Xem mẫu

  1. Trình bày nội dung của tư tưởng yêu nước và nhân nghĩa Việt Nam qua các thời đại: ạThời kì Văn Lang – Hùng Vương : (660 – 204 BC, 456 năm , 18 đời) Giai đoạn này, người Việt đã bước ra khỏi thời kì sơ sử, mà đã bước vào thời kì con người đã có kiến thức và quan điểm chính xác về nhân sinh quan, vũ trụ quan, nhận thức về âm dương, ngũ hành, tam tài ( thiên- địa- nhân). Hùng Vương quốc tổ đã chọn Phong Châu làm kinh đô, với một tổ chức hành chính khá hoan chỉnh. Đặc điểm nổi bật của xã hội ta lúc ban đầu là mỗi ông vua không có tên riêng và chỉ gọi chung là Hùng Vương thứ nhất, Hùng Vương thứ hai... cho đến Hùng Vương thứ 18. Xây dựng được nguyên tắc đó không phải dễ nếu không có tinh thần vì nước vì dân, Tổ quốc trên hết, trước hết, đặt cái chung lên trên cái riêng, không có cái cá nhân chủ nghĩa. Khác hẳn với xã hội Trung Hoa- một tổ chức phong kiến, cha truyền con nối, có tước có lộc, có chức vụ hẳn hoi trong triều đình và ngoài xã hội, có phân biệt rõ ràng các giai cấp, không được phép lẫn lộn.Xã hội Giao Chỉ thời Hùng Vương nói chung là công xã thị tộc có tổ chức cao, còn mang tính dân chủ tự do.Vua quan và dân cùng cày ruộng, tắm sông, cùng múa hát. Ngôi vua không nhất thiết phải truyền cho con mà vẫn có thể truyền cho người có đức có tài qua thi tuyển ( còn di tích của chế độ mẫu hệ, phụ nữ có quyền có nhiều chồng, nên vua không nhất thiết phải truyền ngôi cho con, nên trong truyền thuyết không thấy có hoàng hậu của vua Hùng mà chỉ có con gái của vua có tên chung là Mị Nương). Người thời Hùng Vương chưa có họ, theo văn hóa trọng tình, thờ cúng người chết là một đạo riêng của người Giao Chỉ đã xuất hiện.Các vua Hùng đã là những người có học thức và biết chữ Hán.Chính ngay từ thời đại này, các nền tảng chính trị tư tưởng yêu nước; dân chủ; nhân đạo; tính bản địa sâu sắc trong nhận thức đã bắt đầu có nền móng vững vàng và đã được định hình rõ nét qua một loạt các thần thoại, truyền thuyết trước và trong giai đoạn Văn Lang, có sức sống vĩnh cữu trong lòng dân tộc. Thần thoại họ Hồng Bàng: là nơi phát tích của khái niệm niệm “đồng bào” (cùng một cái bọc mà ra) của Lạc Long Quân và Âu Cơ, nhấn mạnh rằng người Việt dù ở đâu trên lãnh thổ Việt Nam cũng đều có cùng một gốc; thần thoại Kinh Dương Vương cũng nói lên Việt và Hán cùng có chung một tổ tiên – đó là Viêm Đế họ Thần Nông, chứ không phản Hán là Hạ mà Việt là Man Di. -Về nguồn gốc họ Hồng Bàng của Tổ tiên ta rất cao đẹp. Theo tục truyền thì vua Đế Minh là cháu ba đời vua Thần Nông đi tuần thú phương Nam đến núi Nghĩa Lĩnh thuộc tỉnh Phú Thọ bây giờ gặp nàng tiên, lấy nhau đẻ con lấy tên là Lộc Tục. Sau Đế Minh phong cho Lộc Tục làm vua phương Nam xưng là KInh Dương Vương. -Kinh Dương Vương lấy con gái Động Đình Quân là Long Nữ đẻ ra Sùng Lãm nối ngôi làm vua xưng danh là Lạc Long Quân. -Lạc Long Quân lấy con gái vua Đế Lai tên là Âu Cơ đẻ một lần được một trăm quả trứng nở ra một trăm con trai. Lạc Long Quân bảo Âu Cơ “ Ta là dòng dõi Long Quân còn hậu là dòng dõi thần tiên, ăn ở lâu với nhau không được. Nay được trăm đứa con thì hậu đem 50 đứa lên núi, còn 50 đứa ta đem xuống bể Nam Hải” -Lạc Long Quân phong cho người con trưởng làm vua nước Văn Lang xưng là Hùng Vương. Đó là ông vua đầu tiên của họ Hồng Bàng. -Kinh Dương Vương là một nhân vật có tâm tính cao thượng và độ lượng hiếm có là một vị vua có công dẫn bộ lạc vượt qua sông Dương Tử xuống vùng đồng bằng phì nhiêu để xây dựng nền văn minh nông nghiệp. Vua đã ý thức được 3 tài nguyên cơ bản của trời ( khí hậu, thời tiết, ngày đêm), đất và sức người để tự đặt cho mình cái tên Vương là thông minh thấu suốt thiên nhân địa ấy. Cái bản của nền văn minh nông nghiệp của người Bách Việt. Chữ Việt này là biểu tượng sự sinh sôi nảy nở của dân tộc ta, quả có nhiều hột ( Bách). Tượng hình cái quả ấy chính là chữ Việt mà người Việt thường dùng chứ không phải là chữ Việt chiết tự như người Tàu xuyên tạc, bôi nhọa nước ta. Thật vậy, nói đến chọn tên đặt, người Việt xưa rất thận trọng, đặt tên ít ra phải nói lên ý nguyện cuả mình hoặc phải có một ý nghĩa gì. Thí dụ: Đế Minh chứng tỏ là người có sự thông hiểu triết lý, người chỉ huy sáng suốt, yêu dân, yêu nước; Lộc Tục là người sáng suốt và thương yêu dân như con đẻ thì phải lo kinh tế cho dân, lo sau cho lộc cõi trời trên mặt đất còn mãi để nuôi lấy con dân. Bởi vậy, khi Lộc Tục làm vua xưng là Kinh Dương Vương. Kinh là đường thẳng, Dương là ánh sáng, Vương là sự thông suốt Thiên- Nhân Địa; Sùng Lãm, Lãm là ngắm, Sùng là cao xa bao quát. Sùng Lãm là con người có mắt nhìn xa trông rộng. Sùng Lãm
  2. xưng là Lạc Long Quân. Lạc Long Quân- Lạc là con sư tử, Long là rồng. Dòng dõi của rồng tượng trưng cho năng lực hiền diệu, lớn được, nhỏ được, biến được, hóa được. Khi lớn thì làm mây làm mưa, khi nhỏ thi ẩn bóng dấu hình, khi ẩn khi hiện trong bất cứ hoàn cảnh nào rồng cũng thích ứng cho nên rồng tượng trưng cho sự bất diệt, tồn tại mãi mãi. Còn chữ Hồng Bàng có nghĩa là ý thức của con người như chim bay giữa không gian và thời gian, bay không có thời gian và cây số. Chữ Hồng Bàng chiết tự từ chữ Hán, Bàng là ngôi nhà lớn tượng trưng cho không gian. Chữ Hồng, một bên có chữ giang là sông- tượng hình cho thời gian luôn luôn chảy và chữ điểu một bên là chim, tượng hình cho ý thức.Nhìn lại, tổ tiên ta đã nghĩ ra những cái tên thật có ý nghĩa và thông hiểu mọi sự trên đời đã cách đây gần 5000 năm. Và tổ tiên ta bằng ngần ấy thời gian đã đóng góp cho sự tồn tại vì hòa bình và phát triển, xây đắp trên cơ sở tình nhân ái, tính cộng đồng. Mầm mống của nền văn minh Việt Nam mà tổ tiên ta để lại thật không thể có tưởng tượng nào cao đẹp hơn, lý thú hơn tượng hình một bọc trăm trứng nở thành trăm con, sau này sinh hóa ra toàn thể con dân Việt Nam. Cùng trong một bọc sinh ra không có kẻ trước người sau, trăm trưng đều thụ hưởng cùng tình yêu thương rộng rãi như Trời Đất bao la hùng vĩ. Trăm người con sống chung với nhau, một mà là trăm, trăm mà là một, kẻ ở trên núi cao, kẻ ở dưới biển sâu không chỉ là một gốc rồi chia ra ngành lớn, ngành nhỏ, nhánh đầy nhánh vơi mà là chung cùng một bọc. Từ khởi đầu cho đến Hùng Vương thứ 18 không có việc tranh chấp địa vị, không chém giết nhau vì đất đai, không ganh ghét nhau vì quyền lợi. Không cần chờ đến lúc xung khắc để ghét nhau, biết tiên liệu trước sự việc như không ở được với nhau lâu thì chia con ra mà đi mỗi người một phương để giữ nguyên vẹn cái tình với nhau (như Lạc Long Quân), không biết lấy cớ gì để giải bày nổi oan khi thấy anh về thì thà chết còn hơn(như em nhà họ Cao);nhẫn nhục chịu đựng(như Chử Đồng Tử);lấy nghĩa cha con làm trọng(như Chử Đồng Tử)lấy tình vợ chồng thì hơn(như cây trầu và cây cau).Những sản phẩm nói trên không đơn thuần là trí tưởng tượng mà là hồi quang của hiện thực xã hội Việt Nam ,Tổ tiên ta ngày trước.Có thể nói những câu chuyện về thời đại Hùng Vương là một thể sử thi trong thời đại lập quốc. Thần thoại sơn thần núi Tản (thần Tản Viên, thần núi Ba Vì, Sơn Tinh): Tương truyền đây là một trong 50 vị thần theo cha xuống biển, sau đó nhớ mẹ, thần đã qua cửa Thần Phù, ngược sông Hồng lên ngự đỉnh Ba Vì, trở thành vị đệ nhất phúc thần của người Việt khi thần đã đảm nhiệm công việc trông nom cuộc sống của dân, cứu dân khỏi nạn yêu tinh, bệnh hoạn đói khổ. Thần còn là con rể vua Hùng, người đã chiến thắng Thủy Tinh (đại diện cho thế lực mưa lũ, lụt lội). Truyền thuyết Thánh Gióng: cho thấy tư tưởng yêu nước là sợi chỉ đỏ xuyên suốt cuộc hành trình của tư tưởng Việt Nam: yêu nước là dựng nước và giữ nước. Thánh Gióng mang đậm màu sắc Việt Nam, không phải là một vị thần bạo lực như kiểu thần phương Tây. Sức mạnh của Gióng là sức mạnh gom góp lại của toàn dân tộc (ăn cơm của cả làng). Đứa trẻ trong nôi 3 năm vụt trưởng thành trong trách nhiệm của người anh hùng, tiếng nói đầu tiên là tiếng nói yêu nước. Tiếng nói yêu nước ấy chính là nền tảng cho sức lớn phi thường, tiếp nhận thêm sức mạnh dân tộc, trở thành con người kì vĩ sau một cái vươn vai.tầm vóc kì vĩ ấy đủ sức đáp ứng cho một nhiệm vụ cực kì khó khăn, nhưng cả thiên nhiên, đất nước đều cùng ủng hộ ( ngựa sắt, roi sắt, tre ngà...). Xong nhiệm vụ, thần bỏ áo mũ bay lên núi Sóc Sơn rồi biến mất, thể hiện tinh thần vô vị lợi tong sáng trong chủ nghĩa yêu nước Việt Nam. Các sự tích Bánh Dày- Bánh Chưng, Trầu Cau, Mai An Tiêm, Phật mẫu Man Nương... thể hiện các nhận thức về mối quan hệ của con người và vũ trụ. Đặc biệt, các thần thoại, các sự tích về sau thường có liên quan đến cuộc sống dời thường và những vấn đề về ý thức của con người trong quan hệ gia đình, xã hội của con người trong cuộc sống ( vợ chồng, anh em, cha mẹ, con cái...) Tư tưởng yêu nước của người Việt Cổ: -Tự hào về nguồn gốc cao quý của mình.-Tự hào về nền văn hiến của đất nước mình. -Người Việt là con cháu của những thân linh có chiến công hiển hách trong việc tiêu diệt các thế hệ đen tối làm hại đến đời sông nhân dân (lực lượng quân đánh ngư tinh, hồ tinh, mộc tinh...)-Yêu nước bảo vệ đất nước trước những thế lực ngoại xâm. -Khai phá các giống vật lạ cho đất nước. ớThời kỳ Lý -Trần: (1010 – 1399) Từ thế kỷ X (939) đến hết thế kỷ XIV(1399) là thời kỳ phục hội và xây dựng đất nước, nó trải dài qua năm triều đại:Ngô, Đinh, Lê, Lý, Trần, trọng đó quan trọng nhất là thời Lý - Trần(1010-1399). Đây là thời kỳ các xu hướng tư tưởng triết học Việt Nam hình thành và phát triển gắn liền với những chiến công xây dựng
