Xem mẫu

  1. NGHIÊN CỨU KHOA HỌC Tư tưởng Lê Quý Đôn về dân - giá trị lịch sử và hiện thực Le Quy Don's thought about the people - historical value and realistic Phạm Văn Dự Email: phamvandu84@gmail.com Trường Đại học Sao Đỏ Ngày nhận bài: 29/12/2019 Ngày nhận bài sửa sau phản biện: 24/6/2020 Ngày chấp nhận đăng: 30/6/2020 Tóm tắt Thế kỷ XVIII là một giai đoạn lịch sử có nhiều biến động trong tiến trình phát triển của dân tộc. Chế độ phong kiến Việt Nam bước vào giai đoạn khủng hoảng nghiêm trọng. Cùng với việc đất nước bị phân chia làm hai, Đàng Trong và Đàng Ngoài thì đời sống của nhân dân cũng gặp muôn vàn khó khăn, dưới các chính sách thuế khóa, lao dịch của nhà nước. Sinh ra và lớn lên trong hoàn cảnh đó, mặc dù xuất thân từ một gia đình quan lại phong kiến, nhưng ở Lê Quý Đôn đã hình thành lên những tư tưởng chính trị hết sức sâu sắc, đặc biệt là tư tưởng về dân, nó không chỉ có ý nghĩa bởi tính vượt trước đối với lịch sử tư tưởng Việt Nam thời đại ông mà nó còn có ý nghĩa vượt thời gian đến ngày nay. Lê Quý Đôn đã có những nhìn nhận và đánh giá đúng về vai trò của dân trong đời sống xã hội, từ đó ông đã đưa ra những yêu cầu đối với giai cấp cầm quyền là phải có những chính sách “chăm dân”, “dưỡng dân” để xây dựng đất nước phát triển, xã hội thái bình, thịnh trị. Công cuộc đổi mới và xây dựng đất nước do Đảng khởi xướng và lãnh đạo hiện nay cũng đang từng bước hướng tới đời sống ấm no, phồn vinh của nhân dân và xây dựng một đội ngũ “công bộc” hết lòng phụng sự Tổ quốc, phụng sự nhân dân. Tư tưởng của Lê Quý Đôn về dân và xây dựng đội ngũ quan lại cần được tiếp tục nghiên cứu, phát triển và vận dụng vào xã hội ngày nay. Từ khóa: Lê Quý Đôn; trọng dân; dưỡng dân; dân là gốc của nước. Abstract The eighteenth century was a history period with many changes in the development process of the nation. Vietnam's feudal regime has entered a period of serious crisis. With the country divided into two, inside and Outside area, the people's lives also met many difficulties, under tax policies, labor of state. Born and raised in that situation, although came from a feudal mandarin family, but with Le Quy Don formed a profound political thought. But in Le Quy Don were formed very deep political ideas especially the thought of the people, it was not only meaningful by the transcendence of the history of Vietnamese thought of his time but it also has the meaning of timeless to this day. Le Quy Don has views and assessment of the role of people in social life. Since then, he made requests to the ruling class to have policies "take care of the people", "nurs of the people" to build a developing country, peaceful and prosperous society. The country building and renovation work initiated and led by the Vietnamese Communist Party has been gradually moving towards a warm life, prosperity of the people and building a team of "public servants" wholeheartedly serving the country, serving the people, Le Quy Don's thoughts on the people and building mandarins need to be further studied, develop and apply to today's society. Keywords: Le Quy Don; important people; nursing people; people are the root of the country. 1. ĐẶT VẤN ĐỀ cũng như văn hóa, tư tưởng truyền thống của dân tộc. Tư tưởng trọng dân của Lê Quý Đôn không Lê Quý Đôn sinh ra và lớn lên vào thời Lê trung chỉ có ý nghĩa đối với thời đại ông mà nó còn nhiều hưng, là nhà chính trị, nhà khoa học, nhà văn hóa giá trị đối với hiện nay. Trong nội dung bài viết này lỗi lạc của dân tộc. Tư tưởng về dân của ông bắt tác giả tập trung đi sâu phân tích nguồn gốc hình nguồn và chịu ảnh hưởng sâu sắc của Nho giáo thành tư tưởng về dân, nội dung cơ bản tư tưởng Người phản biện: 1. PGS.TS. Đoàn Ngọc Hải về dân của Lê Quý Đôn và chỉ ra những giá trị của 2. TS. Phạm Thị Hồng Hoa nó đối với việc xây dựng đội ngũ cán bộ “công bộc” 106 Tạp chí Nghiên cứu khoa học, Trường Đại học Sao Đỏ, ISSN 1859-4190, Số 2 (69) 2020
