 1. Ngô Trà My: Thư mục văn học Nhật Bản ở Việt
ñội ngũ giáo viên các trường chuyên ngữ. Cho ñến Nam. Đăng trong sách Văn học Việt Nam và Nhật Bản
trong bối cảnh Đông Á. Nxb. Văn hóa-Văn nghệ,
nay, ngoại trừ rất ít giảng viên vừa là nhà nghiên
Thành phố Hồ chí Minh – 2013, tr. 7668-7821.
cứu, vừa là dịch giả văn học Nhật Bản, số còn lại
2. Nguyễn Thị Oanh: Tình hình dịch thuật, xuất bản,
hầu như không làm công tác nghiên cứu, không nghiên cứu văn học Nhật Bản ở Việt Nam, trọng tâm là
dịch thuật và cũng ít thời gian tham gia các Hội việc dịch thuật tác phẩm Konjakumonogatarishu (Tập
thảo liên quan ñến văn học Nhật Bản. Thực tế truyện kể xưa nay) (tiếng Nhật). Đăng trong sách Hiểu
thế nào từ thế giới của Setsuwa (Thuyết thoại). Nxb.
nhiều năm nay, thông qua quỹ Giao lưu quốc tế, Hội văn học thuyết thoại. 2013, tr.428-454. Trong bài
chính phủ Nhật Bản ñã ñầu tư khá nhiều kinh phí viết này, tác giả ñã dựa trên Thư mục văn học Nhật
cho việc ñào tạo và nghiên cứu và dịch thuật văn Bản ở Việt Nam (bằng tiếng Việt) của Ngô Trà My ñể
tìm về tên tác giả và tên sách gốc bằng tiếng Nhật.
học Nhật Bản. Hầu hết các tác phẩm văn học Nhật Đồng thời bổ sung một số tác phẩm dịch thuật và các
Bản ñược xuất bản gần ñây ñều ñược chính phủ bài viết của các nhà nghiên cứu khác.
Nhật tài trợ. Tuy nhiên, do quỹ thời gian ít ỏi, 3. Thúy Toàn: Bức tranh dịch thuật từ một góc nhìn.
công việc giảng dạy chiếm nhiều thời gian nên Nguồn: http://vanvn.net
giáo viên tiếng Nhật ở các trường ñại học chuyên 4. Hà Văn Lưỡng: Dịch Thuật Và Nghiên Cứu Văn
ngữ ít có cơ hội tham gia các chương trình tài trợ Học Nhật Bản Ở Việt Nam. Tạp chí nghiên cứu Nhật
BảnVà Đông Bắc Á, Số 4, Tháng 8, 2013.
nghiên cứu và xuất bản của chính phủ Nhật. Cần
dành nhiều thời gian cho ñội ngũ giảng viên làm 5. Kỳ Thư: Dịch thuật hay chê dịch thuật ñều cần có
ñộ. Nguồn http://giaitri.vnexpress.net/tin-tuc/sach/lang-
công tác nghiên cứu là một vấn ñề cần ñược sự van.
quan tâm của Khoa tiếng Nhật và lãnh ñạo các
6. Ý kiến của Lê Hồng Sâm trong buổi tọa ñàm “Dịch
trường ñại học. thuật trong thực tế xuất bản”. Dẫn theo Kỳ Thư, nguồn
ñã dẫn.
Thứ hai cần phải ñào tạo sinh viên khoa tiếng
7. Ý kiến của Trịnh Lữ trong buổi tọa ñàm “Dịch
Nhật theo hướng chuyên môn hóa (ở ñây là
thuật trong thực tế xuất bản”. Dẫn theo Kỳ Thư, nguồn
chuyên ngành văn học); cần xây dựng chương ñã dẫn.
trình, làm giáo trình… và liên kết với ñội ngũ các 8. Ý kiến của Lương Việt Dũng trong buổi tọa ñàm
nhà nghiên cứu văn học Nhật Bản ở các khoa Ngữ “Dịch thuật trong thực tế xuất bản”. Dẫn theo Kỳ Thư,
văn các trường ñại học và viện nghiên cứu văn nguồn ñã dẫn.
học trong và ngoài nước trong việc giảng dạy môn 9. Ý kiến của Phạm Xuân Nguyên trong buổi tọa ñàm
Văn học Nhật Bản. “Dịch thuật trong thực tế xuất bản”. Dẫn theo Kỳ Thư,
nguồn ñã dẫn.