  3. và bảo vệ đất nước. Nhìn chung, trong giai đoạn này, hai khuynh hướng tư tưởng quan trọng đã xuất hiện trong sự vận động và phát triển của tư tưởng Việt Nam là tư tưởng chính trị xã hội gắn liền với quá trình dựng nước và giữ nước( thể hiện tập trung qua tư tưởng yêu nước và tư tưởng phật giáo mang màu sắc ViệtNam trong giai đọan này). Chủ nghĩa yêu nước, tinh thần chiến đấu dũng cảm để bảo vệ tổ quốc cũng như những giá tri tinh thần của tổ quốc hòa quyện vào trong ba luồng tư tưỏng Nho, Phật, Lão.Nét đặc biệt: bản địa hóa sâu sắc; kết hợp chặt chẽ với tinh thần yêu nước, tư tưởng tự chủ, độc lập dân tộc, người Việt Nam không tách rời những yếu tố này khỏi tam giáo.  Ảnh hưởng của tư tưởng Phật giáo Sau khi giành độc lập, các triều đình phong kiến Việt Nam trong giai đoạn đầu ( nhất là Lý-Trần) đều tôn trọng Phật giáo. Thời Lý, bản thân vua xuất thân từ chùa(Lý Công Uẩn). Phật giáo gần như là quốc giáo. Đây là thời kỳ xuất hiện của các cao tăng Việt Nam có tầm lịch sử, tiêu biểu như Giác Hoàng Trần Nhân Tông, người đã sáng lập ra phái thiền Trúc Lâm. Các thiền sư có vai trò đặc biệt sư Vạn Hạnh, Minh Không, Không Lộ, Mãn Giác(có những bài thơ thiền, xuân đáo, bách khoa lạc...). Dấu ấn của Phật giáo trong văn hóa Việt Nam vô cùng sâu sắc, bởi nó đáp ứng được cả hai nhu cầu, vừa nhân văn vừa siêu việt.Tư tưởng Phật giáo trong thơ văn Lý - Trần chủ yếu là tư tưởng của phái Thiền tông. Nó bao gồm các tác phẩm về triết học và những cảm hứng Phật giáo, cùng là những tác phẩm về lịch sử Phật giáo thời Lý - Trần. Nhiều bài thơ phú, kệ, minhdo các sư tăng trí thức viết, bàn về các khái niệm sắc - không, tử - sinh, hưng - vong, quan hệ giữa Phật và Tâm, đạo và đời, con người và thiên nhiên, phản ánh sự minh triết và niềm lạc quan của cá nhân trong cuộc sống và thời đại. Sư Mãn Giác để lại những câu thơ nổi tiếng về cảm hứng đó."Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận,Đình tiền tạc dạ nhất chi mai"(nghĩa là : Chớ tưởng xuân tàn hoa rụng hết,Đêm qua sân trước nở cành mai)Một số nhà vua và quý tộc sùng Phật đã biên soạn những tác phẩm về giáo lý nhà Phật như các cuốn Khóa hư lục, bài Thiền tông chi nam của Trần Thái Tông, Thiền lâm thiết chủy ngữ lục của Trần Nhân Tông, Tuệ trung thượng sĩ ngữ lục của Trần Tung.Dòng thơ văn yêu nước, dân tộc cũng đã giữ một vị trí rất quan trọng trong thơ văn Lý - Trần. Nó phản ánh tinh thần bất khuất, anh dũng chống giặc, lòng trung quân ái quốc cũng như lòng tự hào dân tộc qua những cuộc kháng chiến chống ngoại xâm. Thuộc loại này có thể kể bài thơ Nam quốc sơn hà của Lý Thường Kiệt, Hịch tướng sĩ của Trần Quốc Tuấn, bài Phú sông Bạnh Đằng của Trương Hán Siêu, hoặc những bài thơ của vua tôi nhà Trần trong cuộc kháng Nguyên như 2 câu thơ nổi tiếng của Trần Nhân Tông: "Xã tắc lưỡng hồi lao thạch mã,Sơn hà thiên cổ điện kim âu”.(Xã tắc hai phen chồn ngựa đá.Non sông ngàn thuở vững âu vàng)Một số tác phẩm đã nói lên ý thức tìm về cội nguồn, sưu tập những truyền thuyết, thần tích nói về lịch sử và nhân vật lịch sử thời quốc sơ Văn Lang - Âu Lạc cũng như các thời kỳ sau. Hai tác phẩm tiêu biểu là Việt Điện u linh của Lý Tế Xuyên và Lĩnh Nam chích quái của Trần Thế Pháp. Tư tưởng triết học Phật giáo Việt Nam thế kỷ X – XIV : Triết học Phật giáo thời kỳ này tập trung ở hai vấn đề: bản thể và con đường trở về bản thể. -Bản thể luận:Thiền phái Tì Ni Đa Lưu Chi đã có một loạt khái niệm có tính chất bản thể như “thể”, “diệu bản”, “chân tính”, “chân thân”, “pháp tính”, “hư vô”, “tâm ấn”,...Bản thể là bất sinh, bất diệt, không được không mất. Dòng Vô Ngôn Thông còn dùng những khái niệm sau để chỉ bản thể: “chân như”, “phật tính”, “ pháp thân”, “hư không”. Các quan niệm này được thể hiện và sáng tác của các thiền sư nổi tiếng thời kì này. “Con người là kẻ ăn mày và không biết mình là một hạt minh châu mai giấu trong lai áo và hạt minh châu đó chính là bản thể.” Thời Lý Trần có nhiều minh quân, quan chức vừa đạo đức vừa anh hùng. Có song hành thì bảo vệ đất nước (bản thân Trần Thái Tông, Trần Nhân Tông đều cầm quân đánh giặc xâm lăng). Vua Thái Tông bộc bạch: “Miễn cưỡng trở lại triều mà lên ngôi báo. Ròng rã 10 năm trời mỗi khi có việc nước nhàn rỗi, trẫm lại tụ họp các bậc kỳ đức để học đạo thiền... Trong phổ khuyến phát bồ đề tâm, về bản chất của cuộc đời ngày viết : “rõ ràng thời gian trăm năm, toàn ở trong sát na, thân huyển tư đại đâu thể lâu dài. Mổi ngày chìm đắm trong trần lao, mỗi lúc nghiệp thức cáng mênh mong vô tận. Công danh cái thế là một trường đại mộng, phú quý kinh nhân khó thoát vô thường hai chữ. Tranh nhân tranh ngã rốt cuộc thành không, khoe giỏi khoe hay cứu cánh chẳng thật...”  Tính giả tạm và mong manh của mọi khái niệm ở thời gian: Hoàng thân Tuệ Trung thượng sĩ cũng tu thiền sau khi tham gia bảo vệ đất nước. Thơ văn của ngài thể hiện sự đạt đạo, thấu suốt những nguyên lý vê bản thể :
  4.  Ý định triết lý phật pháp của thời gian: Tâm tức Phật, Phật tức tâm Bỏ vọng tâm, giữ chân tánh Linh diệu chiếu cùng kim cổ thông Khác nào tìm ảnh mà quên kính Xuân đến, tự hoa xuân mỉm miệng Nào hay ảnh vốn tự gương ra Thu về, đâu chẳng nước thu trong Chẳng biết vọng do từ chân hiện... Hay bài “Đăng Bảo đài sơn” của Giác Hoàng Trần Nhân Tông, vị sư tổ của phái thiền Trúc Lâm Yên Tử là một phối hợp đẹp giữa giác ngộ và tiêu dao trong không gian đậm đà bản sắc Việt Nam :  Thái độ sống không nhủ lòng: Đất vắng đài thêm cổ Muôn việc nước xuôi nước Ngày qua xuân chửa nồng Trăm năm lòng nhủ nồng Gần xa mây núi ngất Tựa lan, nâng ống sáo Nắng rợp ngõ hoa thông Đầy ngực ánh trăng trong. Cuối bài của “ Cư trần lạc đạo phú” của Trần Nhân Tông cũng vậy : Cư trần lạc đạo thả tùy duyên Gia trung hữu bảo hưu tầm mích (Sống tùy duyên, không xao động chân tâm) (Trong nhà có vật quý còn đi kiếm ở đâu) Cơ tắc xan hề khốn tắc miên Đối cảnh vô tâm mạc vấn thiền (Nhất định rằng tất cả các Pháp đều do tâm mà ra)( Đứng trước cảnh mà vô tâm thì còn hỏi thiền làm chi nữa ) “Nhất thiết chư pháp giai tòng tâm sinh” là quan điểm duy tâm theo đúng nghĩa của nó. Quan điểm này chi phối toàn bộ Phật giáo Viêt Nam thời Lý Trần và cả sau này. Ở Trần Thái Tông, bản thể còn là “ Bồ đề giác tính”, “Bản lai diện mục” (là khuôn mặt suốt đời của mình  tứ hay nhất dể chỉ bản thể . Những cái này ai ai cũng có nhưng vì tham sân xi mà đánh mất chúng.Tuệ Trung Thượng Sĩ( 1230 – 1291) đã dùng khái niệm“ bản thể” và cho rằng “bản thể như nhiên tự không tịnh”. Như vậy, bản thể tự không tịnh, tồn nhiên như nhiên, hồn nhiên muôn đời, chẳng được chẳng mất. Ông còn nói : “Bản thể như như chỉ tự nhiên”, tức bản thể là cái tự nhiên như thế là như thế, không phải cầu ở đâu cả. Để chỉ bản thể, Trần Nhân Tông dùng khái niệm “ bản” vì khuây bản( quên mất gốc ) nên mới tìm Bụt vì Bụt ở trong nhà, chẳng phải tìm xa. Và bản cũng chính là tâm, lòng, Phật, báo vật trong mỗi người mà họ không biết. Phật, Tịnh độ là lòng trong sạch. Nếu ở Trần Thái Tông dùng Bồ đề giác tính thì Trân Nhân Tông dùng tính sáng, đối lập với vô minh. Ông kêu gọi trở về một lòng nhất tâm. -Con đường trở về bản thể: là con đường tụ tập, diệt bỏ vọng tưởng tham- sân- si để tìm lại giác tính. trở về bản thể bằng con đường tu tập giới- định- tuệ . Để trở về bản thể, Trần Thái Tông đưa ra hệ thống luyện tập gọi là “ lục thì xám hối khóa nghi tự” chia một ngày đêm làm sáu buổi , mỗi buôi xám hối một căn, hết ngày này qua ngày khác, tháng này qua tháng khác, dần dần nó biến tâm hành giả thành hư vô- cái bản thể nó không thể hiện ở mỗi con người. Để trở về bản thể, thượng sĩ dùng phương pháp vong nhị kiến, buông bỏ tất cả ( phá chấp) từ đó sẽ có một cuộc sống ung dung tự tại ( phóng cuồng). trở về bản thể đối với Trần Nhân Tông là phải đến một lòng, nhất tâm, nhiệt vô minh ( giữ tính sáng). Tuy nhiên, trong thực tế tồn tại, phật giáo Việt Nam không bao giờ tồn tại như một xu hướng xuất thế tuyệt đối, mà ngược lại, có khi còn mang tính xã hội cao. Các thiền sư nổi tiếng thời Lý Trần thường tham gia chính trị và có khi đóng vai trò hoặc giữ trọng trách khá cao trong những công việc quan trọng của đất nước (nuôi dạy vua, đối ngoại, tư vấn cho triều đình ... như Vạn Hạnh, Đa Bảo...) Ảnh hưởng của tư tưởng Nho giáoTrong lịch sử truyền bá đầy phức tạp và mâu thuẩn, nho giáo nguyên thủy cũng không giữ được tính chất dân chủ và lý tưởng của nó hồi đầu, mà nó được biến thể, nhào nặn nên có rất nhiều thứ nho giá khác nhau, nhưng quan trọng nhất của bản lĩnh Việt Nam trong sự tiếp nhận Nho giáo chính là sự phát triển của nhận thức bảo vệ nhà nước phong kiến Việt Nam gắn bó chặt chẽ với tư tưởng nhân trị mang màu sắc bản địa Việt Nam. Sự phát triển này được đánh dấu bằng sự hình thành chủ nghĩa yêu nước Việt Nam thời phong kiến, thể hiện qua những mốc quan trọng là: Chiếu dời đô của Lý Công Uẩn năm 1010. Nội dung của bài chiếu đề cập đến ý định dời đô từ Hoa Lư ra Thăng Long. Việc dời đô gắn liền với việc dựng nước và phát triển vững bền cho đất nước. Mà dựng nước cũng có nghĩa là cũng cố và duy trì độc lập dân tộc. Chiếu dời đô cũng đánh dấu một bước phát triển
  5. quan trọng của dân tộc ta về những vấn đề kinh tế, chính trị, văn hóa trong mối liên quan của nó với tiền đề của đời sống thực tiễn.Tư tưởng bản địa của Lý Công Uẩn: + Sự quan sát chính lịch sử của mình. + Lý do dời đô chính là vị trí “địa lợi” hiển nhiên của chính đất Thăng Long + Việc dời đô là sự tồn tại yên ổn, hạnh phúc cho nhân dân. + Câu hỏi “ các người thấy thế nào?”  gần gũi với dân thể hiện sự hoài hòa bình đẳng.Bài thơ thần của Lý Thường Kiệt: Những cuộc chiến thắng oanh liệt của quân và dân ta đối với đội quân xâm lược phương Bắc (Ngô Quyền đánh tan quân Nam Hán, Lê Hoàn đánh tan quân Tống nhà Lý còn sang tận đất Tống chủ động đánh địch khi địch tiến hành xâm lược nước ta, đặc biệt là ba lần đánh tan quân Nguyên của nhà Trần) đã thổi một luồng sinh khí mới vào tư tưởng yêu nước, đã làm cho ý thức cộng đồng và lòng tự hào dân tộc có bước phát triển mới... Điều này thể hiện rõ qua bảng tuyên ngôn độc lập đầu tiên của nước ta, bài “ Nam quốc sơn hà”. Ở đây vấn đề độc lập chủ quyền được trịnh trọng tuyên ngôn một cách đanh thép. Đây là bảng tuyên ngôn độc lập đầu tiên đã ra đời, khẳng định nước ta có vua ( Nam đế ) ngang hàng với Hoàng đế phương Bắc. Quyền độc lập, tự chủ, bình đẳng giữa các nước là một điều thiêng liêng bất khả xâm phạm, hiển nhiên không một ai chối cãi đựơc. Bất cứ kẻ thù nào động chạm tới nền độc lập tự chủ ấy đều không tránh khỏi chuốc lấy thất bại thảm hại.Nam quốc sơn hà nam đế cư(Sông núi nước Nam, vua nam ở). Tiệt nhiên định phận tại thiên thư(Rõ ràng phân định tại sách trời) Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm(Cớ sao lũ giặc sang xâm phạm) Nhữ đẵng hành khang thủ bại hư(Chúng bây sẽ bị đánh tơi bời). Tư tưỏng Trần Quốc Tuấn qua Hịch tướng sĩ: nhằm xây dựng những tư tưởng đúng đắn , những phẩm chất cao đẹp nằm trong ý thức về đất nước, về dân tộc, làm nền tảng cho nhận thức về tinh thần chiến đấu bảo vệ đất nước, chống tinh thần cầu an hưởng lạc. Điều quan trọng nhất là ông đã biến những khái niệm đạo đức như vinh dự, sĩ nhục, anh hùng của Nho học trở thành một khối thống nhất với tinh thần yêu nước mang đậm sắc thái của hào khí Đông A. Những tư tưởng chính trị quân sự của Trần Quốc Tuấn phản ánh những quy luật cơ bản của cuộc chiến tranh giữ nước không phải chỉ ở thời Trần mà còn có nghĩa phổ biến cho mọi cuộc chiến tranh giữ nước về sau của dân tộc Việt Nam. Từ thời Trần những tư tưởng về sự lâu dài ( Vạn Xuân) của giang sơn đất nước, của núi sông nước Đại Việt ngày càng được khẳng định. Chính lòng tự hào dân tộc, chủ nghĩa yêu nước đã tạo nên những chiến công hiển hách trước quân Tống, quân Nguyên. Và sự chiến thắng Tống- Nguyên làm nức lòng mọi người, đưa lòng tự hào dân tộc và chủ nghĩa yêu nước Đại Việt lên một bước mới. - “Hịch Tướng Sĩ” nêu những tấm gương tốt ( trung thần nghĩa sĩ) trong lịch sử Trung Quốc xưa va nay: “ ta thường nghe: Kỉ Tín đem mình chết thay, cứu thoát cho Cao đế; Do Vu chìa lưng chịu giáo, che chở cho Chiêu Vương; Dự Nhượng nuốt than báo thù cho chủ. Thân Khoái chặt tay cứu nạn cho nước; Kính Đức một chàng tuổi trẻ, thân phò Thái Tông thoát khỏi vòng vây Thế Sung, Cảo Khanh, một bề tôi xa, miệng mắng Lộc Sơn, không theo mưu kế nghịch tặc. Từ xưa, các bậc trung thần nghĩa sĩ, bỏ mình vì nước, đời nào không có?” - Trình bày nỗi lòng Trần Quốc Tuấn: “ ta thường tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối, ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa; chỉ căm tức chưa xả thịt lột da, nuốt gan uống máu quân thù. Dẫu cho trăm thân này phơi vào nội cỏ, nghìn xác nayày gổi trong da ngựa ta cũng cam lòng”. Ý nghĩa: giá trị của thái độ sống tích cực, nêu rõ quan hệ giữa nướ và nhà, xác định lại lập trường của mình kêu gọi lòng yêu nước Tư tưởng nho giáo thời Lý Trần được bản địa hóa, dược Việt Nam hóa một cách sâu sắc mà yếu tố dân chủ, nhân đạo trong yếu tố nông nghiệp lúa nước phương Nam. Tư tưởng nho giáo trong bài hịch được Việt Nam hóa những điểm:-Quan niệm quân thần được xác lập một cách dân chủ và bình đẳng.-Yêu tố dân chủ và nhân nghĩa của nền nông nghiệp lúa nước phương Nam.- Tư tưởng yêu nước nhân nghĩa dân tộc và gắn bó chặt chẽ với nho giáo. Tư tưởng nho giáo thời kì này dược Việt nam hóa sâu sắc( theo tinh thần) bằng yếu tố dân chủ nhân đạo trong văn hóa nông nghiệp lúa nước phương Nam. Những nét lớn của tư tưởng Nho giáo Việt Nam thời kì này