  2. LIÊN NGÀNH TRIẾT HỌC - XÃ HỘI HỌC - CHÍNH TRỊ HỌC phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân trong giai bị bần cùng hóa trên quy mô lớn. “Dưới gánh nặng đoạn hiện nay. của thuế khóa lao dịch và các vụ chiếm đoạt đất đai, người nông nghèo phải chạy trốn khỏi làng 2. CƠ SỞ HÌNH THÀNH TƯ TƯỞNG VỀ DÂN mạc để rồi lang thang từ trấn này sang trấn khác CỦA LÊ QUÝ ĐÔN hay tới xin tá túc trong các trang trại của các ông 2.1. Hoàn cảnh xuất thân lớn. Sự xiêu tán này lại đẩy nhanh diễn tiến tập Lê Quý Đôn sinh năm 1726, thuở còn nhỏ có tên trung hóa đất đai… dẫn đến một loạt các cuộc nổi là Lê Danh Phương, tự là Doãn Hậu, hiệu là Quế dậy của nông dân” [8]. Đường, quê tại làng Diên Hà, trấn Sơn Nam nay Cũng như nông nghiệp, thủ công nghiệp vào thời là thôn Đồng Phú thuộc xã Độc Lập, huyện Hưng kì này có nhiều thay đổi quan trọng, nghề cũ phát Hà, tỉnh Thái Bình. Lê Quý Đôn sinh ra trong một triển, nghề mới phát triển, gắn với nhu cầu ngày gia đình quý tộc, nổi tiếng về khoa bảng và văn càng nhiều của tầng lớp quý tộc. Thương nghiệp chương. Thân phụ là Lê Trọng Thứ đậu tiến sĩ phát triển mạnh với sự thông thương hàng hóa với (1724) làm quan đến Thượng thư Bộ hình và được tàu buôn của các nước châu Âu. phong tước hầu, thân mẫu là Trương Thị Ích, ông Trong giai đoạn thế kỷ XVII - XVIII bộ máy chính ngoại là Trương Minh Lượng đỗ tiến sĩ (1700) và quyền phong kiến từ trung ương đến địa phương được phong tước hầu. đều thối nát và đứng trước bờ vực của sự tan rã. Những nhân tố về gia đình, phẩm chất cá nhân Vua Lê bù nhìn, chúa Trịnh ăn chơi sa đọa, quần có ảnh hưởng trực tiếp đến sự hình thành và phát thần lộng quyền ra sức vơ vét bóc lột nhân dân. triển tư tưởng của Lê Quý Đôn, thể hiện ở những Bấy giờ đã dẫn kiêu binh nổi loạn, một biến cố khía cạnh sau. Thứ nhất, Lê Quý Đôn là người có chưa từng có trong lịch sử chế độ phong kiến Việt tư chất thông minh, tư duy sáng tạo, ham học, ham Nam từ trước đến nay. Chính điều này đã phản ánh hiểu biết, sự mẫn cảm đối với thời thế. Thứ hai, Lê hiện thực chế độ phong kiến mục nát, loạn lạc cuối Quý Đôn là người có ý chí và hoài bão lớn, có tinh thể kỷ XVII đầu thế kỷ XVIII. thần tự tôn dân tộc. Chính quyền họ Trịnh ở Đàng Ngoài đã thâu tóm Theo sử sách ghi lại, Lê Quý Đôn nổi tiếng là người mọi quyền hành trong tay, năm 1718 Trịnh Cương có tư chất thông minh từ khi còn nhỏ, học rộng, thiết lập tại phủ chúa Lục phiên với nhiệm vụ làm tài cao, thông kinh, bác sử “Hai tuổi đã biết đọc thay một phần công việc của Lục bộ của vua Lê. chữ “hữu”, chữ “vô”. Năm tuổi thuộc lòng nhiều bài Như vậy, bên cạnh triều đình - các chức quan lại Kinh thi. Mười một tuổi mỗi ngày học được hàng của vua, còn có triều đình với hệ thống quan lại trăm trang sử. Mười bốn tuổi học hết Ngũ Kinh, của phủ chúa. Vua Lê bù nhìn, chúa Trịnh thì ăn một ngày làm mười bài phú không cần viết nháp” chơi phè phỡn, không chăm lo cho đời sống nhân [9]. Trong công trình nghiên cứu Trí thức Việt Nam dân, tham quan ô lại thì đầy rẫy triều chính. Trịnh xưa và nay, tác giả Văn Tân đã nhận định: "Lê Quý Cương để hết tâm trí vào việc ăn chơi với việc cho Đôn là nhà bác học lớn nhất của nước Việt Nam xây cung thất, đài cao, chùa chiền “Chúa bắt dân thời phong kiến. Suốt đời ông tỏ ra là một người cư thuộc ba huyện phải làm việc trong vòng sáu đọc sách không biết mệt mỏi và viết sách không tháng (Bắc Ninh) mà không xong... Người kế vị mệt mỏi"[11]. chúa là Trịnh Giang (1729-1740) cũng có những thú vui như vậy. Dân cư ba huyện phải bỏ ra một Xuất thân trong gia đình dòng dõi quan lại và những năm 1730 để đào kênh, làm đường, ngày đêm tố chất cá nhân mang tính thiên bẩm