Xem mẫu
- ths. lê văn phục 153
TƯ TƯỞNG NGŨ THƯỜNG CỦA NHO GIÁO
VỚI VIỆC GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC KINH DOANH
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
ThS. Lê Văn Phục
Học viện Chính trị khu vực III, Đà Nẵng
TÓM TẮT
Ở nước ta hiện nay đạo đức kinh doanh đang là vấn đề nổi cộm khi có nhiều hiện
tượng vi phạm đạo đức nghiêm trọng đang diễn ra một cách phổ biến và ảnh hưởng
sâu rộng đến đời sống xã hội và con người. Để giảm thiểu hành vi kinh doanh phi
đạo đức, cũng như thúc đẩy những hành vi kinh doanh mang tính luân lí, thì đòi hỏi
cần phải tăng cường giáo dục đạo đức kinh doanh. Để giáo dục đạo đức kinh doanh
thì cần có nhiều nội dung, biện pháp khác nhau, trong bài viết này, bước đầu tác giả
gợi mở ra một khía cạnh là vận dụng tư tưởng “ngũ thường” của Nho giáo vào giáo
dục đạo đức kinh doanh trên hai phương diện: giáo dục “lợi chính đáng”trong kinh
doanh và giáo dục chữ “tín” trong kinh doanh.
Từ khóa: Đạo đức, kinh doanh, chữ tín, ngũ thường, giáo dục
1. Những vấn đề chung chỉnh hành vi của đạo đức kinh doanh đối với
Đạo đức kinh doanh là một dạng của chủ thể kinh doanh: “Đạo đức kinh doanh bao
đạo đức xã hội, thuộc lĩnh vực đạo đức nghề gồm những nguyên tắc cơ bản và tiêu chuẩn
nghiệp. Trên thế giới, thuật ngữ đạo đức kinh điều chỉnh hành vi trong thế giới kinh doanh.
doanh chỉ mới xuất hiện vào những năm 70 Tuy nhiên, việc đánh giá một hành vi cụ thể
của thế kỷ 20. Người đầu tiên đưa ra khái niệm đúng hay sai, phù hợp với đạo đức hay không
này là nhà nghiên cứu đạo đức kinh doanh nổi sẽ được quyết định bởi nhà đầu tư, nhân viên,
tiêng Norman Bowie. Cho đến ngày nay đã khách hàng, các nhóm quyền lợi liên quan,
có rất nhiều định nghĩa khác nhau về đạo đức
hệ thống pháp lý cũng như cộng đồng”2. Còn
kinh doanh, trong đó nổi bật là định nghĩa của
ở Việt Nam, đạo đức kinh doanh là vấn đề
V.Lewis đã xác định đạo đức kinh doanh như
vẫn khá mới mẽ, tuy nhiên rất được các nhà
những quy tắc, tiêu chí, chuẩn mực để đánh
giá hành vi của chủ thể kinh doanh. Ông viết: nghiên cứu lý luận và các nhà làm công tác
“Đạo đức kinh doanh là tất cả những quy tắc, thực tiễn quan tâm. Định nghĩa thông dụng về
tiêu chuẩn, chuẩn mực đạo đức hoặc luật lệ đạo đức kinh doanh được phổ biến rộng rãi ở
để cung cấp, chỉ dẫn về hành vi ứng xử chuẩn Việt Nam hiện nay là: “Đạo đức kinh doanh
mực và sự trung thực (của một tổ chức) trong là những quy tắc được xã hội chấp nhận để
những trường hợp nhất định”1. Hay Ferrels và phân định hành vi của chủ thể doanh nghiệp
John Fraedrich lại chú ý đến phương diện điều là đúng hay sai, là có đạo đức hay không có
1
PGS.TS. Phạm Văn Đức. Đạo đức kinh doanh – Một 2
PGS.TS. Phạm Văn Đức. Đạo đức kinh doanh – Một
số vấn đề lý luận và thực tiễn của Việt Nam [M]. Hà số vấn đề lý luận và thực tiễn của Việt Nam [M]. Hà
Nội. Tạp chí triết học, 2013, số 3, tr 31. Nội. Tạp chí triết học, 2013, số 3, tr 31.
- Hội thảo Văn hóa kinh doanh trong điều kiện kinh tế thị trường
154 định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
đạo đức để trên cơ sở đó nhằm điều chỉnh Thời đại mới cần có những nội dung,
hành vi của các nhà kinh doanh”3. chuẩn mực mới, nhưng cũng không nên lãng
Phải thừa nhận rằng, mục đích hàng đầu quên những giá trị chuẩn mực của đạo đức
và tối thượng của những người làm kinh truyền thống, mà đặc biệt là đạo đức Nho giáo.