Thứ ba, cần mở cơ sở ñào tạo sau ñại học (học 10. Phạm Xuân Nguyên: Phê bình dịch thuật văn
viện) ñể mỗi trường ñại học là cơ sở ñào tạo sau chương. Nguồn: http://buikimanh.vn/ve-ban/phe-binh-
các nhà nghiên cứu và giảng dạy môn Văn học van-hoc.
Nhật Bản. 11. Bùi Mạnh Hùng: Đánh giá chất lượng bản dịch –
Khảo sát với bản dịch tiếng Việt tác phẩm “Kokoro”
Nếu xây dựng một chiến lược lâu dài cho việc của Natsume Soseki, ñăng trong Nghiên cứu Văn hóa
ñào tạo nhân lực nghiên cứu, giảng dạy và dịch Khoa học (tiếng Nhật) số 10 năm 2014).
219
- Ti
- u ban 1: Đào to chuyên ng
12. Trần Đình Hiến: Nên hiểu nhau từ góc ñộ văn học (Đại học Huế), 2008, số 13.
hóa. Nguồn: http://vanvn.net/news/12/4150-dich-gia-
17. Trần Thị Chung Toàn: Tình hình dịch thuật, xuất
tran-dinh-hien--nen-hieu-nhau-tu-goc-do-van-hoa.html.
bản, giáo dục và nghiên cứu văn học Nhật Bản tại Việt
13. Natsume Soseki. Tài liệu mạng. Nguồn: Nam – hiện trang và vấn ñề (bản tiếng Nhật). Khoa
http://vi.wikipedia.org/wiki/Natsume_S%C5%8Dseki Nghiên cứu văn hóa và Ngôn ngữ, Đại học Rimei.
Web: http://www.ritsumei.ac.jp/acd/re/k-
14. Bích Thu: Một vài cảm nhận về ngôn ngữ tiểu
rsc/lcs/kiyou/pdf_21-3/RitsIILCS_21.3pp43-
thuyết Việt Nam ñương ñại. Nguồn:
52TRAN.pdf.
http://tonvinhvanhoadoc.vn/van-hoc-viet-nam/phe-
binh/6533. 18. Chương trình giảng dạy môn Lịch sử văn học
Nhật Bản tại Khoa Văn hóa và Ngôn ngữ Phương
15. Bích Thu: Một vài cảm nhận về ngôn ngữ tiểu
Đông, Đại học Ngoại ngữ, Đại học quốc gia Hà Nội do
thuyết Việt Nam ñương ñại. Nguồn ñã dẫn.
giảng viên Đào Thị Nga My cung cấp. Nhân ñây xin
16. Hà Văn Lưỡng: Một số vấn ñề về nghiên cứu và chân thành cảm ơn.
giảng dạy văn học Nhật Bản ở Việt Nam, Tạp chí Khoa
Phụ lục
Tác phẩm “Nỗi lòng” của Đỗ Khánh Hoan và Nguyễn Tường Minh. Nxb. Hội nhà văn tái bản năm
2011. Để tiện so sánh chúng tôi làm bảng thống kê giữa bản dịch của hai dịch giả nói trên và phương án
dịch của chúng tôi ñể ñộc giả tiện theo dõi (Chúng tôi có tham khảo từ bản ñối chiếu của Bùi Mạnh Hùng).
Nỗi lòng của Đỗ Khánh Hoan và Nguyễn Phương án dịch của người viết
Tường Minh
Tôi nhớ rõ (1) hai ngày trước khi tôi lên Khi tôi chuẩn bị ñịnh lên ñường (có lẽ (1) việc
ñường thì thầy tôi ñột nhiên lại ngất xỉu ñi lần ñã xảy ra vào tối hai ngày trước ñó) thì cha tôi lại
nữa. Đó là một buổi tối, vào lúc tôi vừa mới ñột nhiên ngất ñi. Bấy giờ tôi vừa mới chằng buộc
buộc xong hành lý chứa ñầy sách vở quần áo. xong chiếc rương mây ñã nhét ñầy sách vở, quần
Khi ñó thầy tôi vừa vào nhà tắm mẹ tôi ñi theo áo. Lúc ñó cha tôi mới vào nhà tắm. Mẹ tôi ñi kỳ
(2) ñể kì lưng cho ông, bỗng dưng gọi tôi giật lưng cho ông (2) mới hô ầm lên gọi tôi. (3)Tôi thấy
giọng ầm ĩ cả lên. Tôi ñâm nháo ñâm nhào chạy cha tôi cởi trần ñược mẹ tôi ôm giữ lấy từ phía sau
vào (3) thấy thầy tôi ñang trần mình nằm ñưỡn (4). Nhưng khi vừa ñược ñưa về phòng, cha tôi ñã
người trên tay mẹ tôi (4). Nhưng vừa ñược ñi về bảo “Không sao rồi”(5). Tôi không yên tâm bèn
phòng, thầy tôi tỉnh lại ngay “Bây giờ tôi thấy ngồi lại bên gối (6), ñắp khăn ướt làm mát trán cho
khoẻ rồi”(5). Tuy vậy, tôi vẫn ngồi bên giường cha tôi. Mãi ñến khoảng 9 giờ, tôi mới qua quýt
(6), lấy khăn ướt ñắp lên trán thầy tôi. Mãi ñến dùng xong bữa tối (7).
