Xem mẫu

  1. Giải thưởng Sinh viên Nghiên cứu khoa học Euréka lần XIX năm 2017 Kỷ yếu khoa học TƯ TƯỞNG TRIẾT LUẬN TRONG TIỂU THUYẾT CỦA HERMANN HESSE Nguyễn Hữu Minh* Trường Đại học Sư phạm – Đại học Huế *Tác giả liên lạc: nguyenhuuminh123@gmail.com TÓM TẮT Nội dung tư tưởng triết luận trong tiểu thuyết của Hermann Hesse rất phong phú, nhìn tổng thể có thể quy về ba bình diện: triết luận về con người, triết luận về cuộc đời và triết luận về tôn giáo. Ở mỗi bình diện, tác giả đã thể hiện cái nhìn triết lý, suy nghiệm của bản thân thông qua lớp hình tượng, biểu tượng nghệ thuật đặc sắc: từ những vấn đề thuộc bản thể con người như tình yêu, hạnh phúc,…; những vấn đề thuộc phạm trù cuộc đời như sự dấn thân, trải nghiệm,… cho đến những vấn đề thuộc phạm trù tôn giáo như hành trình con người từ tiểu ngã đến đại ngã, duyên, nghiệp và luân hồi, giác ngộ và giải thoát,… Thông qua việc phân tích những tư tưởng triết luận trên, người đọc có thể khám phá được hành trình tự chứng nghiệm tâm linh đầy tính nhân văn, nhân đạo của tác giả. Từ những khám phá đó đã mở ra những chân trời tiếp nhận khác nhau, làm dày thêm những tầng bậc ý nghĩa của các tác phẩm. Từ khóa: Tư tưởng triết luận, con người, cuộc đời, tôn giáo. THESE RESOLUTIONS IN HERMANN HESSE'S THEORY Nguyen Huu Minh* University of Education - Hue University *Corresponding author: nguyenhuuminh123@gmail.com ABSTRACT The content of Hermann Hesse's fiction in the novel is plentiful, the whole view can be of three dimensions: human philosophy, life philosophy and religious philosophy. At each level, the author has expressed his philosophical views, his own reflection through the image class, special art symbols: from issues of human nature such as love, happiness,... The life-related issues such as commitment, experience, etc., to religious issues such as the human journey from the sub-self to the great self, the karmic retribution, the enlightenment and the reincarnation. escape,... Through the analysis of the above ideas, readers can discover the process of spiritual self-experience, humanity, humanity of the author. From these discoveries opened up different reception horizons, thickening the meaning of the works. Keywords: Ideological thought, people, life, religion. MỞ ĐẦU tổng hòa các nền văn hóa, tôn giáo, các tư Hermann Hesse là một trong những nhà thơ, tưởng của phương Tây lẫn phương Đông. nhà văn viết bằng tiếng Đức được đọc nhiều Cảm quan ấy chính là cơ sở của những tư nhất trên thế giới. Năm 1946, ông nhận giải tưởng triết luận trong tiểu thuyết của Nobel văn học cho tác phẩm Das Hermann Hesse, khiến chúng trở nên sâu sắc, Glasperienspiel17 nhưng trước đó với bốn có tính chu kỳ giữa các nhân vật và cũng là tiểu thuyết Tuổi trẻ và cô đơn, Siddhartha, “liều thuốc chữa bệnh” đầy hữu hiệu mà nhà Sói thảo nguyên và Đôi bạn chân tình, văn luôn hi vọng gửi gắm đến bạn đọc, vừa