đã có sự ảnh chuyển gỗ và đá để làm đẹp hai ngôi chùa Quỳnh hưởng rất lớn đến tư tưởng Lê Quý Đôn nói chung Lâm và Sùng Nghiêm... trong khi đó Trịnh Giang và tư tưởng về dân của ông nói riêng. vùi đầu vào các cuộc chơi, phung phí công quỹ cho 2.2. Điều kiện kinh tế - xã hội các cuộc đàn điếm của mình... tàn bạo nối gót các Lê Quý Đôn sinh ra và lớn lên trong một giai đoạn đam mê. Trịnh Giang truất ngôi vua Lê năm 1731 lịch sử có rất nhiều biến động. Từ nửa cuối thế kỷ và cho bóp cổ nhà vua bị truất phế. Nhiều quan XVII kinh tế - xã hội nước ta bước vào giai đoạn chức cao cấp bị giết. Chúa chỉ tin cậy đám hoạn khủng hoảng trầm trọng. Để phục vụ cho chiến quan nên giao mọi quyền hành cho những người tranh và ăn chơi xa xỉ của giới quý tộc. Triều đình này. Triều đình mỗi ngày một thối nát, bất lực, chia phong kiến đã đẩy mạnh bóc lột nông dân bằng rẽ thành phe cánh cấu xé nhau. Các quan chức thuế khóa, phu phen, tạp dịch, cùng với đó là thiên hàng tỉnh cũng noi theo và chỉ chú tâm, đặc biệt tai, địch họa liên miên làm cho rất nhiều nông dân là các quan lại phụ trách thuế khóa, vào việc xiết Tạp chí Nghiên cứu khoa học, Trường Đại học Sao Đỏ, ISSN 1859-4190, Số 2 (69) 2020 107
  3. NGHIÊN CỨU KHOA HỌC cổ người dân, trong khi làng xã để mặc cho các Lê Quý Đôn là nhà chính trị, nhà khoa học, nhà văn hương chức thao túng” [8]. hóa nổi tiếng trong lịch sử dân tộc Việt Nam nói chung và thế kỷ XVIII nói riêng đã có một tư tưởng Đến giữa thế kỷ XVIII triều đình phong kiến Đàng hết sức sâu sắc và biện chứng về nhân dân. Trong cũng giống như Đàng Ngoài đã rơi vào giai đoạn khủng hoảng trầm trọng. Chúa Nguyễn và Kế thừa tư tưởng của Nho giáo và tư tưởng truyền bọn quan lại quý tộc đã lao vào cuộc sống xa xỉ và thống của dân tộc. Lê Quý Đôn hết sức đề cao vai bạo tàn. Theo Lê Quý Đôn miêu tả thì thành Phú trò của dân, tư tưởng thân dân, lấy dân làm gốc Xuân đầy rẫy cung điện nguy nga “Đài cao rực rỡ, xuyên suốt trong tất cả các tác phẩm và trong tư mà giải võ, tường bao quanh, cửa bốn bề, chạm duy, hành động của ông. Trong tác phẩm Quần thư khắc vẽ vời, khéo đẹp cùng cực. Các nhà đều lát khảo biện, tư tưởng lấy dân làm gốc được ông chỉ nền bằng đá, trên lát ván kiền kiện... vườn sau rõ: “Gốc của nước là dân, mệnh của vua cũng là thì núi giả đá quý, ao vuông hồ quanh, cầu vòng dân. Bọn cường thần gây loạn bên trong, nước thù thủy tạ, tường trong tường ngoài đều xây dầy mấy địch quấy rối bên ngoài, điều đó chưa đáng lo lắm. thước, lấy vôi và mảnh sứ đắp thành hình rồng, Chỉ khi lòng dân dao động mới là điều rất đáng sợ” phượng, lân, hổ, cỏ hoa... còn nhà vườn của các [5]. Chúng ta thấy, Lê Quý Đôn đánh giá rất đúng công hầu quyền quý thì chia bày ở hai bờ thượng bản chất và đề cao vai trò sức mạnh của dân. Theo lưu sông Phú Xuân, cùng hai bờ sông con bên hữu ông, dân là cội nguồn, gốc rễ của đất nước và cũng phủ Cam” [6]. chính dân đảm bảo cho uy quyền, địa vị của Vua. Họ Trịnh ở Đàng Ngoài, họ Nguyễn Đàng Trong, Nắm bắt được quy luật phát triển của lịch sử và đều dựa vào tấm bình phong là vua Lê để che đậy từ thực tiễn lịch sử của thời đại, Lê Quý Đôn đã mưu đồ riêng của mình. Nhân danh vua Lê hai bên đánh giá rất đúng vai trò của dân. Theo ông, dân giao tranh với nhau trong suốt 50 năm, họ Nguyễn không chỉ là những người làm ra của cải vật chất cho rằng tiến hành chiến tranh tiêu diệt họ Trịnh để nuôi sống chính mình mà còn nuôi sống bộ máy là để trả lại vua Lê thực quyền đã bị họ Trịnh tiếm cai trị và toàn xã hội. Những thành quả, những giá đoạt, còn họ Trịnh cho rằng tiến quân trinh phạt là trị vật chất và tinh thần ở mỗi giai đoạn mà xã hội để bắt họ Nguyễn phục tùng vua Lê. “Từ năm 1627 có được, chủ yếu là từ mồ hôi, máu thịt của nhân đến 1672 đã có không dưới bảy cuộc giao tranh dân mà thành “Dân là gốc của