doanh và các doanh nghiệp chính là lợi nhuận. Mặc dầu trong tư tưởng của mình, Nho giáo
Lợi nhuận là động lực hết sức quan trọng đối không đề cao vai trò của thương nhân, xem
với các doanh nhân và doanh nghiệp. Động buôn bán là nghề hẹn hạ, nhưng Nho giáo vẫn
lực đó đã thúc đẩy các doanh nghiệp có cho rằng, người buôn bán cũng phải biết
những cải tiến và sáng kiến mới trong kinh sống theo đạo “ngũ thường” 4. “Ai cũng
doanh để mang lại hiệu quả thiết thực không muốn giàu sang”, nhưng “thấy lợi thì phải
chỉ đối với doanh nghiệp mà còn đối với xã nghĩ đến nghĩa”, vì “giàu sang mà do bất
hội. Song bên cạnh đó, để được lợi nhuận nghĩa thì cũng như mây nổi”. Theo Nho
nhiều nhà doanh nghiệp bất chấp cả đạo lý và giáo, người buôn bán cần phải có những phẩm
pháp luật. Đây là mặt trái mang tính quy luật chất sau: 1. “Trí” là trí tuệ cơ mưu. Trong nền
chung của mọi nền kinh tế thị trường. Ở Việt kinh thế thị trường, nhu cầu thị trường là một
Nam, từ khi chuyển đổi từ nền kinh tế tập trong những động lực mạnh mẽ thúc đẩy sản
trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị xuất phát triển và cạnh tranh ngày càng gay
trường, các doanh nghiệp phát triển rất mạnh gắt. Bởi vậy, buộc các nhà kinh doanh luôn
mẽ, có nhiều hình thức kinh doanh đa dạng phải mưu cầu sống còn và phát triển trong
đã góp phần làm cho nền kinh tế phát triển
những môi trường mà kẻ mạnh đầy rẫy, tin
mạnh mẽ, từ đó thức đẩy xã hội phát triển.
tức rối mù, không đủ trí năng và mưu lược thì
Tuy nhiên, không ít doanh nghiệp (doanh
không thể tồn tại và phát triển. Muốn có được
nghiệp nhà nước, doanh nghiệp có vốn đầu tư
trí năng hoàn bị: thứ nhất, cần chịu khó học
nước ngoài, doanh nghiệp tư nhân…) vì mục
tiêu lợi nhuận mà bất chấp đạo đức, bất chấp tập lý luận về thị trường và các tri thức hữu
pháp lý. Trong các doanh nghiệp Nhà nước quan, nắm vững các quy luật kinh doanh; thứ
xảy ra hiện tượng tham nhũng; trong các hai, cần ra sức học tập kinh nghiệm và rút ra
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thì bài học từ người khác, lấy cái hay của người
hiện tượng buôn lậu, trốn thuế, gây ô nhiễm bù đắp chỗ khiếm khuyết của mình; thứ ba,
môi trường; trong các doanh nghiệp tư nhân cần mạnh bạo lao vào thực tiễn, không ngừng
thì hiện tượng làm hàng giả, hàng kém chất tìm tòi, tích lũy hiểu biết, nâng cao tài năng
lượng, các doanh nghiệp chưa nhận thức sâu kinh doanh. 2. “Tín” là coi trọng tín nghĩa,
sắc về bảo vệ môi trường, vấn đề đối xử với danh dự. Doanh nghiệp khác nào chiếc cầu
người lao động, vấn đề bình đẳng giới… đặc bắc giữa nhà kinh doanh với khách hàng. Tín
biệt các doanh nghiệp chưa có ý thức giữ chữ nghĩa của công ty xí nghiệp ra sao tùy thuộc
“tín” trong các hoạt động kinh doanh (với rất lớn ở sự phát huy vai trò “cửa sổ” của
khách hàng, với đối tác, với xã hội). Trước ngành tiêu thụ. Điều đó đòi hỏi các nhà doanh
những thực trạng đó thì vấn đề đạo đức kinh nghiệp phải đối đãi với khách hàng bằng lòng
doanh và giáo dục đạo đức kinh doanh đang 4
Tư tưởng “ngũ thường” được bắt đầu từ Khổng Tử,
đặt ra hết sức bức thiết. Trong việc giáo dục sau đó được Mạnh Tử, Đổng Trọng Thư khẳng định,
đạo đức kinh doanh hiện nay, giáo dục “làm bổ sung và hoàn chỉnh. Lúc ban đầu, theo Khổng
lợi chính đáng” và giữ “chữ tín” trong kinh Tử, muốn hợp “lễ” thì con người cần phải có các
doanh cần phải đặc biệt chú ý. đức “nhân”, “trí”, “dũng”. Đến Mạnh Tử bỏ “dũng”
và nói nhiều về “lễ nghĩa” do vậy thành bốn đức:
3
PGS.TS. Phạm Văn Đức. Đạo đức kinh doanh – Một “nhân”, “nghĩa”, “lễ”, “trí”. Sau đó Đổng Trọng Thư
số vấn đề lý luận và thực tiễn của Việt Nam [M]. Hà thêm “tín”, và thành năm đức như ngày nay “nhân”,
Nội. Tạp chí triết học, 2013, số 3, tr 32. “nghĩa”, “lễ”, “trí”, “tín”.