Hermann Hesse đã thể hiện cá tính riêng biệt cho chính bản thân ông trong hành trình tự của mình qua phong cách sáng tác mang cảm suy nghiệm và chứng nghiệm bằng văn quan hậu – lãng mạn, suy đồi hiện đại ở chương. Châu Âu vào nửa đầu thế kỷ XX cùng sự TƯ TƯỞNG TRIẾT LUẬN TRONG 17 Das Glasperienspiel: Tạm dịch là “Trò chơi hạt TIỂU THUYẾT CỦA HERMANN ngọc thủy tinh”. Ở Việt Nam, tác phẩm này được HESSE Nguyễn Ngọc Minh chuyển tác từ bản Anh ngữ với Tư tưởng triết luận về con người tên gọi “Tuồng ảo hóa” (1972), NXB Nguồn Sáng. 616
  2. Giải thưởng Sinh viên Nghiên cứu khoa học Euréka lần XIX năm 2017 Kỷ yếu khoa học Mỗi nhân vật xuất hiện trong tiểu thuyết của ơi, theo tôi là điều quan trọng hơn hết thảy… Hesse đều là một dụng ý, một sự gửi gắm về còn tôi chỉ tha thiết một điều duy nhất thôi: mặt tư tưởng của con người nói chung trong có thể yêu thương thế giới, không coi thường xã hội. Có thể thấy hai kiểu phạm trù về con nó, không thù ghét nó và tôi, có thể nhìn người được Hesse triết luận xuyên suốt trong ngắm nó và tôi cùng mọi vật với lòng thương tiểu thuyết: con người bản thể và con người yêu, ngưỡng mộ và kính trọng.” [3, tr.211]. tâm linh thể hiện qua hình tượng các nhân Đó là tình yêu thương hết thảy vạn vật, bất vật từ Peter Camenzind (Tuổi trẻ và cô đơn) kể đối tượng là ai, dù họ ở trong hoàn cảnh cho đến Lundi Joseph Knecht (Das nào: là lòng bao dung của Đức Cồ Đàm Glasperienspiel). Đối với Hesse, trong khi (Siddhartha) với tất cả những người đến tầm kiểu con người bản thể sống và hành động đạo, dù ở lại hay ra đi; là Vasudeva theo theo bản ngã, hướng về đời sống thế tục, (Siddhartha) – hiện thân của bồ tát sẵn sàng ưa thích dấn thân và nếm trải mọi thứ trong “đưa người sang bờ”, cứu giúp cuộc đời của đời thì kiểu con người tâm linh lại thiên về Siddhartha mà không đòi hỏi gì; là Peter đời sống tôn giáo, hi vọng đạt được sự giải Camenzind – hiện thân của thánh Francis khi thoát về cả thể xác lẫn tinh thần. Hai kiểu con tự nguyện trở thành nguồn sống cho Boppi - người ấy có khi xung đột lẫn nhau nhưng có một người bị tật nguyền. Có thể thấy, triết lý khi lại hòa quyện bổ sung vào nhau. Điều về tình yêu của Hesse luôn đa dạng trong này được thể hiện rất rõ qua các cặp nhân vật từng tiểu thuyết. Ở góc độ này, nó gắn liền vừa song trùng lại vừa lưỡng diện: với yếu tố trần tục và mang tính bản năng của Siddhartha với Govinda (Siddhartha), con người. Ở một góc độ khác, nó lại gắn Narziss với Goldmund (Đôi bạn chân tình), liền với yếu tố tỉnh thức hay là những trải Harry Haller với Gustav (Sói thảo nguyên), nghiệm cần thiết để hiểu cuộc đời. Đặc biệt, Emil Sinclair với Max Demian nhờ sử dụng “chất liệu” tình yêu mà tiểu (Demian18),… hoặc xung đột về tính cách và thuyết của Hesse chất chứa nhiều giá trị nhân nội tâm ngay bên trong mỗi nhân vật đạo, nhân văn sâu sắc. (Siddhartha, Harry Haller, Emil Sinclair, Nhưng