nước. Gốc có vững diễn ra giữa hai kẻ kình địch, xen kẽ những cuộc thì nước mới yên… Vua lãnh đạo dân, bảo gì dân chiến tranh của họ Trịnh chống lại nhà Mạc chiếm cũng làm theo, dân cống hiến cho vua hưởng thụ. cứ đất Cao Bằng” [8]. Cuộc nội chiến Nam triều - Nếu không để ý tới dân, chỉ thả mình theo ý riêng Bắc triều đã kéo dài hơn một thế kỷ đã không phân thì dân sẽ không vâng mệnh nữa, bề tôi sẽ trở chia thắng bại. thành thù địch, lộc trời sẽ hết. Vậy dân là đáng sợ, đáng kính, chớ coi thường” [4]. Sự suy đồi của chế độ phong kiến Việt Nam lúc bấy giờ đã dẫn tới hàng loạt các cuộc nổi dậy của nông Như vậy, chúng ta thấy Lê Quý Đôn đã nhận thức dân như: Cuộc nổi dạy của người Nùng ở Tuyên và chỉ rõ vai trò, vị trí của dân trong sự nghiệp bảo Quang (1686), cuộc nổi dạy của người Thái ở Lai vệ Tổ quốc, xây dựng đất nước, đối với sự ổn định Châu (1721), nhà sư Nguyễn Dương Hùng nổi dạy và phát triển của xã hội. ở Tam Đảo (1737), nổi dạy của Nguyễn Hữu Cầu, 3.2. Những yêu cầu đối với giai cấp thống trị Nguyễn Danh Phương, Lê Duy Mật, đặc biệt là trong việc trị nước, an dân theo quan điểm của khởi nghĩa Tây Sơn của Nguyễn Huệ… Chính từ Lê Quý Đôn nguồn gốc gia đình và thực tiễn điều kiện kinh tế - xã hội lúc bấy giờ đã quy định nội dung tư tưởng về Theo Lê Quý Đôn, dân là gốc rễ của đất nước, đất dân của Lê Quý Đôn. nước muốn hòa bình thịnh trị thì vua quan phải đặc biệt quan tâm xây dựng nền “nhân chính”, chăm lo 3. NỘI DUNG TƯ TƯỞNG CỦA LÊ QUÝ ĐÔN đến đời sống nhân dân, phải kính dân, trọng dân. VỀ DÂN Trong Kinh Thư diễn nghĩa, Lê Quý Đôn đã đề cao 3.1. Vai trò của dân trong đời sống xã hội tư tưởng thương dân, trọng dân, đòi hỏi các vua chúa, quan lại phải nuôi dân, dạy dân, cứu dân, phải Lịch sử nhân loại và tiến trình lịch sử Việt Nam đã chăm chỉ, tiết kiệm, khiêm tốn, lắng nghe nguyện chứng minh, nhân dân là lực lượng chính sản xuất vọng và tiếng nói của dân “Khoan thứ, giản dị, hiếu ra của cải vật chất trong xã hội. Những thành quả, sinh là đức của kẻ làm vua” [4], “Làm theo ý dân những giá trị vật chất và tinh thần mà xã hội có được tức là làm theo ý trời” [4]. Vua, quan phải biết tôn đều có mồ hôi, máu thịt của nhân dân mà thành. trọng sử dụng nhân tài, không xa hoa lãng phí của 108 Tạp chí Nghiên cứu khoa học, Trường Đại học Sao Đỏ, ISSN 1859-4190, Số 2 (69) 2020
  4. LIÊN NGÀNH TRIẾT HỌC - XÃ HỘI HỌC - CHÍNH TRỊ HỌC cải, vì đó là mồ hôi xương máu của dân, phải biết thức tổ chức bộ máy chính quyền và những tiêu chăm dân, dưỡng dân… “lúc dân đang bị hạn lụt chuẩn của đội ngũ quan lại, mối quan hệ gắn kết tang hoang sao lại bắt dân đi xây thành đắp lũy” [4]. giữa vua và đội ngũ quan lại. Coi đội ngũ quan lại giúp việc trong bộ máy triều đình là nhân tố quyết Đối với Lê Quý Đôn, vua, quan, công hầu, khanh tướng hàng ngày ăn uống, tiêu dùng là đều từ sức định thành bại của việc thi hành đường lối trị nước dân mà ra, nếu người cầm quyền không hiểu sự vất của vua, Lê Quý Đôn cho rằng, nguyên nhân nước vả, cơ cực của dân thì sinh ra sao nhãng, phóng yếu là do dùng người tầm thường thay chỗ người dật, đã sao nhãng không chuyên tâm vào công việc hiền tài. Ông cảnh báo việc người làm vua chỉ thích thì sẽ không biết quý trọng của cải của dân dẫn đến dùng người giống mình, dùng kẻ hương nguyện, tiêu dùng xa xỉ, tiêu dùng xa xỉ thì hại của, hại của thì không thích người tân tiến sẽ khiến người tài bị nhất định hại dân. Do đó, bậc thánh đế, minh vương hao mòn tráng chí, nguyên khí của quốc gia bị hao phải khoan thứ, giản dị, hiếu sinh không thích giết tổn, dẫn tới sự suy yếu của thế nước. “Trong nước người, tránh hình phạt hà khắc là đức nhân từ của bình yên hay loạn lạc là do ở các quan tài giỏi hay người làm vua, người cai trị đất nước, khuyến khích ươn hèn. Được người tài giỏi gánh vác thì nước nhân