- ths. lê văn phục 155
chân thành, đã nói là làm, đã làm là có kết giáo không đề cao vai trò của thương nhân,
quả, dùng sự trọng tín nghĩa để lôi cuốn, chinh nhưng những yêu cầu của Nho giáo đối việc
phục khách hàng. Đồng thời, phải trung thực buôn bán như đã trình bày là rất có giá trị đối
chấp hành chiến lược kinh doanh của công ty với việc kế thừa, vận dụng vào giáo dục đạo
xí nghiệp, tận lực thực hiện mục tiêu đề ra, đức kinh doanh hiện nay, đặc biệt là giáo dục
không làm bất cứ điều gì tổn hại đến danh dự “làm lợi chính đáng” và giữ “chữ tín” trong
và lợi ích của công ty, xí nghiệp. 3. “Nhân” kinh doanh.
là một lòng phục vụ với tiêu chí “khách hàng 2. Ngũ thường với việc giáo dục chuẩn
trên hết”, “Mọi điều nghĩ về khách” là biểu mực đạo đức “làm lợi chính đáng” trong
hiện về nhân nghĩa của công ty, xí nghiệp. kinh doanh.
Làm nhà doanh nghiệp, phải nghĩ những gì
khách hàng nghĩ, đáp ứng những gì khách Thực tế cho thấy, hoạt động kinh doanh
hàng cần, hướng dẫn khách những gì họ chưa hiện nay đang tác động mạnh mẽ đến tất cả
biết để kịp thời tháo gỡ những vướng mắc các lĩnh vực của đời sống xã hội, không chỉ là
cho khách hàng. Chớ nên “lúc hàng bán chạy có vai trò tạo nên sự ổn định hay rối loạn nền
thì vênh váo, lúc hàng ế ẩm thì nài nỉ”. Chất kinh tế mà nó còn ảnh hưởng đến các vấn đề
lượng phục vụ về ý nghĩa nào đó quyết định xã hội khác như: phân hóa giàu nghèo, tệ nạn
tuổi thọ thị trường của một mặt hàng và hiệu xã hội… Đặc biệt, do hoạt động kinh doanh
quả kinh tế của nó. Nhà doanh nghiệp còn cần luôn gắn liền với lợi nhuận. Nên hiện nay rất
phải hợp tác chân thành với đồng sự, quan nhiều doanh nghiệp, cá nhân trong hoạt động
tâm ủng hộ lẫn nhau, hợp lực với nhau, biến kinh doanh của mình vì kiếm lợi bất chấp mọi
điểm bán hàng thành “lô cốt đầu cầu” trông ra thủ đoạn gây hậu quả nghiêm trọng đối với
thị trường của công ty, xí nghiệp. 4. “Dũng” cuộc sống của nhân dân và xã hội. Do vậy,
là dũng cảm, điềm tĩnh. Trong thị trường vạn bên cạnh những giải pháp thúc đẩy hoạt động
biến khôn lường, mỗi hành động kinh doanh kinh doanh thì một vấn đề quan trong cần
đều mang tính mạo hiểm và nhiều thách thức. được quan tâm là vấn đề xây dựng đạo đức
Điều đó đòi hỏi nhà doanh nghiệp phải có tinh kinh doanh trong doanh nghiệp để lợi ích cá
thần dám đương đầu với thách thức, bình tĩnh nhân luôn gắn với lợi ích cộng đồng xã hội,
ứng phó tình huống bất ngờ, mạnh bạo mở ra phát triển kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ
con đường mới. Đối với nghiệp vụ bán hàng, và công bằng xã hội như mục tiêu mà Đảng
phải tích cực thúc đẩy thu hút khách hàng và Cộng sản Việt Nam đề ra trong giai đoạn hiện
mở rộng thị trường, gặp lúc khó khăn, không nay.
được oán trách trời phận, mà phải chủ động ra Chẳng phải vô cớ mà bao nhiêu năm nay
tay, tích cực điều chỉnh sách lược kinh doanh một câu ngạn ngữ Ấn Độ được lưu truyền
tiêu thụ, dùng những thủ pháp độc đáo của trong giới doanh nghiệp ở các nước phát
mình để xoay chuyển tình thế. 5. “Nghiêm” là triển: “Gieo hành vi gặt thói quen, gieo thói
nghiêm túc cần mẫn. Một là phải nghiêm với quen gặt tư cách, gieo tư cách gặt số phận”.