  6. Lòng tự hào dân tộc, ý chí độc lập tự cường, chủ nghĩa yêu nước còn được thể hiện ở những tư tưởng sáng suốt của các minh quân thời kì Lý-Trần. Yêu nước gắn liền với thương dân , các triều Lý Trần đều coi “ý dân”, “lòng dân”là cơ sở của mọi quốc sách. Trong Chiếu dời đô, Lý Công Uẩn khắng định: “Trên vâng mệnh trời, dưới theo ý dân, thấy thuận tiện thì thay đổi, cho nên vận nước lâu dài, phong tục phồn thịnh”. Trần Quốc Tuấn đưa ra chính sách Khoan thư sức dân để làm kế sâu gốc bền rễ, đó là thượng sách để giữ nước. Lòng thương dân còn được biểu hiện ở việc phát chuẩn thóc hoặc giảm thuế khi mất mùa. Không chỉ thương dân mà còn tôn trong dân, phát huy sứ mạnh của dân. Điều đó thể hiện qua hội nghị Diên Hồng, hội nghị Bình Than đời Trần.Chủ nghĩa yêu nước còn được thể hiện trong khí tiết khảng khái của các anh hùng thời Lý Trần. Trần Quốc Tuấn trước vua tuyên bố “Bệ hạ hãy chém đầu tôi trước rồi hãy đầu hàng”. Trần Bình Trọng bị bắt vẫn hiên ngang thét vào mặt quân thú: “Ta thà làm quỷ nước Nam chứ không làm Vương đất Bắc”.Yêu nước có nghĩa là lấy ý muốn của dân làm ý muốn, mong muốn của mình(Dĩ thiên hạ chi dục vi dục, dĩ thiên hạ chi tâm vi tâm). Đó cũng là tư tưởng của ông Vua, vị thiền sư, nhà Phật tử Trần Thái Tông. Qua đây, ta thấy chủ nghĩa yêu nước thời Lý Trần cũng mang đậm sắc thái ảnh hưởng của Phật giáo. Điều này cũng đúng với sự hình thành, phát triển tư tưởng triết học ở thời kỳ lịch sử này và khác với chủ nghĩa yêu nước Việt Nam ở những giai đọan sau. ọThời kỳ Lê sơ: (TK XV)Thời Lê Sơ trị vì đất nước ta trong vòng 100 năm (1428-1527), trải qua 10 đời vua, bao gồm:- Lê Thái Tổ(1428-1433)- Lê Thái Tông(1434-1442)- Lê Nhân Tông(1443-1459)- Lê Thánh Tông(1460-1497)- Lê Hiến Tông(1497-1504) - Lê Túc Tông(1504)- Lê Uy Mục(1505-1509) - Lê Tương Dực(1510-1516)- Lê Chiêu Tông(1516-1522)- Lê Cung Hoàng(1522-1527) Trứơc khi chấm dứt thế kỷ XIV, xã hội Việt Nam đã trải qua những biến động, bi thương (nhà Trần suy yếu, khủng hoảng chính trị, loạn lạc, đói kém, mất mùa...Cuối thế kỷ XIV tể tướng Hồ Qúy Ly đã thực hiện nhiều cải cách về hành chính, kinh tế (như phép hạn điền, hạn nô, cải cách tiền tệ, cho phát hành tiền giấy, tấn công Phật giáo, bắt nhà sư chưa tới 50 tuổi phải hoàn tục...). Tuy nhiên, những cải cách này không thuận với nhân tâm lúc đó, và còn nhiều hạn chế. Năm 1400 nhà Hồ thay thế nhà Trần, và xã hội Đại Việt vẫn tiếp tục khủng hoảng. Năm 1406 giặc Minh xâm chiếm nước ta. Cuộc kháng chiến chống ngoại xâm của nhà Hồ thất bại ngay sau vài tháng, chủ yếu vì không được lòng dâ. Quân Minh xâm chiếm Đại Việt đã thực hiện chủ trương một mặt biến nước ta thành quận huyện của Trung Hoa, mặt khác ra sức vơ vét của cải và khủng bố tàn sát người Việt mà Nguyễn Trãi đã nói trong Bình Ngô là “Gây binh kết oán trải 20 năm, bại nhân nghĩa nát cả càng khôn. Trong hơn mười năm (1407 – 1427) cuộc khởi nghĩa chống Minh đã thành công, bắt đầu thời kỳ Lê sơ.Phật giáo từ cuối thế kỷ XIV ngày càng suy yếu, bên cạnh đó là việc bị giới Nho gia đã kích nặng nề. Đạo giáo ở thời Lê cũng bị đã kích.Nho giáo trở thành luồng tư tưởng chính thống và độc tôn. -Nhận thức về bản thể: (giải thích vũ trụ, vạn vật, hiện tượng cuộc sống) chủ yếu là vay mượn.-Tinh thần yêu nước: ý thức cội nguồn, tự hào dân tộc, lãnh thổ, văn hóa - phong tục.-Tư tưởng nhân nghĩa: thương dân, đề cao giá trị con người, bảo vệ con người. Nói chung, thế kỷ XV là thế kỷ của chiến thắng. Chế độ phong kiến tập quyền đạt đến đỉnh cao với tư tưởng Nho giáo được dùng ở phương diện tích cực của nó. Giành được độc lập tự do chấm dứt 20 năm Minh thuộc, xây dựng nhà nước quân chủ thống nhất... đã tạo nên hùng khí thời đại, tác động sâu sắc đến sự hình thành nhận thức về con người và dân tộc trong mối quan hệ chặt chẽ với niềm tự hào về cộng đồng và với lịch sử. Cùng với việc củng cố nền độc lập dân tộc, nhà Lê sơ đã phân chia lại các khu vực hành chính, vẽ bản đồ cả nước và soạn ra luật pháp. Tuy không thể thiếu những khái niệm thiên đạo, thiên mệnh...nhưng nổi bậc nhất vẫn là nhận thức của con người thực tại với phẩm chất nhân ái, nhân nghĩa, trách nhiệm an dân, sức mạnh của dân, từ đó đi đến xây dựng niềm tin vào con người làm nền tảng cho việc phát triển tư tưởng độc lập dân tộc vẫn là yếu tố hàng đầu trong tư tưởng Việt Nam thế kỷ XV mà tập trung tiêu biểu nhất là tư tưởng Nguyễn Trãi được thể hiện thông qua các tác phẩm của ông. Một số vấn đề về tư tưởng Nguyễn Trãi Tư tưởng Nguyễn Trãi là tư tưởng Nho giáo được Việt Nam hóa, thời đại hóa, lịch sử hóa một cách sâu sắc và cụ thể.Tư tưởng Nguyễn Trãi thể hiện chủ yếu ở hai mặt: yêu nước và tư tưởng nhân nghĩa với đầy đủ những nội dung như nó. Tư tưởng Nho giáo thời Lê sơ ảnh hưởng tới khía cạnh đạo đức, ứng xử, văn học, còn khía cạnh triết học, triết lý thì rất hạn chế. Thắng lợi của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn đã đưa vấn đề con người, dân tộc nổi
  7. trội lên hàng đầu. Những điều đó sẽ dược nêu lên thông qua những tác phẩm của Nguyễn Trãi (Quân trung từ mệnh tập, Đại cáo bình Ngô, Ức Trai thi tập, Quốc âm thi tập, Dư địa chí,...). Nguyễn Trãi - nhà văn chính luận kiệt xuất mọi thời đại. Ông coi thơ là nơi gửi gắm, truyền đạt con mắt sự đời tinh tế để công phá quân giặc; là miền đất mơ ước mà ở đó tư tưởng nhân nghĩa, yêu nước, thương dân thấm nhuần vào hành động, xuyên suốt, chủ đạo như nguồn năng lượng hội tụ phát sáng kì diệu: "Trừ độc, trừ tham, trừ bạo ngược,Có nhân, có trí, có anh hùng"(Quốc âm thi tập) Trong thơ Nguyễn Trãi, hai tiếng "trung hiếu" và "ưu ái" như một lời nguyền vang vọng, trường tồn với năm tháng: Yêu nước, thương dân - danh là danh tổ quốc - lợi là lợi tổ quốc. Sống để cống hiến, suốt đời quên mình vì dân vì nước, vì tư tưởng "nhân nghĩa".Rạo rực, hùng hồn, sắc bén, đây "Quân trung từ mệnh tập" - vang dội khí phách, tinh hoa, cội nguồn dân tộc đây, mãi là áng "Thiên cổ hùng văn" ấy là Bình Ngô đại cáo... "Quân trung từ mệnh tập" tuy chỉ là một tập hợp gồm những thư từ gửi cho tướng giặc và những giao thiệp với triều đình nhà Minh của Nguyễn Trãi.... nhưng nó lại là tập văn chiến đấu "có sức mạnh bằng mười vạn quân" (Phan Huy Chú) với ngòi bút tinh thông, sắc sảo, biến hoá, nhất quán của mưu sư “viết thư thảo hịch tài giỏi hơn hết mọi thời” (Lê Quý Đôn). Mỗi bức thư là một khâu, một mắt xích quan trọng trong cả cuộc luận chiến kéo dài giữa ta và địch, là sự kết hợp tuyệt diệu giữa lý lẽ lúc thâm thuý, ý nhị, lúc biến hoá, sắc sảo đến gai góc, tài tình với tư tưởng yêu nước, thương dân đã tạo cho “sức mạnh của ngòi bút Nguyễn Trãi được nhân lên, cú đánh nào của ông cũng trúng đích” (Nguyễn Huệ Chi). Nếu văn đàn Việt Nam đã từng gặp mối giao thời lịch sử và văn học sáng rọi giữa Nam Quốc Sơn Hà với chiến thắng trên sông Như Nguyệt của Lý Thường Kiệt hay Hịch tướng sĩ với chiến thắng chốg quân Nguyên lần thứ II thì Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi là sự lặp lại một lần nữa mối giao thời rực rỡ, huy hoàng ấy. Đó là sự kết hợp hài hoà giữa cảm hứng chính trị và cảm hứng nghệ thuật đến mức kì diệu mà chưa một tác phẩm chính luận nào đạt tới, là áng văn yêu nước sáng chói non sông, thời đại - một “thiên cổ hùng văn” không tiền khoáng hậu. Tác phẩm chính là bản tuyên ngôn độc lập, bản cáo trạng hùng hồn tội ác của kẻ thù, là khúc tráng ca về cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Với Nguyễn Trãi, nhân nghĩa phải gắn liền với chống quân xâm lược, bảo vệ quê hương, lo cho dân cuộc sống “thái bình, thịnh trị”, “xã tắc từ đây vững bền” ; lòng tự hào dân tộc sâu sắc:“Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân,Quân điếu phạt trước lo trừ bạo”.(Bình Ngô đại cáo)Lắng sâu trong Bình Ngô đại cáo là dòng máu lúc bừng lên, sôi sục lòng tự hào dân tộc nhiệt huyết, lúc âm vang, giận dữ, uất hận trào sôi, lúc nghẹn ngào, tấm tức … Nguyễn Trãi luôn ước vọng nhà nước phong kiến sẽ lấy nhân nghĩa để “trị dân”, “khoan dân” cho viễn cảnh quê hương đất nước tươi đẹp hiện ra tươi sáng, huy hoàng, rực rỡ hơn:“Bốn phương biển cả thanh bình, ban chiếu duy tân khắp chốn”. Giọng văn chính luận của Nguyễn Trãi đã đạt tới mức độ nghệ thuật mẫu mực từ cách xác định đối tượng, mục đích để có biện pháp khéo léo tạo nên kết cấu sức bén, nhất quán. Với tài năng, đức độ cùng những việc mà Nguyễn Trãi đã làm và cống hiến cho dân tộc, ông xứng đáng là một nhà cải cách vĩ đại, nhà tư tưởng lớn, một danh nhân văn hoá thế giới. Phạm Văn Đồng đã nhận xét: “Đối với Nguyễn Trãi, yêu nước là thươn dân, để cứu nước phải dựa vào dân và cứu nước để cứu dân, đem lại thái bình cho nhân dân.” Quan niệm về quốc gia, dân tộc ở Nguyễn Trãi đã tiến lên một bước quan trọng khi ông xác định “Quốc” bằng lãnh thổ, văn hòa, phong hóa và lịch sử.(Tư tưởng yêu nước qua “ Cáo Bình Ngô”).Về lãnh thổ, ông cho rằng ngay từ xưa Giao Chỉ đã không phải là lãnh thổ của Trung Quốc, ở ngoài cương giới Trung Quốc. Ông chỉ rõ: “Nước An Nam xưa bị Trung Quốc xâm chiếm là từ Tần, Hán trở đi. Phương chi trời đã phân cách Nam Bắc có núi cao sông lớn, bờ cõi rành rành”.Về văn hiến, theo ông, tuy An Nam ở ngoài Ngũ Lĩnh mà có tiếng là nước thi thư, những bậc trí mưu tài giỏi đời nào cũng có. Về phong, tập quán là hoàn toàn khác Trung Quốc từ hàm răng mái tóc, cách thức ăn mặc cho đến cưới sinh, ma chay, giổ tết, đình đám, hội hè, cách làm ăn sinh sống. Ông nói: “Người nước Việt không được bắt chước ngôn ngữ và y phục các nước Ngô, Chiêm, Lào, Xiêm, Chân Lạp để làm loạn phong tục trong nước” (Dư địa chí). Lịch sử dân tộc ta rất oai hùng qua nhiều triều đại với những hoàng đế riêng và nhiều anh hùng hào kiệt. Nước ta là một quốc gia độc lập. Ai xâm phạm tới, trước sau sẽ chuốc lấy sự thất bại.“Xét nước Đại Việt ta,Là một nước văn hiến,Bờ cõi sông núi đã riêng,Phong tục Bắc Nam cũng khác,Trải Triệu, Đinh, Lý, Trần nối đời dựng nước,Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi đàng làm đế một phương,Tuy mạnh yếu có lúc khác nhau,Mà hào kiệt không bao giờ thiếu”.Đây là quan niệm rõ ràng và tương đối hoàn chỉnh về quốc gia dân tộc,