dân lao động sản xuất nông nghiệp, bảo vệ tài bình yên, thịnh trị, bị kẻ thân cận có đức xấu, tranh nguyên lâm sản và thủy sản, có được như vậy thì quyền cướp chức thì nước loạn” [4]. Đề cao việc nhân dân no ấm, đất nước yên vui thái bình thịnh trọng dụng người tài trong đạo làm vua, Lê Quý trị, đây là một xã hội lý tưởng trong tư tưởng mà Lê Đôn quan niệm bậc minh quân phải tùy tài mà trao Quý Đôn mơ ước xây dựng nó giống như xã hội chức. Ông phân biệt ra ba loại người tài để tuỳ theo thời vua Nghiêu, vua Thuấn. mỗi loại mà dùng cho đúng mục đích, sở trường của họ: Hạng tài năng, độ lượng siêu việt xuất Từ việc kính dân, trọng dân, Lê Quý Đôn cho rằng, chúng; hạng bình thường, không có lỗi và hạng muốn cho dân không oán thù, nguyền rủa giai cấp bình tĩnh, hoà nhã, thích làm việc phải, thuỷ chung, thống trị (vua, quan) thì phải làm thế nào? Duy đem ba loại ấy để định luận nhân cách thì đều đắc có giảm hình phạt, đánh nhẹ tô thuế mà thôi, mọi dụng ở triều. “Mỗi người đều có năng lực riêng của chính sách của nhà nước phải làm cho dân no đủ, mình, cần phải vun trồng những năng lực ấy để khuyến khích nhân dân lao động sản xuất, làm lịch họ đảm đương được các công việc khác nhau của để dân biết thời vụ canh tác, có chính sách bảo xã hội. Con người không ai không có nhược điểm, vệ tài nguyên, coi trọng kỹ thuật sản xuất, trị thủy nếu bài xích nhược điểm, thêm điều xấu vào nhược theo đúng quy luật của thủy văn. Về tài chính, nhà điểm, nếu chỉ quan tâm đến sự nhút nhát, cho đó là nước định chính sách thuế khóa phải công bằng, người hiền, người thực thà, là người có đạo đức rồi chi dùng nên tiết kiệm, nhẹ bớt đóng góp của dân, cất nhắc họ thì bỏ qua năng lực thật sự của xã hội. nâng cao đời sống vật chất cho dân. Khi xây dựng Nhân tài sinh ra và nuôi dưỡng rất khó mà phá đi các chính sách lớn, triều đình nên bàn với dân và thì rất dễ, khí chất của kẻ sĩ làm cho nẩy nở thì rất theo ý dân “Những việc làm quan trọng (như dời khó, song ngăn trở nó thì rất dễ” [7]. Vốn xuất thân đô) thì phải hỏi ý dân, công khai bàn bạc với dân từ của Khổng - Sân Trình, Lê Quý Đôn chịu ảnh thường” [4]. Điểm đặc sắc nổi bật trong tư tưởng hưởng lớn của tư tưởng Nho giáo. Vì vậy, ông thấy của Lê Quý Đôn về dân, ông đã nhấn mạnh đến nội được và rất đề cao vai trò giáo dục dân trong việc hàm vấn đề, đó là cần phải biết vận dụng khoa học xây dựng một xã hội thái bình, thịnh trị. Theo ông, để phục vụ đời sống nhân dân. Tư tưởng này của để đường lối chính trị của nhà nước thấu đến muôn ông không chỉ có ý nghĩa đối với thời đại ông (thế dân, nhà nước phải giáo dục đạo đức và giáo dục kỷ XVIII) mà nó còn nguyên giá trị đối với xã hội pháp luật cho dân. Phải thiết định pháp chế và phổ ngày nay khi Việt Nam đang đẩy mạnh xây dựng biến luật pháp sâu rộng cho dân biết. Khi thực thi chủ nghĩa xã hội trong thời đại mà cuộc Cách mạng pháp luật thì xét xử phải công bằng, không nhẹ với công nghiệp lần thứ tư đang diễn ra mạnh mẽ. quyền quý, nặng với dân hèn. Xét xử phải có lòng thương xót và có mục đích giáo dục “Dạy nghĩa kết Theo Lê Quý Đôn, người làm vua phải thông minh, hợp với dạy luật hình để đoàn kết nội bộ nhân dân sáng suốt, trong sạch, giản dị, lành mạnh, tận tụy và giữ gìn trật tự an toàn xã hội” [4]. với công việc, phải quyết đoán và biết trọng dụng nhân tài. Bởi lẽ, theo ông, người làm vua phải biết Đường lối chính trị với chủ trương “nhân trị”, “đức chọn người tài giỏi làm tướng, làm quan giúp vua trị” là nội dung cốt lõi của việc trị nước, an dân theo trị dân, hoàn thành được đạo làm vua “Bồi dưỡng quan điểm của Lê Quý Đôn,… đây là những quy người có đức, nên chăm chú cho được nảy nở tươi chuẩn của bậc vua hiền và tôi sáng, đồng thời nó tốt; trừ bỏ kẻ ác, nên làm cho tuyệt sạch gốc rễ” [4]. cũng là những biện pháp đảm bảo cho việc thực hiện đường lối đức trị, để xây dựng một xã hội Đối với Lê Quý Đôn thì đặc biệt quan tâm đến hình phong kiến lý tưởng theo quan điểm của Nho giáo. Tạp chí Nghiên cứu khoa học, Trường Đại học Sao Đỏ, ISSN 1859-4190, Số 2 (69) 2020 109