9h tối, tôi mới có thì giờ nhấm nháp qua loa một
Ngày hôm sau, cha tôi có vẻ khoẻ khoắn, tỉnh
chút thay bữa cơm chiều cho kiến ñỡ bò bụng
táo hơn chúng tôi tưởng. Chẳng buồn ñể ý ñến
(7).
những lời mẹ con tôi căn dặn (8) ông vẫn tự mình
Ngày hôm sau, thầy tôi có vẻ khoẻ khoắn, ñi ra nhà xí (9).
tỉnh táo hơn là chúng tôi tưởng. Chẳng buồn ñể
ý ñến những lời mẹ con tôi cằn nhằn (8), ông cứ
ñi tắm một mình (9).
“Bây giờ thầy thấy trong người khoẻ khoắn lắm “Không sao rồi” (10). Cha tôi cứ nhắc ñi nhắc lại
rồi” (10) ông cứ nhắc ñi nhắc lại mãi câu này câu này cho tôi nghe giống như lúc ông ngất ñi hồi
cho tôi nghe y như trong mùa ñông năm ngoái cuối năm ngoái (11). Khi ñó, quả thực ông có khá
(11). Dạo ñó, chẳng nhiều thì ít, quả thực ông hơn ñúng như ông nói. Tôi nghĩ, lần này cũng vậy,
có khá hơn ñúng như lời ông nói. Tôi lạc quan hoặc chưa biết chừng sẽ lại ñúng như thế)(12). Tuy
nghĩ rằng biết ñâu phen này, thầy tôi lại chẳng nhiên, cho dù tôi có căn vặn hỏi han ñến thế nào ñi
tỏ ra là có lý thêm một lần nữa (12). Tuy nhiên, nữa, bác sĩ cũng chỉ khuyên là phải trông nom cho
dù tôi căn vặn hỏi han ñến thế nào ñi nữa, ông cẩn thận, chứ không cho biết thêm ñiều gì cho rõ
bác sĩ chữa bệnh cho thầy tôi vẫn chẳng chịu hé ràng (13). Tôi thấy lo lắng nên tới tận ngày lên
miệng nói gì cho tôi hay ngoại trừ một ñiều là ñường ñi Tokyo tôi vẫn chẳng thấy hào hứng gì
phải ñể ý chăm nom săn sóc ông cụ cho cẩn với chuyện ñó (14).
220
- Chin lc ngoi ng trong xu th hi nhp Tháng 11/2014
thận (13). Đã ñến ngày tôi dự ñịnh lên ñường
Tôi bảo mẹ tôi: “Để con xem tình hình thế nào ñã
nhưng vì không ñược yên lòng về thầy tôi nên
rồi sẽ quyết ñịnh”.
tôi quyết ñịnh trì hoãn chuyến ñi thêm ít ngày
(14). Tôi nói với mẹ tôi: “Ừ, cứ thế ñi (15). Mẹ tôi năn nỉ.
“Có lẽ con sẽ nấn ná ở lại nhà cho ñến khi nào
mọi việc ñược rõ ràng hơn chút nữa.”
“Ừ phải ñấy, con nên ở lại thêm ít ngày,” (15)
mẹ tôi nói với giọng năn nỉ van nài.
Trước ñây, khi thầy tôi tự mình làm ra vẻ khoẻ Mẹ tôi thường tỏ ra thản nhiên khi thấy cha tôi
khoắn, ñi lại một mình ngoài vườn hay tới sân khỏe khoắn ra ngoài vườn hay xuống sân sau (16),
sau, mẹ tôi ñã tỏ ra lạc quan không phải lối nhưng từ khi việc ấy xảy ra, bà lại trở nên mềm
(16); nhưng bây giờ bà lại tỏ ra lo âu cuống yếu (17) lo âu thấp thỏm quá chừng.
quýt quá chừng (17).