bản thân mình, gương mẫu tuân thủ kỷ luật Điều này hàm ý: Sự tồn vong của doanh
quy định; hai là, làm đúng phương án kinh nghiệp không chỉ đến từ chất lượng của bản
doanh, không coi nhẹ một khâu nào. Như thân các sản phẩm - dịch vụ cung ứng mà
vậy, người buôn bán kinh doanh cũng cần còn chủ yếu từ phong cách kinh doanh của
có đức. Phải biết “trung thứ” đặt mình vào doanh nghiệp. Tóm gọn: Hành vi kinh doanh
vị trí và mong muốn của khách hàng để tạo thể hiện tư cách của doanh nghiệp, và chính
ra chất lượng sản phẩm và hiệu quả phục vụ tư cách ấy tác động trực tiếp đến thành bại
tốt, góp phần thu lợi nhuận lâu dài. Tuy Nho của tổ chức. Đạo đức kinh doanh, trong chiều
- Hội thảo Văn hóa kinh doanh trong điều kiện kinh tế thị trường
156 định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
hướng ấy, trở thành một nhân tố chiến lược hay thừa cơ lách luật. Bổn phận đạo đức của
trong việc phát triển doanh nghiệp. Do đó, doanh nghiệp được minh chứng thông qua
muốn “vị lợi” phải “vị nhân”. Điều này trái những hành vi mang tính chất “tự nguyện”,
với cách tiếp cận của kinh tế học cổ điển vốn nghĩa là những hoạt động “vị nhân” không
cho rằng mục đích duy nhất của doanh nghiệp nằm trong khuôn khổ các đòi hỏi thuộc bổn
là tìm kiếm lợi nhuận, vì thế vấn đề đạo đức phận kinh tế và luân lý. Tính chất vừa nói
- theo nghĩa “vị nhân bất vị lợi” - không thể cũng không nằm trong các chương trình đóng
đặt ra trong kinh doanh: Bản thân hoạt động góp từ thiện của doanh nghiệp thực chất vốn
doanh nghiệp là “phi đạo đức”, trong nghĩa chỉ là những hành xử quan hệ công cộng mà
đạo đức không phải là phạm trù quan tâm của khởi nguyên được thể hiện bởi sự ràng buộc
doanh nghiệp (vì nó không mang ích lợi thiết giữa doanh nghiệp với chính lương tâm của
thực cho doanh nghiệp, chứ không phải có ý nó trong việc thực hiện các hoạt động kinh
rằng doanh nghiệp là thực thể “vô đạo đức”). doanh đối với tất cả mọi đối tác. Như vậy,
Nhưng trước thực tế thành công của nhiều áp dụng đạo đức trong kinh doanh không chỉ
doanh nghiệp nổi tiếng trên thế giới đã chứng đem lại lợi nhuận cho người khác, cho xã hội
minh “vị lợi” và “vị nhân” không hề mâu mà nó còn đem lại lợi nhuận cao cho chính
thuẫn với nhau, ngược lại nó còn bổ sung cho doanh nghiệp đó.
nhau tạo nên thương hiệu nổi tiếng và lâu bền Mục đích lớn nhất của kinh doanh là
của doanh nghiệp. làm giàu, thu lợi nhuận thật cao. Nhưng làm
Hoạt động của doanh nghiệp, theo đó, giàu phải chính đáng, “phú phải gắn liền với
muốn có hiệu năng tối ưu, phải được chu nhân”. Trên thực tế, ở các nước xưa kia theo
toàn trong sự tổng hòa những hành vi chiến Nho giáo như Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn
lược bao gồm chủ yếu ba cấp độ trách nhiệm Quốc, Singapo... tăng trưởng mạnh về kinh tế
mà giới chuyên ngành gọi là bổn phận kinh công thương nghiệp, một trong những nguyên
tế, luân lý và đạo đức. Bổn phận kinh tế của nhân là họ biết sử dụng Nho giáo như là một
doanh nghiệp là sản xuất và cung ứng hàng động lực cho sự phát triển. Thực ra, muốn
hóa - dịch vụ để có được lợi nhuận cần thiết. tăng trưởng kinh tế công thương nghiệp phải
Nhưng bổn phận ấy chỉ thật sự hoàn thành khi hội đủ các điều kiện là vốn, khoa học kỹ thuật,
lợi nhuận được phân bổ đúng đắn cho việc nhất là có lớp người thành thạo kinh doanh –
phát triển doanh nghiệp và phân phối đồng điều mà Nho giáo không hề nghĩ tới. Nhưng
thời cho tất cả các thành viên liên quan nhằm có điều, giới cầm quyền cũng như các chủ
không chỉ góp phần trực tiếp vào việc mở doanh nghiệp họ biết tiếp tục duy trì đạo đức
rộng sự tái tạo vĩ mô của các thành viên ấy Nho giáo trong làm giàu, trong sự ổn định,
mà còn gián tiếp vào sự tái sinh mở rộng xã điều hòa được mâu thuẫn giữa phú và nhân
hội. Vì thế, bổn phận kinh tế phải đi liền với một cách triệt để nhất. Họ vẫn duy trì được
bổn phận luân lý của doanh nghiệp, hiểu theo tinh thần ham học, tinh thần tiết kiệm, duy
nghĩa tối thiểu là doanh nghiệp phải tuân thủ trì nguyên xi cái đạo hiếu trung, cái đức nhân
nền luân lý xã hội được thiết chế trong những nghĩa của Nho giáo, để củng cố tình cảm gia
quy định pháp lý của Nhà nước. Theo nghĩa tộc trong xí nghiệp, xoa dịu mâu thuẫn trong
tối đa, bổn phận trên chỉ được cáng đáng hoàn các mối quan hệ ấy. Cho nên có thể nói Nhật
chỉnh khi doanh nghiệp không chỉ tôn trọng Bản đã lấy cái thống nhất chính trị - văn hóa
pháp chế mà còn góp phần vào việc phát triển phục vụ thị trường thống nhất cạnh tranh. Và
hóa những quy tắc kinh doanh thuận lợi cho đạo đức Nho giáo đã làm cho sự bóc lột của
việc phát triển môi trường sống của xã hội người trên bớt thô bạo trắng trợn, đã làm cho
chứ không phải là thủ thế độc quyền trục lợi sự chịu đựng của ngượi dưới bị bóc lột dịu
- ths. lê văn phục 157
bớt đi. Hay trong chữ “nghĩa” của Nho giáo hộ trợ phát triển tài năng. Như vậy, là đã xóa
nêu cao tính cộng đồng, bổn phận của mỗi đi cái mâu thuẫn “vi nhân bất phú, vi phú bất
con người trong mối quan hệ xã hội, như tính nhân”, đã kết hợp được phú và nhân một cách
tập thể trong tổ chức lao động, ăn uống, sinh hài hòa, một cách Nho giáo nhất. Bởi vì Nho
hoạt văn hóa, giải trí tập thể, quan hệ cộng giáo vẫn đã từng nêu lên: “Kỷ dục lập nhi lập
đồng giữa các xí nghiệp nhỏ và xí nghiệp nhân, kỷ dục đạt nhi đạt nhi đạt nhân”5. Tuy
lớn... đã làm hạn chế đi những mặt xấu của nhiên, có nhiều ý kiến cho rằng sự làm giàu,
sản xuất kinh doanh. kinh doanh trong nền kinh tế thị trường thì có
thể hòa nhập giũa phú và nhân không? Đây là
Ở Việt Nam hiện nay, tuy rằng trong sự
câu hỏi lớn đang đặt ra đòi hỏi cần giải đáp.