  5. NGHIÊN CỨU KHOA HỌC 4. Ý NGHĨA TƯ TƯỞNG THÂN DÂN CỦA LÊ ta tiếp tục khẳng định lấy dân làm gốc là bài học QUÝ ĐÔN TRONG VIỆC XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ kinh nghiệm hàng đầu, là cơ sở cho việc hoạch định CÁN BỘ GIAI ĐOẠN HIỆN NAY đường lối phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Thế kỷ XVIII, Lê Quý Đôn đã có tư tưởng hết sức Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng - đúng đắn, tiến bộ về vai trò, vị trí của dân trong đời Đại hội của đổi mới tư duy và hành động, một trong sống xã hội. Từ đó ông đã có một yêu cầu hết sức bốn bài học lớn được Đảng rút ra là, trong toàn bộ căn bản đối với giai cấp thống trị đó là phải biết hoạt động của mình, Đảng phải quán triệt tư tưởng khoan thư sức dân, lấy dân làm gốc, phải thi hành “lấy dân làm gốc”[1], xây dựng và phát huy quyền chính sách “nhân chính” thì mới có thể xây dựng làm chủ tập thể của nhân dân lao động. Bài học này một đất nước thái bình, thịnh trị. Chỉ có điều, trong tiếp tục được quán triệt sâu sắc trong các kỳ Đại tư tưởng nhân văn này việc kính dân, trọng dân, hội VII và Đại hội VIII của Đảng. Đánh giá quá trình dân là gốc của nước cuối cùng đi đến mục đích vì đổi mới, Đại hội lần thứ IX của Đảng một lần nữa sự thịnh trị của vương triều, của hoàng tộc để bảo khẳng định: “đổi mới phải dựa vào nhân dân, vì lợi vệ quyền lợi giai cấp thống trị. ích của nhân dân, phù hợp với thực tiễn, luôn luôn sáng tạo”[2]. Đại hội XII, Đảng ta tiếp tục khẳng Thế kỷ XX, Chủ tịch Hồ Chí Minh - anh hùng giải định “lấy dân làm gốc, vì lợi ích của nhân dân, dựa phóng dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới, người vào nhân dân, phát huy vai trò làm chủ, tinh thần sáng lập và lãnh đạo Đảng ta giành những thắng trách nhiệm, sức sáng tạo và mọi nguồn lực của lợi to lớn trong công cuộc đấu tranh giải phóng đất nhân dân”[3]. nước, hơn ai hết Bác Hồ hiểu được vị trí, vai trò và sức mạnh to lớn của nhân dân. Theo Bác, quần Thực tiễn công tác lãnh đạo, chỉ đạo ở nước ta chúng nhân dân là những con người làm nên lịch hiện nay cho thấy, nơi nào cán bộ, đảng viên làm sử, vì vậy phải tin vào dân, gần gũi nhân dân và tốt công tác dân vận, nghe dân nói, để dân bàn, phải biết dựa vào dân, tất cả do dân, vì dân, đặt lợi dân giám sát, dân kiểm tra và dân được thụ hưởng ích nhân dân lên trên hết. Đây là nguyên tắc đầu từ chính sách của Nhà nước thì nơi đó dân yêu tiên và quan trọng nhất bởi nước ta đã là nước dân cán bộ, dân tin vào Đảng. Nơi nào cán bộ xa dân, chủ thì: “Bao nhiêu lợi ích đều vì dân. Bao nhiêu tham ô, nhũng nhiễu, cán bộ yếu kém, có nhiều tiêu quyền hạn đều của dân” [10]. Như Bác Hồ đã nói, cực thì ở đó dân không tin cán bộ, có khiếu kiện, Đảng ta là tổ chức cao nhất của giai cấp công nhân mất trật tự an ninh xã hội. Cán bộ, đảng viên phải để phục vụ nhân dân, phục vụ giai cấp, phục vụ nêu cao tinh thần tự phê bình và phê bình, dám cách mạng, chứ Đảng không phải: “Là một tổ chức chịu trách nhiệm, khi có có khuyết điểm thì thật thà để làm quan phát tài”[10]. Mỗi cán bộ, đảng viên tự phê bình trước nhân dân và hoan nghênh nhân phải luôn tôn trọng và bảo vệ lợi ích chính đáng của dân phê bình mình. Việc quần chúng phê bình cán nhân dân, bảo vệ tính mạng và tài sản của nhân bộ đảng viên là hoàn toàn có lợi và tích cực (nếu dân, không ngừng chăm lo đời sống vật chất và phê bình đúng), nó làm cho cán bộ và nhân dân tinh thần cho nhân dân, phải vì lợi ích của nhân dân hiểu nhau, thông cảm với nhau, đoàn kết hơn và mà phục vụ. giúp nhau cùng tiến bộ. Nếu cán bộ đảng viên