tình yêu cũng chỉ là một cơ sở trong Narziss,…). Nhưng dù là triết luận về kiểu hành trình đi tìm hạnh phúc của các nhân vật. con người nào đi nữa thì mục đích chính của Bàn về triết lý của hạnh phúc, Hesse cho Hesse vẫn là khám phá tận cùng thế giới bản rằng: “Ngay cả cuộc sống bất hạnh nhất ngã và thế giới tâm linh của con người, cũng có những giờ phút rạng rỡ ánh hồng và hướng con người đến sự toàn thiện trong mỗi những đóa hoa hạnh phúc nở bừng giữa cát cá thể và nhất thể với cuộc sống. sỏi” [4, tr.73]. Hạnh phúc có từ trong các mối Để khám phá thế giới phức tạp bên trong mỗi quan hệ giữa con người với vạn vật, khi con người, Hesse đã thể hiện các chủ đề chính người ý thức về sự tri nhận thế giới là lúc con trong tiểu thuyết gắn với bản thể con người người đặt ra mục đích sống hạnh phúc cho như tình yêu, hạnh phúc, sự sống và cái bản thân. Theo Daniel M. Haybron: “Hạnh chết,... như những tư tưởng triết luận chính phúc là khi đạt tới trạng thái cảm xúc tốt được ông gửi gắm thông qua các hình tượng đẹp” [1, tr.30]. Những trạng thái cảm xúc tốt nhân vật. Trước hết, đối với Hesse, các nhân đẹp đó đến từ sự thỏa mãn của con người về vật chính là những đại diện tiêu biểu thể hiện bất cứ vấn đề nào trong cuộc sống. Nhưng tình yêu lớn của ông. Đó là thứ tình yêu hết điều mà nhà văn quan tâm không chỉ dừng lại thảy mộc mạc, giản dị thể hiện qua các mối ở vấn đề con người có đạt được hạnh phúc quan hệ tình cảm thông thường như tình phụ hay không. Quan trọng hơn, nhà văn nhấn tử, tình bạn bè, tình thầy trò, tình yêu đôi mạnh về cách thức, con đường dẫn đến hạnh lứa,…. Bên cạnh đó, tình yêu trong các tiểu phúc và thái độ quý trọng từng khoảnh khắc thuyết của ông còn được thể hiện như một sự hạnh phúc mà con người đang có. Điều thú cao thượng, từ bi, bác ái, hướng đến sự vị, không chỉ tình yêu mà Hesse còn xem thiêng liêng và toàn thiện: “tình yêu, Govinda hạnh phúc như một nghệ thuật sống, là con đường dẫn đến nội tâm, khám phá bản thể 18 Demian: Ở Việt Nam, tác phẩm này được Hoài con người. Đôi khi triết luận về hạnh phúc, Khanh chuyển tác với tên gọi “Tuổi trẻ băn khoăn” Hesse còn cho rằng con người có thể đạt (1968), NXB Hội Nhà Văn. 617
  3. Giải thưởng Sinh viên Nghiên cứu khoa học Euréka lần XIX năm 2017 Kỷ yếu khoa học được hạnh phúc từ chính mặt đối lập với nó có người đơn giản muốn được đặt chân đến là sự bất hạnh: những nỗi đau khổ, sự cô mọi miền trên thế giới và trở thành một trong đơn,... Từ trong những sự bất hạnh ấy, hạnh những kiều dân được phép cư trú trên mỗi phúc vẫn vươn lên tạo niềm tin, động lực vùng đất ấy (Peter Camenzind), hoặc có kẻ sống nhằm an ủi, chữa lành những vết ôm trong mình khát vọng trải nghiệm mọi thương vô hình. thứ, muốn hiểu về cuộc sống, về thiên nhiên Bên cạnh tình yêu và hạnh phúc, một trong theo cách riêng của mình (Goldmund),… Để những tư tưởng triết luận chính mà Hesse đạt được những