phát triển kinh tế - xã hội, còn nhiều mặt hạn
Theo chúng tôi, nếu nhà kinh doanh có lương
chế, trong sản xuất kinh doanh vẫn còn làm tâm, nghĩ đến quyền lợi người tiêu dùng, thì
lợi bất chính chà đạp lên nhân nghĩa. Nhưng hẳn sẽ không diễn ra việc sản xuất, bán hàng
nhìn tổng thể bản chất của chế độ Việt Nam, giả, không quá quắt đong đầy bán vơi. Hoặc
mục đích làm giàu không phải là bóc lột sức kinh nghiệm cũng có nhiều cơ sở kinh doanh,
lao động mà làm giàu cho toàn xã hội, giàu nhanh chóng nắm bắt thông tin thị trường, cải
cho tất cả mọi người. Giàu như chủ tịch Hồ tiến kỹ thuật, mẫu mã chất lượng hàng hóa,
Chí Minh nêu ra đó là: kết hợp giữa quyền để có thể bán được nhiều hàng, tăng thu nhập.
lợi cá nhân với quyền lợi tập thể, giữa quyền Tuy nhiên, vẫn có thể nói, có kinh doanh
lợi gia đình nhỏ với quyền lợi gia đình lớn, lương thiện và kinh doanh xảo trá. Đó là lợi
giữa cái lợi nhỏ gắn liền với cái nghĩa lớn. dụng sự kém hiểu biết, thiếu thông tin của
Cũng như ngày nay Đảng và Nhà nước ta đề khách hàng, để bắt chẹt khách hàng, không kể
ra mục tiêu, tăng trưởng về kinh tế phải đi đôi gì đến sử dụng hàng hóa ra sao... Cơ bản của
với công bằng xã hội. Không ngừng nâng cao vấn đề ở đây, vẫn là ở chỗ, nếu vì hạnh phúc
mức sống, nhưng cũng không ngừng nâng của muôn nhà, vì xã hội thì trong kinh doanh
cao lẽ sống “mình vì mọi người, mọi người vì vẫn kết hợp được phú và nhân cho dù đó có là
mình”. Các cá nhân gia đình nhỏ tự do phát biện pháp kinh doanh nào đi nữa.
triển làm giàu trong các gia đình xung quanh Dù ai kinh doanh cũng muốn mang đến
và cả nước cùng giàu. Đây thực sự là kết hợp lợi nhuận cao, nhưng cao phải đặt lợi ích
kinh doanh làm giàu với việc gìn giữ đạo đức, người tiêu dùng lên trên hết. Làm giàu thì
giữa phú và nhân một cách triệt để nhất, nhân phải làm giàu chính đáng, có như vậy mới tồn
đạo nhất. tại bền vững được. Đây là thực tế đã và đang
Việt Nam đang xây dựng nền kinh tế diễn ra, cho nên trong kinh doanh rất cần thiết
thị trường là để xóa đi lối sống cào bằng, phải giáo dục đạo đức kinh doanh làm giàu
lối sống bình quân chủ nghĩa. Việt Nam đẩy chính đáng, nó không chỉ giúp cho hoạt động
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa là để tạo kinh doanh của cá nhân, của doanh nghiệp
điều kiện nhanh chóng về tăng trưởng kinh phát triển bền vững mà còn tạo ra môi trường
tế, để cho mọi cá nhân, gia đình ra sức kinh xã hội phát triển bền vững, lành mạnh. Cho
doanh làm giàu. Nhưng làm giàu không phải dù đạo đức Nho giáo thời xa xưa không đề
đèn nhà ai nhà ấy rạng; cá lớn nuốt cá bé, mà cập đến giáo dục đạo đức trong kinh doanh,
làm giàu theo hướng xã hội chủ nghĩa, cùng nhưng những giá trị đạo đức của nó, mà đặc
nhau làm giàu nhanh chóng để xóa đói, giảm biệt là tư tưởng “ngũ thường” chắc chắn sẽ là
nghèo. Làm giàu có thu nhập cao, sẵn lòng nội dung cần thiết và hữu ích cho việc giáo
hảo tâm góp vào những chương trình cứu tế dục đạo đức kinh doanh ngày nay.
xã hội, chương trình đền ơn đáp nghĩa, quỷ 5
Xem: Luận Ngữ: Ung dã 30.