  8. về chủ quyền ngang hàng với phương Bắc của Nguyễn Trãi lúc bấy giờ. Đây cũng là bản tuyên ngôn độc lập hào hùng của dân tộc ta ở thế kỷ XV. Đặc điểm của tư tưởng nhân nghĩa trong tác phẩm của Nguyễn Trãi:Tư tưởng nhân nghĩa của ông luôn thiết tha, thường trực chuyển thành tâm trạng lo âu, bất an: “Bui một tấc lòng ưu ái cũ.Chẳng nằm thức dậy nẻo canh ba.”(Bảo kính cảnh giới – 1) “Bui một tấc lòng ưu ái cũ.Đêm ngày cuồn cuộn nước triều dâng.”(Thuật hứng – 5) Triết lý nhân nghĩa của Nguyễn Trãi tiềm ẩn như quặng quý mà ta cần phải khai thác, nhưng khi lộ thiên nó lại càng lấp lánh hơn bởỉ tư tưởng, tấm lòng yêu nước, thương dân sáng ngời.Rạo rực khí phách một thời của vị anh hùng nhưng “Bình Ngô đại cáo” hay “Quân trug từ mệnh tập”…. chỉ là chất thép bao bọc bên ngoài một tâm hồn, một trái tim biết đau nỗi đau thời thế, biết yêu, biết sống đẹp, sống vui. Là bậc anh hùng với lý tưởng cao cả nhưng Nguyễn Trãi xót xa và nghẹn ngào đau xót trước cảnh người dân bị tàn hại vô tội. Ông thương khóc cho “dân đen” đang rên xiết dưới gót giày quân giặc. Tình yêu thương đồng loại cao cả, vĩ đại lắm thay là một phần xương máu, tâm can của con người anh hùng ấy!“Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn.Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ” Nguyễn Trãi vốn là con người trung thực, ngay thẳng, yêu lẽ phải và sự công bằng nên nỗi đau xót, buồn rầu, chua chát về thời thế đen bạc, lòng người đổi thay là điều hiển nhiên:“ …. Càng một ngày càng ngặt đến xương…. Ở thế nhiều phen thấy khóc cười…. Bui một lòng người cực hiểm thay”.Xã hội càng ngang trái, người anh hùng ấy lại càng ngời sáng phẩm chất cứng cỏi, khát khao tự do, thà chết chứ không chịu làm nô lệ của cường quyền bạo ngược:“Một tấm long son ngời lửa luyện,Mười năm thanh chức ngọc hồ băng,Ung dung cứ nói điều ta thích,Uốn gối theo đời không thể vâng”. Nhân nghĩa ở ông là một đường lối, chính sách cứu nước và dựng nước, trong kháng chiến chống giặc cũng như trong bảo vệ hoà bình.”Kẻ nhân giả lấy yếu chế mạnh, kẻ nghĩa giả lấy ít địch nhiều”,”Lấy đại nghĩa thắng hung tàn, lấy trí nhân làm thay đổi cường bạo”, cao hơn nữa, nhân nghĩa còn là cơ sở của đường lối, chuẩn mực cách ứng xử, giải quyết mọi việc, nó là phương pháp luận cho mọi suy nghĩ, hành động.” Đạo làm tướng lấy nhân nghĩa làm gốc, trí dũng làm của”:”Phàm mưu việc lớn phải lấy nhân nghĩa làm gốc, nên công to phải lấy nhân nghĩa làm đầu” Nhân nghĩa còn được thể hiện ở việc tha cho hàng binh để tuyệt mối chiến tranh sau này, để tiếng thơm muôn thuở.Tư tưởng nhân nghĩa còn thể hiện ở viêc lên án chiến tranh, yêu hoà bình:” Đồ binh khí là thứ hung bạo, đánh nhau là việc guy hiểm, thánh nhân bất đắc dĩ mới dùng đến”.Tư tưởng nhân nghĩa ở ông còn thể hiện ở tư tưởng lấy dân làm gốc: “chở thuyền và lật thuyền cũng là dân”, “Dân như là nước”, “Theo ý mình mà ức lòng người, tất đến trăm năm oán giận”. Từ đó “Dân tâm” (lòng dân) dã trở thành chủ nghĩa nhân đạo của ông. Như vậy, tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi đã đạt đến tư tưởng nhân đạo cao cả. Chủ nghĩa nhân đạo này dựa trên một sổ tư tưởng có tính chất duy vật ở ông, chẳn hạn “Đío rét thiết thân thì không đoái gì đến lễ nghĩa”(Tấu cầu phong), “Một buổi không có ăn, cha con hết tình nghĩa”(Lại thư cho Vương Thông), khiến cho nó mang tính hiện thực, tích cực, toàn diện.Chính vì vậy, ông chủ trương dẹp xong quân giặc, chia nữa số quân về làm ruộng.Đạo làm người ở ông là phải vươn tới mẫu người quân tử, hào kiệt, đại trượng phu , phải có ba đức tính: nhân, trí, dũng. Đạo làm người của ông được phát triển từ đạo làm người của Nho, nhưng lại khác Nho ở chổ trung không phải là trung với một triều đại, một ông vua mà là trung với nước, nhân không phải là lòng thương người chung chung, mà là hướng vào người nghèo khổ, là yêu dân, cứu dân. Như vậy, ông đã phát triển đạo làm người của Nho giáo trong điều kiện giữ nước và dựng nước lúc bấy giờ. Tư tưởng thiên mệnh ( nho giáo)Ông đã tìm thấy mối quan hệ nhân quả giửa các sự vật hiên tượng, đặc biệt khi phân tích nguyên nhân của chúng . “ Phúc hay hoạ đểu có manh mối từ lâu, không phải gây nên bởi 1 ngày”. Ông nói: “ xem việc làm như thế nào, xét duyên do vì sao lại như thế, sự vui vẻ do đâu mà có. Thế thì nhân tình thực dối thế nào, mảnh mai cũng ko thể che dấu được” (lại thư cho vương , thông, sơn thọ) Nguyễn Trãi kết hợp mệnh trời với tư tưởng nhân quả Ông đã nhìn thấy và giái quyết tốt mối liên hệ chằng chịt giữa cái nhỏ và cái lớn, giữa việc gần và việc xa, giữa lợi ích trước mắt và lợi ích lâu dài, khi ông nói: “ không thấy việc nhỏ mà hại việc lớn, ko lấy nhìn gần mà lãng nhìn xa” ( lam sơn thực lục). Sự vật, hiên tượng con người luôn biến đổi( mệnh ko thường, việc đời phức tạp(trời khó khăn) nên phải nghĩ chỗ khó mà mưu việc dễ. Công khó thành mà việc dễ hỏng nên phải cẩn thận lúc đầu mà tỉnh về sau” phải coi chừng mối hoạ loạn có khi do yên ổn mà nên. phải đón ngăn ý
  9. kiêu sa có khi do sung sướng mà đến.” Nếu cần phải “ nghĩ giữ nước từ khi chưa nguy”, “ phải cẩn thận lúc trước để tính lúc sau, phải làm nên việc lớn từ việc nhỏ. Nguyễn Trãi đã giải thích khái niệm mệnh trời trên tinh thần biện chứng Giửa chủ quan ( lòng người, ý người, ý dân, sức người, sức dân), khách quan ( lẽ trời, vận trời, sức trời, lòng trời, bằng xu thế lịch sử khách quan, xu thế thời đại,) có mối liên hệ biện chứng. “ Trên hợp lòng trời dưới hợp lòng ngừơi” trong hai cái đó mặc dù dưới dạng thần bí nhưng ông đã thấy ra. Cái thứ hai là cơ sở để quỵ định cái thứ nhất. “Phải thuận được lòng trời mới hợp được lòng ngừơi”. Khi đã hiểu ra cái thứ hai thì phải lượng sức mình hiểu đúng thực lực của mình, tự do nâng cao tính năng động để đạt đến mục đích. Chẳng hạn như lê lợi dựng cơ nghiệp” biết nguoi biết mình, hay yếu hay mạnh”, đã do trơì mà biet thôi, lại có trí để công thành ( phú núi chí linh). Chính cái này đã chống lại chủ nghĩa duy tâm về mệnh trời thần bí trong nho giáo. Quan niệm của nguyễn trãi về thời cơ, thời thế Chính vì phân tích mối liên hệ chủ quan va khách quan đúng đắn mà ông tìm ra phát hiện thời cơ là lúc hoàn cảnh khách quan thuận lợi để hoạt động chủ quan con ngươì dạt được đến kết quả không ngờ. Ông kêu gọi :”thời sao, thời sao! Thực không nên lở. Từ hiểu thời, thời mới thông biến. Đó là điều đáng quý ở người quân tử. Mặt khác, phải tạo dựng lực lượng chủ quan để đón thời, tức tạo “thế”, vì có thời mà không có thế thì thời cơ bị bõ lỡ mất. “Được thời có thế thì mất biến thành còn , nhỏ hoá ra lớn; mất thời không thế thì mạnh hoá ra yếu, yếu lại thành nguy. Sự thay đổi ấy chỉ trong khoảng trở bàn tay. Cho nên “Điều đáng quý ở người tuấn kiệt là biết thời thế hiểu sự biến mà thôi”. Từ sự phân tích thời thế, chủ quan khách quan ông đã đưa ra phương pháp lấy ít địch nhiều, lấy yếu chống mạnh, và đã thành công. Điều đó chứng tỏ tư duy lý luận của ông ở thời đó là hoàn toàn đúng đắn và nó vẫn còn có ý nghỉa lý luận về sau. Tuy nhiên, cũng như nhiều nhà Nho chân chính, ông cũng gặp nhiều hoạn nạn khi ra làm quan. Và khi đó, Phật và Lão chính là nẻo về của ông hài hòa với niềm ưu thời mẫn thế của Nho gia trong thơ Nôm của ông. Côn Sơn ca đậm đà màu sắc tiêu dao, và Hoa dâm bụt cho thấy Nguyễn Trãi cũng hiểu biết rất sâu sắc về đạo Phật khi tả một đóa hoa không trực tiếp , à tả qua bóng hoa soi xuống nước (Ánh nước hoa in một đóa hồng, vẫn nhơ không bén bụt là lòng, chiều mai nở, chiều hôm rụng, sự lạ cho hay tuyệt sắc không). ắThời kỳ đầu thế kỷ XX: (Từ 1900 đến những năm đầu của thế kỷ XX) Bước vào nửa sau thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, nhiều nước Châu Á như Trung Hoa,Nhật Bản,Việt Nam… Đứng trước hoạ thực dân từ đó trổi dậy ý thức về dân tộc mình, đã lần lượt đi vào một cuộc vận động làm biến chuyển mạnh bộ mặt phẳng lặng của châu Á từ mấy ngàn năm mà tiên phong là Nhật Bản. Nhưng cũng chính ngay từ thời điểm đó, các vua Việt Nam triều Nguyễn còn bị trói buộc cùng với cả một triều đình lạc hậu, bảo thủ với chính sách “ toàn quốc đóng cửa” hậu qủa là dẫn đến sự suy sụp, lạc hậu và cụ thể nhất là hoạ nô lệ thực dân, với 3 thể ch( bảo hộ ở miền Bắc, khâm sai cố vấn ở miền Trung va thuộc địa ở miền Nam). Các nhà tri thức ở cả 3 miền đã nhiệt tình đi vào cuộc canh tân cứu nước. Điều ấy thể hiện rỏ nét trong mảng thơ văn có nội dung yêu nước, duy tân bằng chử quốc ngữ xuất hiện ở Nam Bộ và sau đó la cả nước từ những năm tháng sớm nhất của đầu thế kỷ XX, thong qua các phương tiện quan trọng là báo chí và sau đó là in ấn thành tập sách.Bắt đầu từ những năm tháng đầu tiên của thế kỉ XX và kéo dài cho đến 1945, văn chương yêu nước, duy tân ở Việt Nam chịu( trực tiếp và gián tiếp) của tư tưởng Ánh sáng Pháp (xuất vào đầu thế kỉ XVIII ở Pháp: Đả phá chế độ phong kiến độc quyền xây dựng nền cộng hòa tư sản; Đả phá triết học kinh viện,chống lại sự thống trị của xã hội, cổ vũ tinh thần tự do tư tưởng; Cổ vũ sự phát triển tri thức khoa học, tri thức hiện đại, đề cao con người, cá nhân), đã dành rất nhiều dung lượng và thời lương hoạt động văn chương cho sự hình thành một nền văn chương bao gồm thơ ca, văn chương chính luận và bút kí khi xã hội cần nhiều hình thức đâu tranh để tồn tại, phát triển và khẳng dịnh mình. Tính tư tưởng của thơ văn quốc ngữ duy tân, yêu nước thời kỳ này không đặt trên nền tảng của ý thức hệ phong kiến, mà nó là sự kết hợp giũa những yếu tố tích cực của tư tưởng Ánh sáng phương tây kết hợp với truyền thống yêu nước, nhân đạo của Việt Nam, tạo nên một thứ tình cảm công văn mang màu sắc dân tộc và hiện đại thể hiện qua mảng văn chương này. Nó là một hiện hữu, một thành tựu đáng kể cuả văn chương yêu nước chống thưc dân trong một giai đoạn lịch sử đặt biệt trứoc khi Đảng Cộng sản ra đời và thưc sự lảnh đạo thắng lợi cuộc cách mạng giành độc lập tự do của toàn dân tộc. Thời kỳ đầu là giai đoạn mà văn chương yêu nước được dấy lên trong toàn xã hội bằng phương thức báo chí với sự khơi mào của Đông kinh nghĩa thục ở miền Bắc,Nông cổ mín đàm, Lục tỉnh tân văn và Đông Pháp