điều ấy, một yêu cầu bắt bàn đến là vấn đề sự sống và cái chết của con buộc: họ phải biết dấn thân vào thế giới mà người. Hai vấn đề này được nhà văn triết Hesse gọi là “vòng tục lụy”. Đó là triết lý luận nhằm thể hiện thái độ của con người mang tư tưởng hiện sinh rất tích cực trong trước cuộc đời: có người xem đó là gánh tiểu thuyết của Hesse. nặng, cũng có kẻ xem đó là niềm khinh Ý nghĩa cuộc đời từ góc độ những cuộc hành khoái. Đối với Hesse, sự sống và cái chết trình có thể bắt đầu vì nghĩa vụ hoặc có thể mang một nội hàm triết lý sâu xa, vượt lên ý do sự tự nguyện nhưng rồi cái mà con người nghĩa vật lý đơn thuần: “một cái đồng nghĩa đạt được sau mỗi lần dấn thân trải nghiệm dù với sự tách lìa khỏi toàn thể, và một cái là sự cố ý hay vô tình là sự hiểu biết, trưởng thành, trở về” [4, tr.101] và rằng vấn đề sinh tử là lòng quả cảm và ước mơ của bản thân. Hơn một bản án không lối thoát của con người. thế, đằng sau những cuộc hành trình còn là Trong khi sự sống là những gì tinh túy nhất triết lý về nghệ thuật sống và về sự dung hòa thuộc về thế giới bản thể và tâm linh của con giữa đời sống và nghệ thuật, nghệ thuật và người, là sự dung hòa giữa đời sống tinh thần tâm linh. và thế tục thì motip cái chết trong tiểu thuyết Ngoài ra, khi Hesse triết luận về cuộc đời, ta mang ý nghĩa làm nổi bật giá trị sự sống, dễ nhận ra ông cũng đang triết luận về những thức tỉnh lương tri con người. chọn lựa và từ bỏ. Khi chuyến hành trình này Nghệ thuật thể hiện tư tưởng triết luận về con kết thúc là lúc một chuyến hành trình mới bắt người của Hesse không chỉ được thể hiện qua đầu cho đến khi nhân vật đã về già hay đã đạt những phát ngôn trực tiếp từ điểm nhìn trần được ước mơ trong đời. Ngay lúc con người thuật ngôi thứ ba một cách khách quan với đạt được điều gì, họ lại muốn đặt ra những giọng điệu và ngôn ngữ mang tính triết luận mục đích sống khác cho bản thân. Vì vậy họ mà còn thể hiện qua hệ thống biểu tượng cần phải chọn lựa và từ bỏ những khả năng trong các tiểu thuyết: núi và hồ, bão và nắng, trước mắt. Nhưng dù là chọn lựa hay từ bỏ tuyết và mây, đá, rượu (Peter Camenzind); thì đều có những ý nghĩa nhất định. Con khu rừng, khu vườn, con chim (Siddhartha); người lựa chọn vì nhận ra điều đó phù hợp sói, tiếng cười (Sói thảo nguyên); người mẹ với bản thân mình nhưng từ bỏ bởi nhận ra (Đôi bạn chân tình);… Tất cả những biểu sự chọn lựa kia không còn phù hợp với mình tượng ấy ẩn chứa nhiều ý nghĩa, đi sâu khám nữa hay có những chọn lựa khác tốt hơn. Sự phá thế giới phức tạp bên trong con người, chọn lựa ấy cũng đồng nghĩa với việc con giữa những xung đột và sự hòa quyện giữa người sẽ từ bỏ một giá trị sống cũ để đón con người tâm linh và con người bản thể. nhận một giá trị sống mới. Nhưng tất cả đều Tư tưởng triết luận về cuộc đời chỉ mang tính tương đối. Cả hai vấn đề này Một trong những motip xuất hiện hầu như có thể tích cực