- Hội thảo Văn hóa kinh doanh trong điều kiện kinh tế thị trường
158 định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
3. Ngũ thường với việc giáo dục chữ thành công trong kinh doanh của một doanh
“tín” trong kinh doanh. nghiệp, cần hội đủ nhiều yếu tố, trong đó chữ
Để xây dựng và phát huy vai trò đạo đức “tín” chắc chắn là một yếu tố quan trọng hàng
trong kinh doanh, thì bên cạnh giáo dục chuẩn đầu. Thực tế các công ty, doanh nghiệp lớn
mực đạo đức “làm lợi chính đáng” thì giáo trên thế giới đã chứng minh điều này, như:
dục chữ “tín” cũng là yếu tố cơ bản, cần thiết. Adidas, Nike, Kappa, GM, Toyota, Ford,
Chữ tín trong kinh doanh đòi hỏi và biểu hiện Samsung, Iphone… Họ là những thương hiệu
thành những yêu cầu như: trung thực trong có uy tín lớn.
kinh doanh, tôn trọng đối tác, tôn trong người Ở Việt Nam hiện nay, trong điều kiện
tiêu dùng, giao dịch hợp lý, canh tranh bình kinh tế thị trường, theo đuổi tối đa hóa lợi
đẳng…Trong dân gian Việt Nam có câu “Một nhuận là “dòng máu” kinh tế mạnh mẽ đang
lần bất tín, vạn lần bất tin” - đây là bài học chảy trong huyết quản của nhà kinh doanh,
đầu tiên cho bất cứ doanh nghiệp nào muốn đối diện với sự cạnh tranh mạnh mẽ trên thị
thành công. Chữ “Tín” quý giá hơn bao giờ trường, để tồn tại một số nhà kinh doanh lựa
hết, nó không chỉ biểu hiện cho triết lý kinh chọn những hành vi bất tín. Từ đó tạo ra một
doanh bền vững mà sâu xa hơn là nhân cách
môi trường kinh doanh thiếu chữ tín (low
của người lãnh đạo doanh nghiệp. Trong
trust society). Lòng tin hay chữ tín rất thiếu
kinh doanh của các doanh nghiệp, chữ tín thể
vắng trong kinh doanh. Để tin nhau người ta
hiện ở nhiều phương diện. Chữ “Tín” được
dựa trên yếu tố gia đình hay quan hệ huyết
hiểu một cách đơn giản là luôn giữ lời hứa.
thống. Đây là vấn đề bất cập lớn trong việc
Trong kinh doanh, đó là những lời hứa với
tạo dựng hình ảnh về một môi trường kinh
khách hàng, với nhân viên, với đối tác và với
doanh thuận lợi. Khả năng tạo dựng lòng tin,
cộng đồng. Để bán được hàng, anh cần phải
chữ tín và sự liên kết trong kinh doanh vẫn
“hứa hẹn” với khách rằng anh đem lại cho họ
những giá trị tốt nhất (sản phẩm tốt, dịch vụ tiếp tục được nhìn nhận như là những mặt yếu
tốt..). Để có người đi bán hàng, cần “hứa hẹn” của các doanh nghiệp Việt Nam. Tình trạng
với nhân viên rằng sẽ trả công cho họ (bằng vi phạm những quy định về vệ sinh an toàn
vật chất, bằng tinh thần) một cách xứng đáng. thực phẩm đang là vấn đề báo động. Để thu
Để có hàng bán, phải “hứa hẹn” với đối tác lợi nhuận, nhiều doanh nghiệp và hộ kinh
rằng anh sẽ cố gắng để cả hai bên cùng có doanh cá thể đã sử dụng những hóa chất độc
lợi. Để được chấp nhận, anh phải “hứa hẹn” hại trong quá trình chế biến gây ảnh hưởng
với cộng đồng rằng sẽ thực hiện trách nhiệm nghiêm trọng đến sức khỏe cộng đồng. Ví dụ,
phục vụ, nâng cao chất lượng sống của họ. sử dụng các chất độc hại như dùng MDP3 để
Nếu không đưa ra những lời hứa “tôi sẽ…”, sản xuất nước tương, chất formatdehyde để
không ai dám “hợp tác” với cả. Nếu thấy lời làm bún, bánh phở; chất Rhodamine B để tạo
hứa quan trọng thế nào thì việc giữ lời hứa màu cho sản phẩm… Các vụ ngộ độc thức
và hành động thực hiện lời hứa lại còn quan ăn do người kinh doanh thiếu đạo đức, thiếu
trọng hơn gấp nhiều lần như thế. Một lời trách nhiệm với cộng đồng gây ra vẫn đang
hứa không được thực thi không chỉ làm tan là hiện tượng phổ biến ở Việt Nam. Trong
biến niềm tin, hi vọng của đối tượng mà còn quan hệ đối tác với nước ngoài, một số doanh
phản tác dụng và để lại hậu quả ghê gớm cho nghiệp Việt Nam còn chưa giữ được chữ tín.