  10. thời báo, là thời kỳ tương đối còn in đậm dấu ấn gián tiếp của tưởng khai sáng phương tây ảnh hưởng qua các tân thư Trung Hoa và Nhật Bản.Giai đoạn sau là thời kỳ của văn chương bút chiến trên báo chí cùng với các tác phẩm dài hơi của tác giả như Trần Hữu Độ, Nguyễn An Ninh, Phan Ngọc Hiển. Đây là giai đoạn của tư tưởng khai sáng không còn là độc quyền, mà cồn nhiều luồng tư tưởng khác được những trí thức yêu nước du nhập vào cũng với mục đích đổi mới để cứu nước.  là một nét hiện đại của tư tưởng yêu nước Việt Nam so với những thời kì trước đó. NHỮNG NỘI DUNG CHÍNH CỦA TƯ TƯỞNG YÊU NƯỚC VN ĐẦU THẾ KỶ XX THỜI KỲ DUY TÂN-ĐÔNG DU : (MANG TINH MỞ RỘNG VÀ HIÊN ĐẠI) Kêu gọi đổi mới kinh tế làm tiền đề cho đổi mới hoàn cảnh dân tộc là nội dung chính của những bài viết thuộc chủ đề “thương luận”, mà ngay từ đầu thế kỷ còn được gọi một cách cụ thể là “thương cổ luận”.Theo cách gọi hiện nay, đó là ý thức “chuyển dịch cơ cấu kinh tế”,từ thuần nông thụ động sang cơ cấu thương mại dich vụ, là một nhu cầu bức thiết của giai đoạn phát triển thành thị ở miền Nam đầu thế kỷ XX. Hàng năm bài thương luận liên tiếp xuất hiện trong 52 số đầu của Lục Tỉnh Tân Văn đã có cùng nội dung hoặc nêu các ý nghĩa,nguyên nhân của tình trạng kinh tế yếu kém của phương thức làm ăn cũ (không có chữ tín,làm ăn nhỏ lẻ cá thể,không huy động dược sức của sức người,thói quen thủ phận…như các bài “Vật còn biết lỗi”của Hồ Lương Cang,”Cấp báo lợi quyền”của Nguyễn Tử Thức);tranh luận,hô hào,hoặc vạch ra phương án và kêu gọi hợp tác (“Hiệp bổn tranh lợi”của Tước Nguyên Hạ Sĩ,”Thương xảo kế”của Tước Nguyên Hạ Sĩ).Đặc biệt , đây là thời gian các nhà Minh Tân ở miền Nam luôn luôn muốn biến các ý tưởng trong các bài thương luận thành hiện thực. Ở thập kỷ 30 đến 1945, nếu còn, thì chỉ có những bài viết ngắn vạch rõ tội ác của mại bản, thực dân trong việc chèn ép kinh tế người Việt Nam..Chẳng hạn như Xung quanh vấn đề độc quyền của Nguyễn An Ninh đăng trên báo Tiếng Chuông Rè, Mến dân thương nước đồng bào không nên do dự nữa mau tán thành công ty xe điển An Nam, Vấn đề độc quyền nước mắm của Phan Ngọc Hiển đăng trên báo Tân Tiến ở Sa Đéc trong các năm 1936-1937. Văn chương chính luận chỉ còn tồn tại trong cuộc đấu tranh trên 2 bình diện văn hoá, xã hội và chính trị.Kêu gọi đổi mới về xã hội, nâng cao trình độ dân trí cũng là một nội dung quan trọng của văn chương yêu nước thời kỳ này. Trước hết các bài văn hoá xã hội luận thời kỳ này đã thể hiện nhận thức về thực trạng văn hoá, xã hội bảo thủ lạc hậu, và đó cũng là một sức ì làm trì trệ con đường tiến hoá. Về nguyên nhân nội tại, ngay từ những năm tháng đầu tiên của phong trào Minh Tân, đã có nhiều bài viết nói về những tiêu cực trong những tính cách, lê lối phong tục tập quán nhưng hạn chế trong các quan hệ gia đình va ngoài xã hội của người Việt Nam. Làm nên mọi sự trì trệ tự thân trước khi nhưng tác hại từ bên ngoài đem đến. Tính nội quang. Những nội dung này còn xuất hiện trở lại nhiều lần trong Đông Pháp thời báo của thập niên 20 với các bài viết của Nam Kiều như Tây giả, Phong trao đi tây của người mình, Tánh khiếp nhựơc, Người mình có biết cách dùng tiền đồng không ?... Trong mấy thập niên đầu thế kỷ, văn chương chính luận but chiến trên báo chí ơ Nam kỳ đã thể hiện nội tâm bức xúc của nhiều tác giả ve tình trạng nhân tâm siêu lạc, đạo lý gia đình rạng nứt, phong hoa tốt đẹp bị suy đồi. nhưng cũng từ đó, cũng khong ít bài viết về việt xây dựng gia đình tiến bộ, cổ vũ đạo đức mới và đáng chú ý hơn cả là một vị trí khá thích đáng dành cho vấn đề phụ nữ và sự phát triển bình đẳng của phụ nữ trong văn chương chính luận ở nam bộ.Đó là những dấu hiệu đầu tiên của cảm thức nội quan,một xu hướng tư tưởng đặt biệt xuất hiện trong văn chương của các nước Châu Á thời kỳ đổi mới khi phải đối mặt với sứ mạnh phương tây.Cảm thức nội quan là sự tự quay lại xem xét, đánh giá chính mình.Hiểu được những yếu kém cững như những lợi thế của chính mình một cách thấu đáo cũng là một thứ khả năng , một thứ bản lỉnh quan trongj trên con đường đổi mới. nét mới của tư tưởng yêu nước VN. Trong suốt chặng đường hơn 40 năm phát triển của mảng văn chương yêu nước duy tân trong văn học quốc ngữ Nam Bộ, cảm thức nội quan luôn tồn tại trong ý hướng yha thiết muốn tìm ra và khắc phục cái hạn chế trong xã hội và con người Việt Nam,từ đố nâng cao phẩm chất dân tộc, tạo nên một tiền đề lý tưởng cho việc đổi mới đất nước và cứu nước.Trong hai thập kỷ đầu thế kỷ XX,mảng văn hoá xã hội luận trên báo chí đả cho thấy những bước đi đầu tiên trong cuộc hành trình tư tưởng của người Nam Bộ trong một giai đoạn lịch sử đầy thách thức đối với bản lỉnh văn hoá dân tộc khi nhìn lại nền cựu học và đạo đức nho giáo, rồi tiếp xúc với những yếu tố rất thu hút nhưng củng đầy cạm bẩy của văn hoá phương tây. Đấu tranh chính trị là
  11. mục tiêu sâu xa nhất trong văn chương yêu nước bằng quốc ngữ ở Nam bộ thời kỳ đầu. Tính chất sâu sắc của tư tưởng yêu nước đầu TK XX. Ở giai đoạn từ 1900 đến những năm đầu của thập niên 20,nội dung nổi bật là phê phán sự xâm lấn và can thiệp của Pháp vào nội bộ Việt Nam, gây nên hậu quả là người Việt Nam lâm vào cảnh quốc phá gia vong, trôi dạt lạc loài, bất lực trước sức mạnh thực dân và phải làm tôi mọi ngoại bang kiếm sống. Kêu gọi ý thức về chủ quyền đất nước, khơi dậy tình tự dân tộc, tình cảm với cội nguồn, với đồng bào ruột thịt để cùng nhau hợp sức đấu tranh giành lại độc lập tự do là một nội dung quan trọng của tư tưởng yêu nước thể hiện trong văn chương yêu nước bằng quốc ngữ thời kỳ này. Tình cảm độc đáo của tư tưởng yêu nước trong thời kì hiện đại.Trong mảng văn chương yêu nước duy tân, văn vần với hình thức thơ ca tuy không chiếm ưu thế như văn xuôi nhưng nó xuất hiện cũng không phải là ít trong quá trình tồn tại hơn 4 thập kỷ của mảng văn chương yêu nước này,từ Khóc tố đồng bào, Tân diển ca trên Lục Tỉnh Tân Văn năm đầu tiên, và nó còn rải rác xuất hiện trên Đông Pháp thời báo như Gian nhà rách, Một bức thư em gửi cho chị, Đồng bạc Tây và đông bạc Pháp..Trong văn học quốc ngữ Nam bộ thời kỳ này đả có hiện tượng xuất hiện nhiều lần, nhiều chổ, nhiều thời điểm của các từ ngữ như đồng bào tương hệ, con nhà nước Nam,Hồng Bàng Lạc Long, đồng bào, đồng bang, đồng chủng, con nhà An Nam…Ý thức về sự gìn giữ cội nguồn dân tộc chính là một thành luỹ quan trọng mà người Nam bộ hết sức gìn giữ.Tinh thần đó thể hiện ở khá nhiều bài viết về tình trạng dân tộc bị chia rẻ dân tộc, về thân phận lạc loài nước mất nhà tan dưới ách ngoại bang như:Sanh tử tương lân, Đồng bào tương hệ, Đông chưởng bất khả tưưong tàn, Đông bào giải nghĩa…trên báo Lục Tỉnh Tân Văn của thập niên 10. Sang thập niên 20, trên Đông Pháp thời báo xuất hiện nhiều bài báo viết về người Việt Nam mà các tác giả là người mình hay là con người Việt Nam trong các bài kêu gọi chấn chỉnh các mối quan hệ tốt đẹp giữa ngươi Việt nam với nhau như Đồng tiên và đồng bàn ( Nam Kiều), hơn bao giờ hết, văn chương yêu nước ơ nam bộ bất chấp hình thức nghệ thuât củ hay mới không câu nệ văn vần hay văn xuôi, lên tiếng cảnh báo về hiểm hoạ dân tộc tan tác giống nòi do thiếu ý thức chổ nào gọi là đồng bào, chua hiểu rằng đồng bào thời phải thương nhau, phải hoà nhã với nhau, đừng ghét nhau, đừng phá nhau. Tuy vân trăm họ, nhưng mà chung cùng một Việt Nam, trời đát sinh trưởng ra đây, đồng loại, đồng bang, đồng văn, đồng tục, dầu mà chia ra phương nam bắc, bực tôn ti thời mặc lòng, không nhớ rằng đồng bào đối với ta là chung máu mủ, cùng chung đất nước, cùng một gia phổ tiên nhơn, cùng một vận mệnh tương lai, hạnh phúc cùng hưởng với nhau, hoạ hoạn cùng chịu với nhau, vậy nên cứu giúp nhau trong cơn nguy cấp, tinh vực nhau trong lúc hiểm nghèo. Trên nền tảng của ý thức về sự tồn tại của dân tộc, văn chương yêu nước còn có nội dung thể hiện ý thức gắn bó sự phát triển của dân tộc với tình hình thế giới, đặt bịêt là trong mối quan hệ với châu lục và khu vực. Trong các bài viết hô hào cải cách, duy tân, đã xuất hiện các khái niệm “ năm châu bốn bể”, “liệt quốc liệt cường”, “ cuộc doanh hoàn”…Nét hiện đại của tư tưởng yêu nước Việt Nam đầu TK XX. QUAN ĐIỂM NHÂN SINH ,BẢN THỂ THỜI KỲ BẮC THUỘC : Từ thế kỉ I đến thế kỉ X là thời kỳ hinh thành và phát triển quan hệ sản xuất phong kiến. Nền kinh tế, cơ bản vẫn là nền kinh tế tự nhiên, tự cung tự cấp. Công cụ sắt được sử dụng khá phổ biến trong nông nghiệp năng suất không ngừng nâng cao.Chế độ lien minh bộ lạc bị phá vỡ, chế độ lạc hầu lạc tướng bị suy sụp, chế độ châu, huyện, lệ thuộc được hình thành. Trong xã hội có sự phân chia giai cấp: sĩ nông công thương.Trong suốt thời kỳ bắc thuộc các tập đoàn phong kiến trung quốc kế tiếp nhau thực hiện chính sách đồng hóa dân tộc việt. Thời kỳ này cũng là thời kỳ truyền bá các học thuyết nho, đạo và phật giáo vào Việt nam.Người Việt tiếp thu tam giáo có chọn lọc, kết hợp với tín ngưỡng dân gian bản địa từ đó hình thành quan niệm mới về vũ trụ, nhân sinh.Về vũ trụ, họ thường thần thánh hóa các hiện tượng tự nhiên. Tư tưởng thờ trời còn khá phổ biến. trong tâm thức của người Việt trời là đấng tối cao. Tiếp thu dịch học Trung quốc người Việt gắn cho trời tính dương, còn đất mang tính âm, âm dương hòa hợp, chuyển hóa tạo ra vạn vật. Trời tuy cao, xa nhưng vẫn gần gũi với con người, cứu giúp con người lúc nguy lan. Giữa trời và đất, trời và người có sự giao cảm
  12. linh ứng. Do ảnh hưởng của nho giáo người Việt tin vào mệnh trời. quan niệm về trời tuy mang tính duy tâm, thần bí song cũng là dễ hiểu bởi nó phản ánh cuộc sống còn phụ thuộc nhiều vào thiên nhiên của cư dân nông nghiệp và trình độ nhận thức còn hạn chế của người việt thời kỳ này.Đất trong tư duy của người Việt bao giờ cũng dày và tối được xem là một thế giới riêng. Đất còn được xem là người mẹ sinh ra, nuôi lớn con người. khi chết người ta lại trở về với đất mẹ. Do ảnh hưởng của nho giáo nên người việt tin rằng “tử tất quy tổ”, do đó khi chon cất thường tìm nơi đắc địa để đặt mồ mả.Ngoài trời, đất thì nước cũng là một yếu tố quan trọng trong tư duy người Việt. nước cũng mang tính âm, nước là nguồn gốc của mọi sự sinh sôi, nảy nở của các loại cây trồng. Tín ngưỡng thờ Tứ pháp nói lên vai trò quan trọng của nước trong sản xuất nông nghiệp. Ở nhiều làng xã việt nam, do ảnh hưởng của Phật giáo trong các lễ hội dân gian có tục rước nước tắm tượng.Theo quan niêm của người Việt không gian có ba vùng chính là Trời, đất và nước. Đó chính là không gian sinh tồn của con người, là hệ thống sinh thái nhân văn giữa con người với môi trường tự nhiên. Quan niệm về không gian như trên mang tính thần bí, duy tâm thể hiện sự nhận thức chủ quan của cư dân nông nghiệp kém phát triển. Cùng với không gian, thời gian cũng là yếu tố quan trọng đối với cuộc sống của người Việt. Coi trọng hiện tại song không bao giờ quên quá khứ và luôn lạc quan tin tưởng ở tương lai là một đặc điểm trong tư duy của người Việt. Là cư dân nông nghiệp người việt chú trọng tới thời tiết và đã biết tiếp thu âm lịch của người trung quốc vào sản xuất và sinh hoạt. Họ cho rằng có ngày tốt và ngày xấu, giờ tốt và giờ xấu. ngày sóc và ngày vọng hàng tháng các gia đình thường làm lễ cúng thần phật cầu may.Về nhân sinh, nếu người phương Tây thiên về tư duy hướng ngoại thì người Việt lại thiên về tư duy hướng nội, thế giới nội tâm được chú trọng, chiêm nghiệm, khám phá. Để tồn tại và phát triển một mặt người Việt phải tiếp tục di dưỡng những giá trị văn hóa truyền thống mặt khác phải tiếp biến những giá trị văn hóa bên ngoài bản địa chúng bổ sung vào bảng giá trị truyền thống. Do ảnh hưởng của nho giáo người Việt đã rất chú trọng tới việc xây dựng gia đinh, dòng họ. Trong gia đình, dòng họ điều cốt lõi là con người phải có đức hiếu. Hiếu là biểu hiện của nhân, là nguồn gốc của trung. Với người Việt hiếu kính với cha mẹ là giá trị tinh thần, là nội dung đạo đức trong gia đình, ăn sâu vào nếp nghĩ, lối sống. Hiếu kính với cha mẹ không phải chỉ là sự thể hiện tình cảm, lòng biết ơn còn là trách nhiệm, nghĩa vụ của người con.Đạo hiếu nhắc nhở con cháu không những chỉ hiếu thảo với ông bà cha mẹ mà còn phải hiếu đễ với anh chị em trong gia tộc. Như vậy, có thể nói thời kỳ Bắc thuộc là thời kỳ hình thành và phát triển những quan niệm về bản thể, nhân sinh của cộng đồng người Việt. Những quan niệm ấy là sự tiếp nối tư tưởng thời kỳ Hùng Vương, có sự tiếp biến tư tưởng Tam giáo, phản ánh cuộc sống xã hội của một thời kỳ đấu tranh oanh liệt chống thiên tai và địch họa. TƯ TƯỞNG CỦA NGUYỄN TRÃI :