hay tiêu cực còn tùy thuộc trong tất cả các tiểu thuyết của Hermann vào đối tượng, vấn đề, hoàn cảnh và thời Hesse chính là motip hành trình trải nghiệm. điểm cụ thể xảy ra. Ngoài ra, Hesse còn nhấn Đó là những chuyến hành trình của cuộc đời mạnh đến yếu tố tự do thực hiện mục đích mang chiều sâu triết học được nhà văn sống của bản thân mỗi người, bất chấp những chuyển tải qua hình tượng cuộc đời của các hệ lụy xấu có thể xảy đến trong tương lai. nhân vật. Mỗi nhân vật đều có những chuyến Bởi trên hành trình con người đi khám phá hành trình trải nghiệm về cuộc đời khác biệt, bản thể và tâm linh của mình, yếu tố tự do là mang đậm dấu ấn cá nhân. Ban đầu vì mục một trong những điều tiên quyết ảnh hưởng đích sống của bản thân, có người muốn tìm đến khả năng tri nhận toàn bộ nhận thức về kiếm chân lý của sự giác ngộ (Siddhartha), cuộc đời. Nhìn chung, hành trình cuộc đời 618
  4. Giải thưởng Sinh viên Nghiên cứu khoa học Euréka lần XIX năm 2017 Kỷ yếu khoa học chính là con đường, là phương tiện để con linh chính mình, hướng tất cả đến với sự toàn người khám phá bản thể và tâm linh, từ đó thiện, với nhất thể như thế giới Thiên Đường vươn đến sự toàn thiện và nhất thể với cuộc trong Thiên Chúa giáo hay cõi Niết Bàn sống. trong Phật giáo. Hesse từng cho rằng: “không Triết luận về cuộc đời thông qua tiểu thuyết, ai được ban cho giải thoát qua lời thuyết Hesse còn nhắc đến niềm hy vọng như một giảng!” [3, tr.58]. Như vậy, điều mà nhà văn sự cứu rỗi con người trong cuộc sống. Trên muốn nhắn nhủ đến chúng ta rằng mỗi người chuyến hành trình cuộc đời, các nhân vật của phải tự tìm cho mình con đường để tự chứng Hesse không ngừng đối mặt với những nghiệm và đạt được giải thoát. chướng ngại: sự mất mát về vật chất lẫn tinh Bàn về tư tưởng triết luận tôn giáo trong tiểu thần, bệnh tật, tuổi già,… nhưng quan trọng thuyết của Hesse, ta không khó bắt gặp hình hơn, họ không đánh mất sự tin tưởng của tượng nhân vật trên con đường tự chứng mình vào cuộc đời. Niềm hy vọng ấy không nghiệm. Đó là hành trình đi từ tiểu ngã dễ đạt được nếu con người không ngừng nỗ (atman) đến đại ngã (brahman) (từ dùng lực, phấn đấu vì lý tưởng. Bởi niềm hy vọng trong Bà La Môn giáo) hay từ ngã (Atman) cũng được xem như thành quả của quá trình đến vô ngã (anatman) (từ dùng trong Phật khám phá thế giới ngoại vi lẫn bản thể nội giáo). Xuất phát điểm của những cuộc hành tại. Thông qua Harry Haller - nhân vật chính trình ấy xoay quanh vấn đề sinh tử rằng: của Sói thảo nguyên bị cả xã hội ruồng bỏ “Mọi sinh nở đều có nghĩa chia lìa với toàn bởi lối sống kì dị, cô độc; Hesse gửi gắm đến thể, có nghĩa xác định ranh giới, tách rời bạn đọc “một thế giới của niềm tin tích cực, khỏi Chúa, có nghĩa một sự tạo dựng mới vui tươi, vượt khỏi phạm vi cá nhân và phi đầy đau khổ” [4, tr.101]. Đức Phật cũng cho thời gian” [4, tr.10]. Qua tiểu thuyết này, rằng con người khi ra đời đã