có Đảng và Nhà nước ta hiện nay đang đẩy mạnh khuyết điểm thì thẳng thắn nhận rồi quyết tâm sửa việc thực hiện Nghị quyết TW6 khóa XII của Đảng chữa; Đường lối chính sách nào không hợp lòng về việc tinh giảm biên chế, sắp xếp lại một số cơ dân thì công khai sửa đổi, dựa vào ý kiến của quần quan Đảng và Nhà nước tại các địa phương nhằm chúng để thay đổi tổ chức, điều chuyển cán bộ cho tăng hiệu quả phục vụ của bộ máy công quyền đối phù hợp, như thế thì nhân dân càng thấy rõ vai trò, với nhân dân và xây dựng một bộ máy công quyền tiếng nói của mình (trước đây Bác Hồ đã từng thay trong sạch do dân và vì dân, thực hiện xóa đói giảm mặt Đảng công khai nhận lỗi trước dân khi chúng nghèo bền vững, xây dựng một xã hội nhân văn, ta mắc những khuyết điểm, sai lầm trong cải cách phát triển. ruộng đất giai đoạn 1954-1957). Kế thừa tư tưởng truyền thống của dân tộc, xuất Hiện nay, trong điều kiện kinh tế thị trường và mở phát từ việc đúc kết những giá trị tư tưởng dân là cửa hội nhập sâu sắc, một bộ phận cán bộ đảng gốc của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Hiện nay, dưới sự viên đang có những biểu hiện suy thoái về đạo lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, nước ta đức lối sống, thậm chí thoái hóa biến chất, quan đang đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện liêu, tham nhũng, tham ô, lãng phí,… vi phạm trầm đại hóa đất nước và hội nhập kinh tế quốc tế một trọng những quy định của Đảng và pháp luật Nhà cách sâu rộng để đạt được mục tiêu: “dân giàu, nước. Chính vì vậy, Đảng phải dựa vào dân thì nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, Đảng mới tập hợp được sức mạnh và trí tuệ của toàn 110 Tạp chí Nghiên cứu khoa học, Trường Đại học Sao Đỏ, ISSN 1859-4190, Số 2 (69) 2020
  6. LIÊN NGÀNH TRIẾT HỌC - XÃ HỘI HỌC - CHÍNH TRỊ HỌC dân tộc như Bác Hồ nói “Dễ trăm lần không dân của người dân và doanh nghiệp khi giải quyết công cũng chịu; Khó vạn lần dân liệu cũng xong”. Muốn việc tại các cơ quan hành chính nhà nước, nhất là để dân phục thì người cán bộ đảng viên phải thực giảm chi phí, giảm thời gian giải quyết các công việc hành cần - kiệm - liêm - chính - chí - công - vô - tư. của cá nhân, tổ chức tại cơ quan hành chính nhà Phải xung phong làm đầu tàu gương mẫu để nhân nước và bảo đảm sự hài lòng của cá nhân, tổ chức, dân theo. Phải có tinh thần chống quan liêu - tham doanh nghiệp đối với sự phục vụ của cơ quan hành nhũng - lãng phí triệt để cho Nhà nước trong sạch, chính nhà nước. Những kết quả đạt được đã được vững mạnh thì mọi lợi ích của nhân dân mới được người dân ghi nhận và quốc tế đánh giá cao. đảm bảo, quyền dân chủ mới có hiệu lực. Để hiện Trong suốt quá trình 90 năm tổ chức và lãnh đạo thực hóa những nội dung đó, ngày 07/6/2012, Ban cách mạng, Đảng ta đã đúc kết nhiều bài học to lớn Chấp hành Trung ương đã ban hành Quy định số về thành công của cách mạng Việt Nam. Trong đó, 101-QĐ/TW về trách nhiệm nêu gương của cán, bộ đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo chủ chốt các bài học “dân làm gốc” là một trong những bài học cấp, ngày 04/8/2017, Ban Chấp hành Trung ương quan trọng hàng đầu, hết sức sâu sắc và thấm thía. ban hành Quy định 89-QĐ/TW quy định khung Đảng ta đã luôn khẳng định sức mạnh của Đảng tiêu chuẩn chức danh, định hướng khung tiêu chí là sức mạnh của quần chúng nhân dân, sức mạnh đánh giá cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, ngày của quần chúng nhân dân làm nên mọi thắng lợi 25/10/2018, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã của cách mạng Việt Nam. ban hành Quy định số 08-QĐi/TW quy định trách 5. KẾT LUẬN nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, trước hết là ủy viên Bộ Chính trị, ủy viên Ban Bí thư, ủy viên Xuất thân từ tầng lớp quan lại, chịu ảnh hưởng sâu Trung