  13. 1. Tiểu sử:Nguyễn Trãi (1380 – 1442) hiệu là Ức Trai, cha là Nguyễn Ứng Long (Nguyễn Phi Khanh), mẹ là Trần Thị Thái con gái qua Tư đồ Trần Nguyên Đán. Quê gốc vốn ở làng Chi Ngại huyện Phương Nhỡn (nay là Chí Linh, Hải Dương) nhưng đã di cư sang làng Ngọc Ổi (sau đổi là làng Nhị Khê) Thường Tín, Hà Tây.Năm 20 tuổi ông thi đậu Thái học sinh (Tiến sĩ) triều Hồ, được sung chức Ngự sử đài chánh chưởng. Khi quân Minh xâm lược nước ta, ông đã tham gia phong trào Lam Sơn, phò giúp Lê Lợi đánh đuổi giặc Minh, giành lại độc lập cho đất nước. Trong thời gian kháng Minh, ông là quân sư của Lê Lợi. Trong thời kỳ đầu của triều Lê, ông giữ chức Nhập nội hành khiển, kiêm Thượng thư bộ Lại và chức Giám nghị Đại phu, kiêm Tri tam quán sự, chức Hàn lâm viện thừa chỉ kiêm Quốc tử giám. Chính hoàn cảnh lịch sử, hoạt động thực tiễn, thiên tài trí tuệ và nhân cách vĩ đại của ông đã làm cho tư tưởng của ông có nhiều giá trị không chỉ đối với đương thời mà còn có ý nghĩa mãi về sau. Sách lịch sử tư tưởng Việt Nam viết: "Tên tuổi của ông sáng chói trên cuốn sử vàng của dân tộc. Có được vị trí đó, không những do cuộc đời, đức độ và ý thức vì dân, vì nước của ông, mà quan trọng hơn là do tư tưởng của ông đã đạt tới tầm cao của thời đại, ông đã khái quát được những vấn đề có tính quy luật của công cuộc cứu nước và dựng nước, chỉ ra được tầm quan trọng của nhận thức lý luận trong hoạt động thực tiễn, từ đó nâng tư duy của dân tộc lên một trình độ mới". 2. Cuộc đời và sự nghiệp: Quan điểm tư tưởng: a. Tư tưởng yêu nước đã được phát triển lên một tầm cao mới. Với ông yêu nước là thương dân, căm thù giặc. về chữ Trung b. Tư tưởng về quốc gia và quốc gia độc lập đã đạt tới mức hoàn thiện được thể hiện rõ trong bài Bình Ngô đại cáo.Chân lý về sự tồn tai độc lập có chủ quyền của nước Đại Việt là có cơ sở chắc chắn từ thực tiễn lịch sử.Như nước Đại Việt ta từ trướcVốn. xưng nền văn hiến đã lâu.Núi sông bờ cõi đã chia.Phong tục Bắc Nam cũng khác.Ông đưa ra những yếu tố căn bản để xác định độc lập chủ quyền của dân tộc: cương vực lãnh thổ, phong tục tập quán, nền văn hiến lâu đời.Đầu tiên, Nguyễn Trãi đã chú ý đến lãnh thổ, nhấn mạnh tính xác định của lãnh thổ. Trước kia, lãnh thổ nước ta chỉ được hiểu một cách chung chung như: nằm ở phương Nam, phía nam Ngũ Lĩnh… nhưng Nguyễn Trãi cho rằng từ xưa Giao Chỉ không phải là đất của Trung Quốc, vì “đất cõi Giao Nam thực là nơi ngoài cương giới” , hoăc “An Nam xưa bị Trung Quốc chiếm từ thời Tần, Hán trở đi. Phương chi trời đã phân cách Nam Bắc, có núi cao sông lớn, bờ cõi rành rành”. Tiếp đến, Nguyễn Trãi nhắc đến yếu tố phong tục tập quán, nền văn hiến để khẳng định ý thức, tư tưởng về quốc gia độc lập. Theo ông, một nước có văn hiến phải có đạo, có người quân tử, có hành động có việc làm vừa hợp lòng người vừa thuận mệnh trời.Và thêm nữa ông khẳng định về quốc gia Đại Việt độc lập là có lịch sử riêng, chế độ riêng với “hào kiệt không bao giờ thiếu”: Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời gây nền độc lập.Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương.Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau.Song hào kiệt đời nào cũng có.Những yếu tố về lãnh thổ, về văn
  14. hóa, lịch sử được Nguyễn Trãi đưa ra là căn cứ đầy sức thuyết phục để chứng minh quyền độc lập tự chủ của Đại Việt. Một lần nữa khẳng định tư tưởng về quốc gia và chủ quyền quococs gia của ông. c. Tư tưởng đạo đức: Của Nguyễn Trãi được xây dựng và phát triển trên cơ sở tư tưởng của Nho giáo nhưng có những giá trị tích cực, nó bao chứa tư tưởng nhân văn sâu sắc – tư tưởng vì người lao động. Trong ngũ luân,Nguyễn Trãi đặc biệt chú ý đến quan hệ vua tôi, bạn bè. Về chữ Trung: Ông không quan niệm trung quân một cách máy móc giáo điều khô cứng như quan niệm của Tống Nho là: Quân xử thần tử thần bất tử bất trung. Mà ông biết đặt lợi ích quốc gia dân tộc lên trên hết. Khi nhà Hồ không còn đại diện cho quyền lợi của quốc gia dân tộc thì ông đã phò Lê Lợi cứu nước. Trung không còn là Trung với một triều đại mà còn là Trung với nước, biết chọn vua sáng để thờ, biết làm cho vua có tài đức, biết giúp vua đưa đất nước đến thái bình thịnh trị. Điều này không phải nhà Nho nào thời bấy giờ cũng có lập trường, quan điểm tiến bộ và làm được như ông. Về chữ Nhân: Ông trong quan niệm của ông không phải là lòng thương người chung chung mà là lòng thương đối với người nghèo khổ. Về chữ Trí: Trí không phải là hiểu biết sách hiền mà còn là những kiến thức cuộc sống, sự vận dụng dụng kiến thức đó vào cứu nước cứu dân. d. Tư tưởng thân dân: Là một nhà Nho ông hiểu sâu sắc tư tưởng của Mạnh Tử: Dân vi bản, quân vi khinh, xã tắc thứ chi. Suốt 10 năm bị giam ở thành Đông Quan, ông nghĩ cách cứu dân cứu nước. “Bình Ngô sách” của ông được xây dựng trên cơ sở tư tưởng thân dân. Theo ông, “cứu nước phải cứu dân”, “việc nhân nghĩa cốt ở yên dân”. Ông chỉ ra nguyên nhân thắng lợi của cuộc kháng chiến chống quân Minh do Lê Lợi lãnh đạo: “Quân không quá mươi vạn nhưng ai cũng một lòng” và ông chỉ rõ nguyên nhân thất bại của nhà Hồ là: “Quân của họ Hồ trăm vạn người trăm vạn lòng”. Trong chiến tranh cũng như trong thời bình ông biết tôn trọng cộng đồng và bồi dưỡng cộng đồng. Ông chú ý trăm lo quyền lợi và nghĩa vụ của mọi người. Chăm lo sức dân vì thấy sức mạnh to lớn của nhân dân:“Mến người có nhân là dân, chở thuyền và lật thuyền cũng là dân”.“Thuyền bị lật mới tin dân mạnh như nước”.Mọi việc làm đều theo ý dân, nếu dân ủng hộ thì làm, chống đối thì bỏ: “Dễ trăm lần không dân cũng chịu,Khó vạn lần dân liệu cũng xong”Cả cuộc đời Nguyễn Trãi luôn đấu tranh cho một xã hội lý tưởng, trong đó xã tắc thái bình, dân chúng no đủ. e. Tư tưởng nhân nghĩa: Tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi tiềm ẩn như quặng quý mà ta cần phải khai thác, nhưng khi lộ thiên nó lại càng lấp lánh hơn bởi tấm lòng yêu nước thương dân sáng ngời. Ông xem nhân nghĩa là đường lối chính trị, là chính sách cứu nước và dựng nước, trong kháng chiến chống giặc ngoại xâm cũng như trong bảo vệ hòa bình: “Kẻ nhân giả lấy yếu chế mạnh, kẻ nghĩa giả lấy ít địch nhiều” hay “lấy đại nghĩa để thắng hung tàn, lấy trí nhân để thay cường bạo”. Cao hơn nữa nhân nghĩa còn được ông xem là cơ sở đạo đức, là chuẩn mức trong chính sách đối xử, là nguyên tắc giải quyết công việc, là
  15. phương pháp luận cho mọi suy nghĩ hành động: “Đạo làm tướng lấy nhân nghĩa làm gốc, lấy chí dũng làm của”, “Phàm mưu việc lớn lấy nhân nghĩa làm gốc nên công to việc lớn phải lấy nhân nghĩa làm đầu”. Nhân nghĩa còn thể hiện ở việc tha cho hàng binh để tuyệt mối chiến tranh sau này, để tiếng thơm muôn đời. Và nó còn được thể hiện ở việc ông lên án chiến tranh, yêu hòa bình: đồ binh khí là thứ hung bạo, đánh nhau là việc nguy hiểm, thánh nhân bất đắc dĩ mới dung đến. Tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi đã đạt đến tư tưởng nhân đạo cao cả. f. Quan niệm về thời và thế của Nguyễn Trãi: Trong hoạt động thực tiễn, Nguyễn Trãi đã chú trọng tới quan hệ nhân quả. Ông cho rằng mọi việc đều có nguyên nhân, có nhân ắt có quả, nhân nào quả ấy:“Phải cẩn thận lúc trước để tính lúc sau,Phải làm việc lớn từ việc nhỏ”.Mỗi hành động phải biết dụng thời và thế. Ông nói “xét biết thời cơ mà lượng sức mình là một con người có tri thức’. Ông xem mệnh trời và vận trời là yếu tố khách quan quyết định xu thế của thời đại vì lẽ trời, mệnh trời quy định lòng người. Còn sức người, tính năng động, tính quyết đoán, tính mục đích là yếu tố chủ quan đóng vai trò quan trọng. Trong bài phú núi Chí Linh ông viết: ‘Biết người, biết mình hay yếu hay mạnh”. Chính vì phân tích mối quan hệ chủ quan và khách quan đúng đắn mà ông tìm ra, phát hiện ra “thời cơ” là lúc hoàn cảnh khách quan thuận lợi để hoạt động chủ quan của con người đạt được kết quả không ngờ. Ông kêu gọi: “Thời sao, thời sao! Thực không nên lỡ”. Từ hiểu thời, thời mới thông biến. Đó là điều đáng quý ở người quân tử. Mặt khác, ông không những sâu sắc về lý luận mà còn giỏi về thực tiễn, không thụ động chờ thời mà chủ động tạo thời, phải tạo dựng lực lượng chủ quan để đón thời, tức là tạo “thế”, vì có thời mà không có thế thì thời cơ bị bỏ lỡ mất. “Được thời có thế thì mất biến thành còn, nhỏ hóa ra lớn; mất thời không thế thì mạnh hóa ra yếu, yếu lại thành nguy. Sự thay đổi đó chỉ trong khoảng bàn tay”. Cho nên, điều đáng quý ở người tuấn kiệt là biết thời thế hiểu sự biến mà thôi”.Từ sự phân tích thời thế, chủ quan và khách quan ông đưa ra phương pháp lấy ít địch nhiều, lấy yếu chống mạnh và đã thành công. Điều này chứng tỏ tư duy luận của ông ở thời đó là hoàn toàn đúng đắn và nó vẫn còn có ý nghĩa lý luận về sau.  Có thể nói Nguyễn Trãi là một đại biểu tư tưởng lớn của thế kỷ 15, là ngôi sao khuê trên nền văn hóa Đại Việt. Ông là nhà Nho yêu nước, là đại diện cho tần lớp quý tộc mới có lợi ích gắn liền với lợi ích dân tộc. Tư tưởng yêu nước vì dân của ông là động lực cho mọi hoạt động chính trị, kinh tế, quân sự, ngoại giao, khoa học văn hóa. Tư duy của Nguyễn Trãi đã đạt đến trình độ biện chúng. Ông nhìn nhận sự vật trong mối liên hệ, trong sự chuyển hóa, sự phát triển. Tư duy vừa có chiều sâu, vừa có sức khái quát không những phản ánh hiện thực cuộc sống đầy biến động mà còn góp phần hướng dẫn cải tạo xã hội. ĐẶC ĐIỂM TƯỞNG VIỆT NAM THỜI KỲ ĐẤU TRANH GIÀNH ĐỘC LẬP DÂN TỘC: - Là một cộng đồng người Việt có chủ quyền; - Tôn kính, biết ơn tổ tiên; Tôn kính và tuân thủ các thủ lĩnh; Coi trọng vai trò của phụ nữ trong xã hội; Về coi trong vai trò cua phụ nữ thời kỳ nay, minh chứng tiêu biêu là khởi nghia cua Hai Bà Trưng: ̣ ̉ ̀ ̉ ̃ ̉