mang trong Hesse trở thành vị thầy bốc thuốc, chẩn bệnh mình tội lỗi. Vậy tội lỗi ấy đến từ đâu? Cả cho mọi người khi phát hiện căn bệnh của hai tôn giáo đều cho rằng nó bắt nguồn từ thời đại lúc bấy giờ: “Đời người chỉ thật sự lòng tham dục của con người, từ vô minh. thống khổ, thật sự biến thành địa ngục, khi Bởi vì mang trong mình tội lỗi, con người hai thời đại… chồng chéo lên nhau… Có trôi dạt trong “vòng tục lụy”, trong sáu nẻo những thời kỳ mà cả một thế hệ lạc loài vào luân hồi không thấy điểm kết thúc. Việc các giữa hai thời đại, giữa hai phong cách sống nhân vật tìm cách thoát khỏi “vòng tục lụy”, như thế, khiến nó mất đi mọi khả năng thấy tìm đến với sự giác ngộ để được giải thoát mình đương nhiên được quyền hiện hữu, mất chính là con đường đi từ thể xác đến linh đi mọi tập tục, cảm tưởng được bao bọc và hồn, hay nói theo cách nhà Phật đó là con mất đi tính hồn nhiên vô tư” [4, tr.5-6]. Bởi đường diệt ngã. Thông qua hình tượng nhân nhờ phát hiện bệnh mà ông thể hiện sự hy vật Siddhartha, Hesse đã tái hiện lại con vọng vào bản thân mỗi người phải tự thấy đường ngộ đạo của Đức Phật. Ngài đã từng được sự bất an trong chính tâm hồn mình, để là một người phàm như bao người khác, từng chính sự bất an ấy giục giã người ta tìm cách là một hoàng tử, cưới vợ, sinh con. Nhưng chữa bệnh. Như vậy, điều mà Hesse triết lý khi cảm nhận được sự vô thường, vô minh về niềm hy vọng không ngoài một ý tưởng của thế giới, Ngài từ bỏ tất cả để chuyên tâm nào khác: cuộc đời phải gắn liền với sự hy tu tập Trung đạo và đã đắc được Niết bàn. vọng thì cuộc đời mới có ý nghĩa, có giá trị Qua việc thể hiện này, Hesse cho thấy con tích cực đối với bản thân mỗi người. đường đi đến bờ giác ngộ và giải thoát không Tư tưởng triết luận về tôn giáo hề dễ. Nhưng điều đáng chú ý: “câu chuyện Hermann Hesse là một trong những nhà văn về Ấn Độ của Hesse dựa trên sự phát triển đặc biệt say mê tìm hiểu các tôn giáo trên thế tâm linh nghịch lý của một người Bà La Môn giới. Cuộc hành trình sang Đông phương đã trẻ tuổi theo đạo Phật. Siddhartha, một phần giúp ông tìm thấy những gì phương Tây nào đó, là một người chống đạo Phật … thiếu. Đối với Hesse, tôn giáo vừa là nơi trú Siddhartha đã chống lại Đức Cồ Đàm và bài ẩn an toàn cho đời sống tinh thần của con thuyết giáo điển hình của Ngài” [dẫn theo 7]. người, vừa có thể là kim chỉ nam giúp chúng Bởi anh là mẫu người lý luận, không dễ gì ta trả lời những câu hỏi về bản ngã và tâm thừa nhận một giáo lý ngay khi mới tiếp 619