doanh nghiệp. Khi đó, nếu tiếp tục hứa, sẽ Rất nhiều lô hàng Việt Nam bị đối tác nước
không còn ai tin và kết cục cho doanh nghiệp ngoài trả về vì chất lượng lần hai không giống
là khách hàng quay lưng, nhân viên rời bỏ, với lần một. Việc một số doanh nghiệp Việt
đối tác “làm lơ” và cộng đồng đào thải. Sự Nam bội tín đã ký kết hợp đồng với đối tác
- ths. lê văn phục 159
nước ngoài cũng gây ảnh hưởng xấu đến uy tất cả. Chữ “tín” đáng giá ngàn vàng. Có chữ
tín của các doanh nghiệp Việt Nam. “tín” không cần vốn người ta vẫn có thể giao
Trong “ngũ thường” thì chữ “tín” được hàng cho anh bán”. Câu chuyện của ông Lý
đặt cuối cùng, nhưng không phải vì thế mà hạ Ngọc Minh, Giám đốc Công ty TNHH Minh
Long 1 (Bình Dương, chuyên về sản phẩm
thấp vai trò, địa vị của nó. Bởi vì, đức “tín” là
gốm sứ), bắt đầu bằng chữ “tín”. Ông Lý
hệ quả của bốn đức trên, có “nhân, nghĩa, lễ,
Ngọc Minh khẳng định: Đối với Ông chữ
trí” mới gây được lòng tin, mới thực hiện được
“tín” không cầu kỳ, không hoa mỹ. Đơn giản:
chữ “tín”. “Tín” ở đây có nghĩa là lời nói và
nó là sự tin thực, không gian dối, không lươn
việc làm phải thống nhất với nhau; “tín” còn
lẹo, là sự tin cậy nhau trong quan hệ làm ăn.
là lòng tin của con người với nhau. Khổng Tử
Cũng nhờ chữ “tín” mà lâu nay người Trung
từng khẳng định: “Nhân nhi vô tín, bất tri kỳ
Quốc, Nhật Bản, Xinggapo… rất đơn giản
khả dã”6 (Người không có uy tín thì không
thủ tục, giấy tờ, giảm thiểu việc ký tá, hợp
biết có làm được gì) và Ông cảnh báo: “Nhân
đồng, giao kèo và rất ít tranh chấp, kiện cáo
vô tín tắc phản” (Người không có chữ tín dễ
nhau ra tòa.
tạo phản) hay “Nhân vô tín bất lập” (Người
không có tín nhiệm thì đừng đề cử). Tuy chữ Không chỉ dừng lại ở câu chuyện của ông
“tín” trong “ngũ thường không trực tiếp đề Lý Ngọc Minh, mà hầu như các doanh nghiệp
cấp đến “uy tín” trong kinh doanh, nhưng từ lớn nước ngoài luôn nhận thức được rằng,
những yêu cầu cần thiết của việc xây dựng, hướng về tương lai, một doanh nghiệp hoạt
giáo dục đạo đức kinh doanh cũng như những động ổn định có thể chỉ được xây dựng trên
thực trạng bất cập của đạo đức kinh doanh nền tảng văn hóa mà ở đó mọi người đều tin
đang diễn ra ở Việt Nam, thì vận dụng, kế tưởng lẫn nhau, trong đó có các nhân viên,
thừa những giá trị của chữ “tín” của Nho giáo khách hàng, cổ đông, nhà đầu tư, môi giới,
vào giáo dục đạo đức kinh doanh của ngày và không thể thiếu những nhà điều hành.
hôm nay sẽ là một giải pháp tối ưu. Tin tưởng lẫn nhau thông qua sự minh bạch
hóa cuối cùng sẽ đạt được những thành quả
Có phải người Trung Quốc, Nhật Bản,
xứng đáng, được mọi người công nhận, và đó
Đài Loan, Xinggapo… sinh ra trên mảnh đất
là con đường duy nhất để tiến lên. Từ nhận
Nho giáo và chịu ảnh hưởng của chữ “tín”
thức đi đến hành động, nếu ai quan tâm đến
hay không?, mà trong kinh doanh họ rất đề
thị trường xe hơi, chắc hẳn biết chuyện, thi
cao chữ “tín” và từ đó họ kinh doanh rất
thoảng, những hãng ôtô hàng đầu thế giới
thành công. Trong văn hóa kinh doanh của
như GM, Toyota, Ford… lại có những vụ thu
người của người Trung Quốc, Nhật Bản…
hồi xe đã bán để sửa chữa, sau đó, khách hàng
nền tảng gia đình và chữ “tín” là báu vật.