“Thế hôm nay không phải là ngày con ñi Tokyo
Đến chiều hôm ñó, thầy tôi hỏi: hay sao?”, cha tôi hỏi (18).
“Thế tới hôm nay mà con vẫn chưa lên ñường “Vâng, con ñịnh nán lại nhà ít ngày ạ.”
ñi Tokyo hay sao?”(18).
“Vì cha phải không?”
“Vâng, con ñã quyết ñịnh nán lại nhà ít ngày,
thầy ạ.”
“Chỉ vì thầy có phải không, con?”
Tôi trù trừ một lúc. Nếu trả lời là phải tức là tôi Tôi trù trừ một lúc. Nếu trả lời là phải, tức ñã ghi
ñã nhìn nhận rằng bệnh trạng thầy tôi nặng nề nhận rằng bệnh trạng cha tôi nặng nề lắm lắm. Tôi
lắm lắm. Tôi muốn tránh sao cho thầy tôi càng muốn tránh sao cho thầy tôi càng ñỡ xúc ñộng
ñỡ xúc ñộng càng hay; nhưng hình như ông ñọc càng hay; nhưng hình như ông ñã hiểu ñược tâm tư
ñược ý nghĩ của tôi. của tôi.
“Thầy rất ân hận”(19) nói rồi ông quay nhìn ra “Thật khổ” (19) nói rồi ông quay nhìn ra ngoài
ngoài vườn. vườn.
Tôi trở về phòng riêng giương mắt nhìn (20) Tôi trở về phòng riêng, lặng nhìn (20) ñống hành
hành lý trỏng trơ trên sàn. Hành lý ñã ñược lý vứt chỏng chơ trong phòng. Hành lý ñã ñược
buộc dây chặt chẽ, sẵn sàng theo tôi lên ñường. buộc dây chặt chẽ, sẵn sàng có thể mang ñi bất cứ
Tôi ñứng mơ màng (21) một lúc không biết là lúc nào. Tôi thẫn thờ ñứng trước ñống ñồ (21),
có nên tháo dây buộc ra không. nghĩ không biết có nên tháo dây buộc ra nữa hay
không.
Ba bốn ngày lặng lẽ trôi qua.Vì phải sống trong
trạng thái vật vờ bất trắc như thế nên tôi cảm Tôi cứ trong tâm trạng thấp thỏm, ñứng ngồi
thấy ñứng ngồi không yên (22). Thế rồi thầy tôi không yên ấy, rồi ba bốn ngày cũng lặng lẽ trôi qua
lại ngất ñi lần nữa. Lần này, bác sĩ bắt ông phải (22). Thế rồi cha tôi lại ngất ñi lần nữa. Lần này,
hoàn toàn ngồi yên một chỗ (23). bác sĩ bắt ông phải tuyệt ñối nằm nghỉ ngơi hoàn
toàn (23).
Làm thế nào bây giờ?” (24). Mẹ tôi thì thào vào “Chẳng biết tại làm sao nhỉ?” (24). Mẹ tôi thì thào
tai tôi ñể cho thầy tôi khỏi nghe thấy. Trông bà vào tai tôi ñể cho thầy tôi khỏi nghe thấy. Trông bà
có vẻ hãi hùng và tuyệt vọng (25). Tôi tính ñánh có vẻ lo lắng như thế nào ñó (25). Tôi tính ñánh
ñiện tín cho ông anh cả và cô em gái ñể báo tin ñiện tín cho ông anh cả và cô em gái. Nhưng cha
cho hai người hay. Nhưng thầy tôi, lúc ñó ñang tôi nằm ñó (26) lại chẳng có vẻ gì ñau ñớn phiền
bị bó buộc phải nằm dài trên giường (26), lại muộn cả. Nhìn cái cách ông nói chuyện (27), thì
chẳng có vẻ gì ñau ñớn phiền muộn cả. Nhìn vẻ hoàn toàn giống như người bị cảm nhẹ mà thôi
mặt và nghe lời nói của ông (27), người ta (28). Thậm chí cha tôi còn ăn uống ngon miệng,
tưởng ông chỉ bị cảm lạnh qua loa chứ không có chẳng bỏ bữa nào. Nhưng ông lại chẳng dễ gì nghe
ốm ñau gì hết (28). Hơn nữa, thầy tôi lại còn những lời mẹ con tôi nhắc nhở (29).
221
- Ti
nguon tai.lieu . vn