  16. Mùa xuân năm 40, Hai Bà Trưng đã phất cờ khởi nghĩa. Lời hịch thiêng liêng “Đền nợ nước, trả thù nhà” đã nhận được sự hưởng ứng của các Lạc hầu, Lạc tướng, của những người yêu nước ở khắp các thị quận và đông đảo lực lượng là phụ nữ tham gia khởi nghĩa (bà Man Thiện (mẹ của Hai Bà Trưng), bà Lê Chân (Hải Phòng), bà Bát Màn (Thái Bình), bà Lê Thị Hoa (Thanh Hóa), bà Thánh Thiện (Hà Bắc) …). Ý chí kiên cường và lòng yêu nước của Hai Bà đã được đúc kết lại bằng những vần thơ bất hủ:“Một xin rửa sạch nước thù,Hai xin đem lại nghiệp xưa họ Hùng,Ba kẻo oan ức lòng chồng,Bốn xin vẻn vẹn sở công lênh này”.Cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng đã lan rộng khắp nơi. Trong một thời gian ngắn, dưới sự lãnh đạo tài tình của Hai Bà, nghĩa quân đã đập tan chính quyền đô hộ. Tên tướng đô hộ là Tô Định phải cải trang bằng cách cắt tóc, cạo râu tìm đường tẩu thoát về nước.Bà Trưng Trắc được các tướng lĩnh và nhân dân suy tôn làm vua. Bà lên ngôi và lấy niên hiệu là Trưng Nữ Vương; đóng đô ở Mê Linh (huyện Mê Linh – tỉnh Vĩnh Phúc ngày nay).Năm 42, nhà Hán lại kéo quân sang xâm lược nước ta. Hai Bà lại một lần nữa ra quân, phất cờ khởi nghĩa. Cuộc khởi nghĩa lần này chỉ kéo dài được 2 năm. Do thế và lực của ta và địch chênh lệch quá lớn, Hai Bà đã dũng cảm chiến đấu và hy sinh anh dũng để giữ tròn khí tiết của mình, bảo vệ đất nước, bảo vệ dân tộc.Mặc dù chỉ giành độc lập trong thời gian ngắn nhưng thắng lợi của cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng là một bản anh hùng ca bất diệt, thể hiện ý chí độc lập, tự chủ và tinh thần dân tộc cao cả. Cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng còn là một minh chứng cho sức mạnh lớn lao, khả năng dồi dào của người phụ nữ Việt Nam trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Trang sử oanh liệt này sẽ mãi mãi được lưu truyền cho muôn đời con cháu mai sau.- Cuộc đấu tranh chống Hán hóa diễn ra khá gay gắt. - Tuy nhiên có thể thấy một số nét riêng biệt khác của quá trình Hán hoá đối với Việt Nam lúc ấy như sau: ở thế kỷ I tư tưởng Phật giáo nổi lên hàng đầu, từ thế kỷ III đến thế kỷ X là sự ảnh hưởng ngày càng rộng, càng sâu của Nho giáo trong đời sống xã hội Việt Nam. Trong đó, từ thế kỷ III đến thế kỷ VI là Hán Nho, VI-X là Tống Nho với thế tam giáo Nho-Phật-Lão, mà chủ yếu vẫn là Nho và Phật giữ địa vị tư tưởng độc tôn trong tư tưởng dân tộc Việt. + Mâu thuẫn cơ bản của dân tộc Việt Nam lúc này là: Một bên là nhân dân Việt Nam yêu nước căm thù giặc; Một bên là đế quốc Hán với bè lũ tay sai. Mâu thuẫn này diễn biến khi thì hoà hoãn, khi thì xuất hiện cục diện bình ổn tạm thời hình như một bên của mâu thuẫn mất đi và bên kia thắng thế lấn lướt nhưng điều kiện để giải quyết mâu thuẫn vẫn chưa đủ. Đây cũng là mâu thuẫn giữa một nước nhỏ tuy giàu lòng yêu nước và chí căm thù giặc nhưng cư dân ít hơn không dễ gì có thể nhanh chóng tạo được sự chuyển hoá để có thể thắng được một nước lớn hơn với số dân và đất đai của họ gấp nhiều lần Việt Nam (Cho dù có lúc họ bị chia đôi chia ba lực lượng có kém sút đi: Tam quốc 220-280; Nam Bắc triều 420-589) + Mâu thuẫn này một mặt loại trừ nguồn gốc và động lực của xã hội Văn Lang-Âu Lạc cũ, mặt khác làm nảy sinh nguồn gốc và động lực mới. Một mặt nó chắn ngang hướng phát triển lịch sử của xã hội cũ, mặt khác nó quy định những chiều hướng phát triển mới của xã hội mới. Động lực phát triển của đất nước bây giờ không chỉ là nội bộ trong nước mà chủ yếu còn do những người yêu nước bên trong và cả những kẻ thống trị bên ngoài. Chính ý thức, ý chí, hành động vì lợi ích khác nhau của họ là nguồn gốc, động lực quy định hướng thay đổi của xã hội Việt Nam. + Nét khác biệt so với giai đoạn trước cũng như với các giai đoạn sau là trên đất Việt Nam cổ đã đồng thời diễn ra hai quá trình vận động trái ngược nhau Hán Hoá và chống Hán hoá. Để thỏa mãn chí “trị quốc bình thiên hạ” người Hán thưòng nêu cao khẩu hiệu “Dĩ Hoa biến Di”. Các quốc gia xung quanh đế quốc Hán đều bị chúng gọi bằng cái tên khinh miệt là “Tứ Di”. Thật ra khẩu hiệu trên chỉ là chiêu bài dùng để che đậy những nguyên nhân thực sự bên trong là nhằm mục đích vơ vét, bóc lột của người Hán. Nếu chủ nghĩa tư bản tìm kiếm thuộc địa nhằm có thị trường khai thác nguyên liệu, tiêu thụ hàng hoá và bóc lột sức lao động rẻ mạt, thì đế quốc phong kiến nhà Hán xâm lược các nước khác lại nhằm thoả mãn sinh hoạt xa hoa cuả họ bằng việc bắt thuộc địa cống nạp. Cứ vài năm, thậm chí mỗi năm một lần đoàn cống sứ của Giao Chỉ phải dùng đến hàng trăm ngựa để thồ hương liệu quý, vải mịn, hạt minh châu, vẩy đồi mồi, ngọc lưu ly, lông chim chả, sừng tê giác, ngà voi, hoa thơm cỏ la,.. có khi
  17. cả người tài để cống nộp cho giặc phương Bắc.Cuộc Hán hoá đầu tiên diễn ra trên lĩnh vực chính trị-xã hội. Chúng có ý thức di thực mô hình tổ chức chính trị và sinh hoạt xã hội Trung Quốc sang Việt Nam. Chúng bắt dân Việt Nam học tập, ăn mặc, tổ chức đời sống xã hội như người Hán; Làm ruộng, canh tác theo kỹ thuật người Hán; Di dời cả dân Hán xuống định cư để dễ bề nhiễm hoá người Việt. Trên lĩnh vực tư tưỏng là sự truyền bá các học thuyết Nho, Phật, Lão vào Việt Nam: Nho học (còn gọi là Tiên nho hay Nho nguyên thuỷ) do Khổng Tử (551-479 tcn) sáng lập, Mạnh Tử (372- 289 tcn) phát triển theo hướng duy tâm, Tuân tử (325-238 tcn) phát triển theo hướng duy vật, nói chung là chưa thần bí hoá và khắc nghiệt nó phù hợp với xã hội phong kiến phân quyền Xuân Thu-Chiến Quốc của Trung Quốc. Hán Nho do Đổng Trọng Thư (thế kỷ thứ II tcn) phát triển theo chiều hướng duy tâm thần bí và gia tăng tính đẳng cấp nghiệt ngã, là tiêu biểu cho tư tưởng của chế độ phong kiến trung ương tập quyền chuyên chế nhà Hán. Huyền học dưới thời Nguỵ-Tấn, Nam-Bắc triều (tk III - tk VI) là sự kết hợp giữa Nho giáo với Lão- Trang. Tống Nho (còn gọi là Lý học) với hai phạm trù cơ bản lý và khí là sự kết hợp giữa Nho giáo với Phật giáo với các triết gia tiêu biểu là Chu Đôn Di (1017-1073), Trình Hạo (1032-1085), Trình Di (1033-1107), mà tiêu biểu nhất là Chu Hy (1130-1200). Minh Nho (còn gọi là Tâm học) là sự phát triển của Nho giáo thêm duy tâm với nhà tư tưởng tiêu biểu là Vương Thủ Nhân (Vương Dương Minh 1472-1528)Tuy có khác nhau ở mỗi thời kỳ, nhưng Nho giáo có cái chung là nó không phải là một tôn giáo, nó cũng không là một triết thuyết triết học, mà chỉ là một học thuyết về chính trị-đạo đức-xã hội của giai cấp phong kiến. Chủ trương của Nho giáo là dùng Đức trị, Nhân trị để quản lý xã hội. Nho giáo nêu lên một xã hội lý tưởng: “xã hội đại đồng”, “vua thánh tôi hiền”, “mọi cái đều của chung”, ”mọi người đều có quyền lợi”, “người người đều có sản nghiệp”, “người người yêu thương nhau như anh em”, “xã hội hoà mục”, “người người đều được chăm sóc”... Trên thực tế lý tưởng nhân đạo của Nho giáo là lý tưởng không tưởng, mà bản chất của Nho giáo chỉ là: Xây dựng ý thức tôn ty trật tự, trong xã hội dưới tuyệt đối phục tùng trên. Về triết học, Nho giáo là một học thuyết duy tâm khách quan với các quan niệm về Trời, Quỷ thần, Mệnh) Tư tưởng này ban đầu không phù hợp với xã hội vừa thoát thai từ Văn Lang-Âu Lạc với chế độ lạc hầu, lạc tướng của Việt Nam. Nhân dân Việt Nam khi đó không cần đến Nho giáo, mà Nho giáo vào Việt Nam là do bọn thống trị Trung Quốc áp đặt. Về sau Nho giáo mới là một yêu cầu tất yếu, một tư tưởng cần phải tiếp thụ của xã hội nửa thuộc địa nửa phong kiến Việt Nam cuối thời kỳ này. Nho giáo trong thời kỳ này là chưa mạnh, nhưng nó là tư tưởng định hướng cho sự phát triển của xã hội Việt Nam từ cuối thế kỷ X trở đi.Nho giáo đến Việt Nam từ thế kỷ I scn. Mục đích của Nho giáo là đào tạo người làm việc cho chính quyền Hán, trước là cho con em Hán thống trị tại Việt Nam, sau là cho con em Hán chạy loạn sang Giao Châu, nhưng cũng có người Việt theo học. Thời này đã có các trung tâm Hán học tại Luy Lâu, Long Biên, Tư Phố, Cư Phong. Thời Hán Minh Đế (68-75) đã có nhà Hán học người Việt nổi tiếng là Trương Trọng từng làm thái thú tại quận Kim Thành Trung Quốc; Ở thế kỷ II có Lý Tiến là một nhà Nho học từng làm thái thú quận Linh Lăng trung Quốc và 184-189 làm thứ sử Giao Châu. Ở thế kỷ III có Lý Cầm và Bốc Long từng làm quan ở Trung Nguyên. Ơ thế kỷ V hai anh em Khương Công Phụ và Khương Công Phục đều là tiến sỹ và đều làm quan tại Trung Quốc. Có thể nói Giao Châu là mảnh đất tốt cho nhiều nhà Nho Trung Quốc sang nương náu và sáng tác học thuật. Thái độ của nhân dân Việt Nam ta thời ấy với Nho giáo là từ sự phản ứng đến tiếp thụ, từ xa lạ đến gần gũi, từ là công cụ của kẻ thù đến công cụ của bản thân mình. Hiện tượng này xảy ra càng rõ ở cuối thời kỳ này. Lão-Trang do Lão Tử (cùng thời với Khổng tử) sáng lập và Trang Tử (369-286 tcn) phát triển, nó đối lập với Nho giáo trên nhiều lĩnh vực. Lão-Trang chủ trương con người không cần can thiệp vào xã hội; xã hội không cần can thiệp vào con người mà cứ để chúng phát triển tự nhiên theo đạo bản nhiên của nó. Họ tuyệt đối hoá tính tương đối bởi quy luật cân đối và phản phục của vạn vật. Đạo này vào Việt Nam thời kỳ này (207 tcn - 938 scn) chủ yếu lưu hành trong người Hán thất thế trên con đường chính trị, bị ngược đãi đã tìm đến Lão-Trang để tự an ủi mình. Nó chỉ là dấu vết của khuynh hướng tự do-tự tại, thể hiện trong các nhà Nho kiêm nhà thơ Việt Nam chịu ảnh
  18. hưởng của Nam Hoa kinh. Cuối thời kỳ này, khi thiền tông Trung Quốc truyền sang Việt Nam thì Lão-Trang mới ảnh hưởng rõ rệt đến các nhà tu hành Việt Nam. Đạo giáo là tôn giáo của Trung Quốc không liên quan đến Lão-Trang mà dựa một cách hình thức vào Đạo của Lão Tử và thờ Hoàng Đế Lão Tử (thần thánh hoá Lão Tử). Đạo này ảnh hưởng rõ rệt ở Việt Nam trong giai đoạn này. Nó gồm hai phái: phái phù thuỷ (chữa bệnh), phái thần tiên (luyện đan). Đạo này được nhiều người Việt Nam tin theo do nó phù hợp với tín ngưỡng dân gian Việt Nam, và nó bổ sung tín điều cho tín ngưỡng dân gian Việt Nam chưa có. Đạo Phật (Buddaha) có nguồn gốc từ Ấn Độ cổ đại, người sáng lập la Siddharatha Gauxtama (563-483 tcn), truyền đến Trung Quốc khoảng thế kỷ thứ I qua con đường “tơ lụa” xuyên Trung Á. Dòng truyền ở Trung Quốc là Đại Thừa. Các tông phái được người Trung Quốc ít nhiều gia công xây dựng là Pháp tướng tông (Duy thức), Thiên thai tông, Hoa nghiêm tông và đặc biệt là Thiền tông. Có thể nói Thiền tông là sản phẩm riêng của Phật giáo tại Trung Quốc. Cùng với quá trình Hán hoá các phái thiền của Trung Quốc tuy đến Việt Nam muộn hơn Phật giáo Ấn Độ, nhưng đã để lại dấu ấn sâu sắc hơn trong đời sống tinh thần người Việt. Thời kỳ này Việt Nam đã tiếp thu hai môn phái thiền của Trung Quốc là Tỳ Ni Đa Lưu Chi và Vô Ngôn Thông. NHỮNG TƯ TƯỞNG CƠ BẢN CỦA NGÔ THÌ NHẬM ( 1746-1803) Ngô Thì Nhậm (   ; còn gọi là Ngô Thời Nhiệm; 1746–1803), tự là Hy Doãn, hiệu là Đạt Hiên, là danh sĩ, nhà văn đời hậu Lê–Tây Sơn, người có công lớn trong việc giúp triều Tây Sơn đánh lui quân Thanh. Ngô Thì Nhậm xuất thân gia đình vọng tộc chốn Bắc Hà, là con Ngô Thì Sĩ, người làng Tả Thanh Oai, ngày nay thuộc huyện Thanh Trì Hà Nội. Ông là nhà tư tưởng lỗi lạc của thời có nhiều biến loạn xã hội. Sự nghiêp:Ngô Thì Nhậm thông minh, học giỏi, sớm có những công trình về lịch sử. Ông thi đỗ giải ̣ nguyên năm 1768, rồi tiến sĩ tam giáp năm 1775. Sau khi đỗ đạt, ông được bổ làm quan ở bộ Hộ dưới triều Lê–Trịnh, được chúa Trịnh Sâm rất quý mến. Năm 1778 làm Đốc đồng Kinh Bắc và Thái Nguyên. Khi đó cha ông làm Đốc đồng Lạng Sơn. Cha con đồng triều, nổi tiếng văn chương trong thiên hạ.Sau Vụ án năm Canh Tý (1780), ông bị nghi ngờ là người tố giác Trịnh Khải nên phải bỏ trốn về quê vợ ở Thái Bình lánh nạn.Năm 1788, Nguyễn Huệ ra Bắc lần hai, xuống lệnh "cầu hiền" tìm kiếm quan lại của triều cũ. Danh sĩ Bắc Hà đã đầu quân cho nhà Tây Sơn từ trước đó mới chỉ có Trần Văn Kỉ, Ngô Văn Sở và Đặng Tiến Đông. Tuy vậy, tới thời điểm này thì cả vua Lê lẫn chúa Trịnh đều đã đổ. Ngô Thì Nhậm và một số thân sĩ Bắc Hà khác như Phan Huy Ích, Bùi Dương Lịch; các tiến sĩ Ninh Tốn, Nguyễn Thế Lịch, Nguyễn Bá Lan; Ðoàn Nguyễn Tuấn (anh rể Nguyễn Du); Vũ Huy Tấn; Phạm Huy Lượng (tác giả "Tụng tây Hồ phú" )... lần lượt ra làm quan cho nhà Tây Sơn. Sử cũ viết khi được Thì Nhậm, Nguyễn Huệ mừng mà rằng: "Thật là trời để dành ông cho ta vậy", và phong cho ông chức Tả thị lang bộ Lại, sau lại thăng làm thượng thư bộ Lại-chức vụ cao cấp nhất trong Lục bộ.Cuối năm Mậu Thân (1788) do vua Lê Chiêu Thống cầu viện, 29 vạn quân Thanh kéo sang Đại Việt, với chiêu bài diệt Tây Sơn dựng lại nhà Lê. Ngô Thì Nhậm đã có kế lui binh về giữ phòng tuyến Tam Điệp - Biện Sơn (Ninh Bình) góp phần làm nên chiến thắng của nhà Tây Sơn.Năm 1790, vua Quang Trung đã giao cho Ngô Thì Nhậm giữ chức Binh bộ thượng thư. Tuy làm ở bộ Binh, nhưng Thì Nhậm chính là người chủ trì về các chính sách và giao dịch ngoại giao với Trung Hoa. Ông là người đứng đầu một trong những sứ bộ ngoại giao sang Trung Hoa. Sau khi Quang Trung mất, ông không còn được tin dùng, quay về nghiên cứu Phật học.Sau khi Gia Long tiêu diệt nhà Tây Sơn, Ngô Thì Nhậm, Phan Huy Ích, Nguyễn Thế Lịch và một số viên quan triều Tây Sơn thì bị đánh bằng roi tại Văn Miếu năm 1803. Ngô Thì Nhậm sau trận đánh đòn, về nhà thì chết. Tac phâm chinh: - Hai Dương chí lược.