sẽ được hẹn ngày “mời” đến lấy xe. Mỗi đợt
Cụ thể ở Việt Nam, các thương nhân Trung
thu hồi như thế, tiêu tốn của các công ty này
Quốc, Nhật Bản… chữ “tín” được coi là
không biết bao nhiêu tiền của. Nhưng họ vẫn
số 1 trong làm ăn, kinh doanh, thậm chí
làm, vì chữ “tín”. Nếu như một hãng ôtô nào
chữ “tín” còn được xem là chiến lược, là
đó, để xảy ra lỗi mà không xử lý theo phương
phương pháp kinh doanh. Ai không có cách như vừa kể trên, chắc chắn, khi thay đổi
chữ “tín”, không giữ lời hứa mà làm trái đi xe, khách hàng sẽ tìm đến một hãng xe hơi
sẽ không được giữ lại trong hệ thống buôn khác. Giá trị của thương hiệu luôn đi kèm với
bán, làm ăn của họ. “Trong công việc, giao niềm tin khi khách hàng sử dụng sản phẩm.
thương người Trung Quốc, Nhật Bản… đặt Khi sử dụng những thương hiệu như: Toyota,
chữ “tín” lên hàng đầu. Có chữ “tín” là có Ford Adidas, Nike, Kappa…, người tiêu dùng
6
Xem: Luận ngữ: Vi chính 22. không những có cảm giác yên tâm, mà thực
- Hội thảo Văn hóa kinh doanh trong điều kiện kinh tế thị trường
160 định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
sự, họ cảm thấy hài lòng. Và điều đó khiến đức kinh doanh hoàn toàn phù hợp với mục
người ta sẵn sàng trả giá cao hơn để có được tiêu của chiến lược phát triển bền vững. Để
sản phẩm đó. Như vậy, nhà sản xuất chính là nâng cao hiệu quả kinh doanh, tạo ra những
người có lợi, cái lợi từ chữ “tín” họ gây dựng. sản phẩm hàng hóa có chất lượng và uy tín
trên thị trường thì đòi hỏi các doanh nghiệp
Ngày nay, có thể khẳng định một xu
phải thực hiện nhiều giải pháp. Nhưng có
hướng mới là các khách hàng sẽ chuyển
lẽ, giải pháp hữu hiệu nhất vẫn là xuất phát
hướng sang những công ty không chỉ tạo ra
từ lương tâm nghề nghiệp, từ đạo đức kinh
giá trị kinh doanh cao nhất mà còn duy trì
doanh, lấy lợi ích của khách hàng, của cộng
tốt nhất các chuẩn mực đạo đức, cũng như
đồng, của dân tộc làm mục tiêu trong sản xuất
các chuẩn mực trong quản trị. Lý do cho xu
và kinh doanh, kết hợp hài hòa giữa lợi ích
hướng này đơn giản là bởi sự hưng thịnh về
doanh nghiệp - khách hàng - xã hội. Muốn
tài chính của một doanh nghiệp chỉ có thể
vậy, doanh nhân phải là người có “Nhân”,
được hun đúc từ sự tín nhiệm, và sự tin tưởng
“Trí”, “Tín”, phải biết “Tu thân” để “làm giàu
lẫn nhau, trong kinh doanh khi biết đề cao
chính đáng” và có “uy tín”, chỉ như vậy mới
chữ “tín” – đây là khởi nguồn của sự thành
bền vững được. Do vậy, việc gắn giáo dục tư
công và thành công bền vững.
tưởng “ngũ thường” của Nho giáo vào việc
Tóm lại, đạo đức kinh doanh là vấn đề giáo dục đạo đức kinh doanh là việc làm cần
tương đối mới mẽ đối với Việt Nam. Song, thiết. Bài viết này, bước đầu chúng tôi chỉ gợi
trong những năm gần đây, trước những hậu mở ra một vài ý tưởng nhỏ, còn để thực hiện
quả tiêu cực về xã hội do các doanh nghiệp được điều này thì đòi hỏi cần có sự nghiên
gây ra, vấn đề giáo dục đạo đức kinh doanh cứu sâu rộng hơn về mặt lý luận cũng cần có
đang được đặt ra một cách cấp bách. Ở Việt những biện pháp tổ chức thực hiện trong hoạt
Nam hiện nay, việc thực hiện giáo dục đạo động thực tiễn.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. PGS,TS. Phạm Văn Đức: Đạo đức kinh doanh – Một số vấn đề lý luận và thực tiễn của Việt Nam, Tạp chí
Triết học, 2013, số 3.
2. Trần Trọng Kim: Nho giáo: Nhà xuất bản Văn hoá thông tin, Hà Nội, 2001.
3. PGS,TS. Nguyễn Văn Phúc : Đạo đức và lợi nhuận trong kinh doanh, Tạp chí Triết học, 2013, số 6.
4. GS, TS. Tôn Xuân Thần: Chữ tín trong kinh doanh ở Trung Quốc – Những vấn đề nổi cộm và giải pháp,
Tạp chí Triết học, 2013, số 5.
5. ThS: Lê Văn Phục: Vận dụng tư tưởng ngũ thương của đạo đức Nho giáo vào việc giáo dục đạo đức con
người Việt Nam hiện nay, Tạp chí Sinh hoạt lý luận, 2013, số 5.
nguon tai.lieu . vn