  5. Giải thưởng Sinh viên Nghiên cứu khoa học Euréka lần XIX năm 2017 Kỷ yếu khoa học nhận, chỉ có con đường tự nghiệm mới giúp biểu tượng Đức Chúa Trời Abraxas (Demian) họ đạt được giải thoát. - thần Mặt Trời (theo người Hy Lạp); biểu Nhìn chung, để tìm đến sự giác ngộ, giải tượng cặp đối lập thần Apollo và thần thoát về bản ngã lẫn tâm linh; các nhân vật Dionysus được thể hiện qua hàng loạt các trong tiểu thuyết của Hesse đều phải trải qua nhân vật nhằm diễn tả hai mặt đối lập giữa con đường nhập thế đầy khắc nghiệt theo một bên là “tinh thần hóa cao nhất… về sự cách riêng của mình. Tuy nhiên, sự giác ngộ siêu thăng của con người” [8, tr.23] và một ấy không đến từ những nghi lễ của Bà La bên là “sức mạnh sự sống muốn vượt lên trên Môn giáo hay cách thức diệt Khổ của Kỳ na mọi gò bó, mọi giới hạn” [8, tr.261]; biểu giáo, cũng không hẳn là con đường Bát tượng dòng sông (Siddhartha); biểu tượng Chính Đạo của nhà Phật. Đối với Hesse, con bức tượng về Đức Thánh Mẫu Maria (Đôi người hướng đến sự giải thoát khi trải qua bạn chân tình);… Tất cả các biểu tượng ấy mọi hình thái của sự sống, khi đối mặt với được Hesse sử dụng mang nhiều ý nghĩa chính những nỗi đau khổ nhất của con người khác nhau nhằm thể hiện sự đa dạng trong tư về mặt tinh thần, thậm chí là kề cận với cái tưởng triết luận về tôn giáo, tạo nên một chết. Suy cho cùng triết lý về sự giải thoát phạm trù tôn giáo của riêng Hermann Hesse. trong tiểu thuyết của Hesse theo như nhà Nhìn chung, tiểu thuyết của Hesse in đậm Phật nghĩa là vượt lên trên quy luật sinh tử, dấu ấn tư tưởng tôn giáo Tây phương lẫn trở về trạng thái ban sơ (trạng thái vô ngã) Đông phương một cách sâu sắc. Đó là nhờ sự hay theo như cách nói của Bà La Môn giáo là không ngừng học hỏi và trải nghiệm trong khi những tiểu ngã tập hợp đủ các điều kiện cuộc đời của ông. Thông qua các hình tượng để nhập trở về đại ngã; cũng có thể hiểu căn nhân vật, Hesse gửi gắm tư tưởng triết luận bản vấn đề này thuộc về cách tiếp cận và tự về con người, về cuộc đời,… dưới góc nhìn chứng nghiệm của bản thân mỗi người hoặc tôn giáo, thể hiện tính triết lý về tâm linh, tư là vô minh hoặc giải thoát. duy vươn đến sự toàn thiện trong nội tại vạn Trên con đường tiến đến sự giải thoát, duyên vật. Nhưng tư tưởng triết luận về tôn giáo và nghiệp cũng là một trong những vấn đề qua văn chương của Hesse không chỉ dừng được Hesse quan tâm triết luận. Nói đến lại ở một hay hai tôn giáo mà còn có sự gặp duyên, nghiệp là nói đến luật nhân quả của gỡ, giao thoa, thậm chí đối nghịch giữa các nhà Phật. Không tự thân mọi sự trên đời này tôn giáo. Tất cả không nhằm mục đích thể xảy ra mà không có nhân và đã có nhân thì ắt hiện sự hiểu biết hay hướng đến chân lý tuyệt có quả. Quy luật nhân quả và sự vô thường đối của bất cứ tôn giáo nào. Hesse hướng bạn của vạn vật khiến một duyên khởi có thể là đọc đến những chọn lựa giữa Đông và Tây, một duyên tốt hay duyên xấu, có thể nghiệp bổ sung những gì mà con người cảm thấy khởi là nghiệp lành hay nghiệp ác. Phật giáo thiếu và cần thiết. Đó chính là liều thuốc tinh không tách biệt tính lưỡng diện của chúng thần đầy hữu hiệu mà nhà văn luôn hy vọng mà luôn nhắc đến như cách nói nước đôi. bạn đọc sẽ đồng cảm và tri nhận. Điều này được Hesse thể hiện qua cuộc đời Mối quan hệ giữa các tư