- Hy Doan thi văn tâp.- Xuân Thu quan kiên ́ ̉ ́ ̉ ̃ ̣ ̉ ́ Về chính trị-xã hội:Ông quan niệm xã hội loạn là do người và chính sách của triều đình chứ không phải tại trời; Trong cuộc đời phải làm cho Âm-Dương hòa hợp thì xã hội mới thanh bình; Theo ông, vua là tiêu biểu cho xã hội. Lý tưởng của ông là Vua Thánh - Tôi Hiền, nhưng quan trọng vẫn là dân. Thái độ và xu hướng của dân có ảnh hưởng trực tiếp đến vận mệnh triều đình. Để được dân thì không tham ô, tiêu cực. Với quan lại phải được giáo dục lại để vừa có văn vừa có hạnh (thanh, liêm, tiết). Ông chủ trương tìm các nguyên nhân kinh tế cho các vấn đề xã hội: Dân phiêu bạt, loạn lạc là do họ không đủ no, do quan không làm tròn chức phận của mình, thầy giảng
  19. không tinh, đại thần thưởng phạt không công minh... Ông chủ trương mọi công việc của triều đình là phải lo cho dân đủ no, quan lại được sung túc. Về triết học:Ông thừa kế và phát triển các phạm trù triết học phương Đông như thời, mệnh trời: Thời- Thế, Mệnh trời-Thời-Lòng người. Quan niệm của ông thể hiện bất khả tri, quyết định luận. Về đạo làm người:Ông nhấn mạnh Trung Hiếu, Nhân Nghĩa, Đạo đức. Cuối đời ông chuyển lập trường từ Nho sang Phật. Yêu nước theo kiểu kẻ sỹ. Chiểu theo Thiên mệnh - Thời - Long người ông đã theo Tây Sơn1. Câu ứng đôi nôi tiêng:Tương truyền Ngô Thì Nhậm và Đặng Trần Thường có quen biết với nhau. ́ ̉ ́ Lúc Ngô Thì Nhậm được vua Quang Trung trọng dụng thì Đặng Trần Thường đến xin Nhậm tiến cử. Trông thấy vẻ khúm núm làm mất phong độ của kẻ sĩ, Nhậm thét bảo Thường: Ở đây cần dùng người vừa có tài vừa có hạnh, giúp vua cai trị nước. Còn muốn vào luồn ra cúi thì đi nơi khác.Đặng Trần Thường hổ thẹn ra về, rồi vào Nam theo Nguyễn Phúc Ánh.Sau khi nhà Tây Sơn mất, các võ tướng và một số quan văn bị giải về Hà Nội để bị xử phạt đánh bằng roi ở Văn Miếu, trong số đó có Phan Huy Ích và Ngô Thì Nhậm. Chủ trì cuộc phạt đánh đòn đó là Đặng Trần Thường.Vốn có thù riêng, Đặng Trần Thường kiêu hãnh ra vế câu đối cho Ngô Thì Nhậm:Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai.Ngô Thì Nhậm khảng khái đáp:Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế.Có thuyết nói rằng, nguyên câu đối lại của Ngô Thì Nhậm là:Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, dù thời thế, thế nào cũng thế hoặc là:Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế nào vẫn thế Đặng Trần Thường bắt ông phải sửa lại như câu nói "thế đành theo thế" (hay thế thời theo thế hoặc là thế thì phải thế). Ngô Thì Nhậm không nói lại. Thường tức giận sai người dùng roi tẩm thuốc độc đánh ông.Sau trận đòn về nhà, Phan Huy Ích không bị đánh bằng thuốc độc nên còn sống. Còn Ngô Thì Nhậm bị thuốc độc ngấm vào tạng phủ, biết mình không qua khỏi, trước khi qua đời ông có làm bài thơ gửi tặng Đặng Trần Thường như sau:Ai tai Đặng Trần Thường,Chân như yến xử đường,Vị Ương cung cố sự,Diệc nhĩ thị thu trường.Nghĩa là: Thương thay Đặng Trần Thường. Nay quyền thế lắm đấy, nhưng khác nào như chim yến làm tổ trong cái nhà sắp cháy, rồi sẽ khốn đến nơi. Giống như Hàn Tín giúp Hán Cao tổ, rồi bị Cao tổ giết ở cung Vị Ương. Kết cục của ngươi rồi cũng thế đó. Tạm dịch:Thương thay Đặng Trần Thường,Tổ yến nhà xử đường,Vị Ương cung chuyện cũ,Tránh sao kiếp tai ương?Quả nhiên sau này bài thơ ứng nghiệm, Thường bị Gia Long xử tử. TƯ TƯỞNG CỦA TRẦN QUỐC TUẤN Trần Quốc Tuấn: Ông là con của An Sinh Vương Trần Liễu, sinh dưới thời Trần Thái Tông (Trần Cảnh) chưa rõ năm nào và mất năm 1300 (thời Trần Anh Tông). Ông là vị tướng cầm quân ba lần đánh tan quân Nguyên Mông trong đó hai lần sau là tiết chế thống lĩnh các đạo quân (1257, 1285, 1287). Ông là người đức độ, quý trọng nhân tài, luôn vì nước mà tiến cử nhân tài như Yiết Kiêu, Dã Tượng, Phạm Ngũ Lão, Trương Hán Siêu...Ông để lại cho đời sau những tác phẩm nổi tiếng: Hịch tướng sỹ, Binh gia diệu lý yếu lược, Vạn Kiếp tông bí truyền thư. Hai tác phẩm sau nay đã thất truyền. Những tư tưởng chính của ông là:- Dựa vào dân để đánh giặc giữ nước, làm cho mỗi người dân trở thành một chiến sỹ tham gia vào cuộc chiến đấu chống quân xâm lược. Muốn thế thì phải đoàn kết toàn dân. Muốn đoàn kết toàn dân thì phải khoan thư sức dân. Khoan thư sức dân là “kế sâu gốc bền rễ”, “là thượng sách giữ nước”. Khoan thư sức dân là nền móng của khối đại đoàn kết toàn dân để khi có chiến tranh thì sức mạnh của nhân dân được nhân lên gấp bội. Tức: Phải quan tâm đến việc sản xuất và đời sống của dân, tranh thủ sự đồng lòng và ủng hộ của dân. Phải thấy quần chúng nhân dân có vai trò quyết định đối với sự phát triển tài năng của các vị anh hùng xuất chúng. Anh hùng chỉ làm nên nghiệp lớn khi có sự giúp đỡ của quần chúng. Không có sự giúp đỡ và ủng hộ của quần chúng thì không có các anh hùng xuất chúng. - Ông thấy được rằng, để thực hiện đoàn kết toàn dân thì nội bộ nhà Trần phải đoàn kết xiết chặt xung quanh vua và ông là những người đại biểu cho ý chí chống ngoại xâm của cả dân tộc. Ông noi gương Trần Thái Tông khi nhà vua tự hòa giải với Trần Liễu mà chủ động cải thiện quan hệ giữa ông với Trần Quang Khải.- Nền tảng cho tư tưởng xây dựng đội quân thường trực và lực lượng vũ trang nhân dân của 1
  20. ông là “lòng dân không chia”, “cả nước góp sức” chống giặc. Với đội quân thường trực ông chủ trương tinh hơn đa. Chất lượng của đội quân theo ông, nó phụ thuộc không ít vào sự đoàn kết nhất trí, chung sức chung lòng của quân sỹ. Ông chủ trương nguyên tắc xây dựng quân đội “quân lính một lòng như cha con”. Ông đối đãi trọng hậu với các tỳ tướng. Ông chỉ ra cho các tỳ tướng và tỳ tướng thuộc hạ của mình thấy rõ sự gắn bó quyền lợi của mình với tập đoàn vương hầu quý tộc nhà Trần. Sự thống nhất về quyền lợi ấy là cơ sở cần thiết tạo nên sự thống nhất ý chí giữa vua tôi, tướng sỹ, binh lính.- Trong xây dựng quân đội, ông là người rất chú ý quan tâm đến vấn đề tinh thần quân đội. Ông rất coi trọng vấn đề tư tưởng mà trước hết là tư tưởng của các tỳ tướng. Ông xác định dứt khoát lập trường địch ta là không đội trời chung. Ông phê phán kịch liệt những kẻ “nhìn chủ nhục mà không biết lo, thấy nước nhục mà không biết thẹn, làm tướng triều đình phải hầu quân giặc mà không biết tức, nghe nhạc thái thường đãi yến ngụy sứ mà không biết căm”. Ông truyền ngọn lửa căm thù cho tướng sỹ “ta thường tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối, ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa; chỉ căm tức chưa xẻ thịt lột da nuốt gan uống máu quân thù”.- Phẩm chất hàng đầu của tướng sỹ cũng là của toàn quân mà ông đòi hỏi là trung nghĩa, nhưng trung nghĩa ở ông cũng chỉ dừng ở trung với vua. Ngoài ra để xây dựng những phẩm chất cho toàn quân, ông còn đề xuất một loạt các khái niệm đạo đức như anh hùng, vinh dự, sỹ nhục,.. chống lại những tư tưởng cầu an hưởng lạc, khích lệ toàn quân luyện tập, nâng cao tinh thần cảnh giác và sẵn sàng chiến đấu. - Ông là người quan tâm đúng mức đến việc rèn luyện năng lực chỉ huy của tướng lĩnh và nâng cao trình độ tác chiến của binh sỹ. Theo ông, người giỏi cầm quân không cần bày trận, người giỏi bày trận thì không cần phải đánh, người giỏi đánh thì không thua, người khéo thua thì không chết. - Trong chiến tranh chính nghĩa cứu nước, ông có phương châm tác chiến chính xác: “Giặc cậy trường trận, ta cậy đoản binh, lấy đoản chế trường là việc thường của binh pháp”. Những tư tưởng chính trị quân sự thiên tài của ông là những cống hiến quan trọng vào sự phát triển lịch sử tư tưởng nước nhà. Nó phản ánh những quy luật cơ bản của chíến tranh giữ nước không phải chỉ thời Trần mà còn mãi về sau. NỘI DUNG CƠ BẢN TƯỞNG TRIẾT HỌC VIỆT NAM : Suốt mấy nghìn năm,người Việt Nam là chủ nhân của mảnh đất này.Trong quá trình giữ nước và giành độc lập cho đất nước và dựng nước,họ dần hình thành một tư duy khái quát về tự nhiên,xã hội,con người,về con đường,biện pháp nhận thức và cải tạo thế giới khách quan sao cho có lợi cho mình.Tư duy này là cơ sở để tiến tới tư duy Triết Học. Việt Nam nằm giữa hai trung tâm triết học lớn của thế giới là Trung Quốc và Ấn Độ.Hệ thống triết học phương Đông mà hai nước trên là tiêu biểu có điều kiện truyền bá vào nước ta từ sớm,ở đầu thời kì Bắc Thuộc.Ở thời cận đại,do sự bành trướng của chủ nghĩa tư bản phương Tây,nhiều trào lưu triết học của phương Tây cũng đã giới thiệu vào Việt Nam.Ở thời hiện đại,do yêu cầu của giải phóng dân tộc và giải phóng giai cấp công nhân,nông dân,trào lưu triết học Mác-Lê Nin được truyền bá mạnh mẽ vào nước ta.Đó là những điều kiện khách quan thuận lợi,góp phần thúc đẩy sự hình thành và phát triển của tư duy triết học Việt Nam. Tư duy vốn có của dân tộc cộng với các học thuyết triết học vốn có từ bên ngoài truyền vào,đã khiến người Việt Nam từ lâu trong lịch sử đã hình thành một tư tưởng triết học.Tư tưởng này do hạn chế khách quan và chủ quan,chưa trở thành hệ thống,chưa xuất hiện các trường phái triết học,các nhà triết học thực thụ.Nhưng đã có những trường phái tư tưởng ,các nhà tư tưởng mang sắc thái triết học.Chịu các ảnh hưởng của triết học Trung Quốc và triết học Ân Độ,tư tưởng triết học Việt Nam mang những nét chung của triết học phương Đông.Đó là hệ thống khái niệm,phạm trù của triết học phương Đông,là sự chú trọng vào vấn đề xã hội và con người,là sự gắn bó giữa triết học với chính trị và đạo đức,hoặc giữa triết học với tôn giáo,v.v…..Nhưng tư tưởng triết học Việt Nam không phải là hình ảnh thu nhỏ của triết học Trung Quốc hay Ân Độ,cũng không phải là bản sao rời rạc của hai nền triết học trên như một só nhà học giả phương Tây quan niệm.Ngoài những nét chung với triết học TQ,Ấn Độ,tư tưởng triết học Việt Nam có những đặc trưng mà ở hai nền triết học trên không có,hoặc không rõ nét.Những
nguon tai.lieu . vn