tưởng triết luận của các nhân vật như một chuỗi tuần hoàn. trong tiểu thuyết của Hermann Hesse Mỗi sự gặp gỡ giữa các nhân vật đều khiến Dù Hesse triết luận về con người, về cuộc họ lạc lối trong bản ngã của chính mình. Khi đời hay về tôn giáo thì những tư tưởng ấy nhân duyên kết thúc, sự ràng buộc ấy tạm đều có mối liên hệ chặt chẽ, chi phối lẫn thời chấm dứt và tiếp tục bắt đầu cho một nhau theo một hệ quả, quy luật mang tính duyên khác. Điều này tương tự đối với tư tầng bậc cao hơn. Đối tượng mà Hesse thể tưởng về nghiệp trong tiểu thuyết của Hesse hiện những tư tưởng triết luận ấy chính là rằng bất cứ một hành động diễn ra trong quá con người thông qua các hình tượng nhân vật khứ đều có thể phải trả giá hoặc được phúc và các biểu tượng. Tự trong mỗi tư tưởng đáp ở tương lai một cách công bằng. triết luận có những móc xích tác động lẫn Ngoài ra, để thể hiện tư tưởng triết luận về nhau và giữa mỗi phạm trù triết luận luôn có tôn giáo, cũng như các tư tưởng triết luận những mối quan hệ nhất định. Tất cả chúng thuộc phạm trù khác, Hesse đã sử dụng thành góp phần tạo nên chiều sâu và màu sắc triết công các biểu tượng mang yếu tố tôn giáo: lý đa dạng trong các tiểu thuyết của ông. 620
  6. Giải thưởng Sinh viên Nghiên cứu khoa học Euréka lần XIX năm 2017 Kỷ yếu khoa học KẾT LUẬN cốt lõi của vấn đề nên đặc biệt chúng còn Triết luận là một trong những đặc điểm quan mang tầm dự báo trong tương lai. Bằng ngòi trọng và nổi bật nhất trong tiểu thuyết của bút cá tính, Hesse “bất chấp thị hiếu công Hermann Hesse. Thông qua các tư tưởng triết chúng” đương thời, thể hiện các tư tưởng luận, nhà văn gửi gắm đến bạn đọc giá trị đạo triết luận theo cách riêng của mình. Đó cũng đức, giá trị xã hội trong bối cảnh giữa hai thế chính là cách ứng xử của nhà văn trước cuộc chiến và những xung đột nội tâm trong con sống, là cách ông thể hiện tình yêu của mình người như một sự khuyên răn nhưng không với cuộc đời và mọi người: “Dù bị đau đớn giáo điều. Hơn thế, bởi những tư tưởng mà quằn quại, tôi vẫn tha thiết yêu thương trần Hesse thể hiện trong tiểu thuyết mang tính gian điên dại này”. TÀI LIỆU THAM KHẢO DANIEL M. HAYBRON (2016). Dẫn luận về hạnh phúc, NXB Hồng Đức, Hà Nội. THÍCH NỮ TRÍ HẢI (2003). Nguồn mạch tâm linh, NXB Tôn Giáo, Hà Nội. HERMANN HESSE (Lê Chu Cầu dịch) (2014). Siddhartha, NXB Văn Học, Hà Nội. HERMANN HESSE (Lê Chu Cầu dịch) (2013). Sói thảo nguyên, NXB Văn Học, Hà Nội. HERMANN HESSE (Vũ Đình Lưu dịch) (1969). Đôi bạn chân tình, NXB Ca Dao, Sài Gòn. HERMANN HESSE (Vũ Đình Lưu dịch) (1972). Tuổi trẻ và cô đơn, NXB Ca Dao, Sài Gòn. STEFAN BORBELY (Ngô Thị Thu Thủy dịch) (2011). “Công trình tâm linh của Hermann Hesse”, 29-10-2011, marjoriethuy.blogspot.com JEAN CHEVALIER VÀ ALAIN GHEERBRANT (Nhiều người dịch, Phạm Vĩnh Cư chủ biên) (2015). “Từ điển biểu tượng văn hóa thế giới”, NXB Đà Nẵng, Hồ Chí Minh. 621
nguon tai.lieu . vn