ương Đảng. Từ chủ trương, định hướng của sắc của ý thức hệ phong kiến, từ quan điểm của Đảng, trong quá trình xây dựng đất nước hiện nay, Nho giáo về dân Lê Quý Đôn đã tiếp tục phát triển, Đảng và Nhà nước ta đã và đang đẩy mạnh công chỉ rõ vị trí và vai trò của của dân - dân là gốc của cuộc xóa đói giảm nghèo bền vững, với mục đích nước, là người quyết định sự vận động phát triển rút ngắn khoảng cách phát triển giữa thành thị và của xã hội. Từ đó ông yêu cầu giai cấp thống trị, nông thôn, đồng bằng và vùng núi “Đa dạng hóa cầm quyền phải xây dựng được đội ngũ quan lại các nguồn lực và phương thức xóa đói giảm nghèo có đức, có tài, liêm chính chăm lo cho dân, dưỡng và gắn với phát triển nông nghiệp, nông thôn, phát dân, giáo dân, ái dân… Đây là sự tiếp nối tư tưởng triển giáo dục, dạy nghề và giải quyết việc làm để truyền thống về trọng dân và thân dân của dân tộc xóa đói giảm nghèo bền vững; tạo điều kiện và Việt Nam. Mặc dù không vượt qua những giới hạn khuyến khích người đã thoát nghèo vươn lên làm của ý thức hệ tư tưởng của thời đại, nhưng nó đã giàu và giúp đỡ người khác thoát nghèo” [2]. Thực thổi một luồng sinh khí vào đời sống tư tưởng và tiễn những năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng, đời sống quần chúng nhân dân trong một xã hội Nhà nước và các cấp ủy Đảng, chính quyền địa đầy rẫy đau thương và có nhiều biến động. Đây phương, chúng ta đã có những chính sách, giải cũng là sự tiếp nối khuynh hướng tư tưởng nhân pháp đồng bộ, hiệu quả tập trung giải quyết vấn văn chính trị truyền thống của dân tộc trong thế đề xoá đói, giảm nghèo và hạn chế phân hoá giàu kỷ XVIII. nghèo mang tầm quốc gia được quốc tế ủng hộ Tư tưởng về dân và những yêu cầu, trách nhiệm và đánh giá cao. Thông qua các chương trình xoá của bộ máy cầm quyền trong việc chăm lo cho đời đói giảm nghèo như 134, 135, chương trình phát sống nhân dân trên tinh thần Khoan - Giản - An triển kinh tế, xã hội miền núi, vùng sâu, vùng xa, - Lạc vẫn còn giá trị đối với nước ta ngày nay và vùng kinh tế đặc biệt khó khăn…, nước ta đã có được Đảng, Nhà nước ta vận dụng sáng tạo trong hàng triệu hộ gia đình, hàng chục triệu người thoát việc xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên và bộ máy khỏi đói nghèo, vươn lên làm giàu; góp phần hạn Nhà nước của dân, do dân và vì nhân dân, hướng chế phân hoá giàu nghèo, thực hiện công bằng, tới mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bình đẳng và tiến bộ xã hội. Định hướng cơ bản bằng, văn minh. của Đảng và Nhà nước ở đây là tạo cơ chế, chính sách để xóa đói, giảm nghèo bền vững cho dân theo cách “cho dân cần câu chứ không cho con cá”. TÀI LIỆU THAM KHẢO Đặc biệt, trong những năm gần đây các bộ, ngành, cơ quan công quyền từ Trung ương đến địa phương [1]. Đảng Cộng sản Việt Nam (1987), Văn kiện Đại đã đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, góp phần hội đại biểu Toàn quốc lần thứ VI, NXB Chính trị Quốc gia Sự thật, Hà Nội. giải quyết nhanh chóng, kịp thời, hiệu quả nhu cầu Tạp chí Nghiên cứu khoa học, Trường Đại học Sao Đỏ, ISSN 1859-4190, Số 2 (69) 2020 111
  7. NGHIÊN CỨU KHOA HỌC [2]. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại [7]. GS. Đỗ Huy (2004), Lê Quý Đôn và các tư hội đại biểu Toàn quốc lần thứ IX, NXB Chính tưởng đạo đức của ông, Tạp chí Triết học, số trị Quốc gia Sự thật, Hà Nội. 6 (157), tr 16-22. [3]. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại [8]. Lê Thành Khôi (2014) Lịch sử Việt Nam từ hội đại biểu Toàn quốc lần thứ XII, NXB Chính nguồn gốc đến giữa thế kỷ XX, NXB Thế giới. trị Quốc gia Sự thật, Hà Nội. [9]. Tạ Ngọc Liễn (1998), Chân dung văn hóa Việt [4]. Lê Quý Đôn (1993), Kinh thư diễn nghĩa, NXB Nam, NXB Thanh niên, Hà Nội. TP. Hồ Chí Minh. [10]. Hồ Chí Minh (2000), Hồ Chí Minh toàn tập, Tập [5]. Lê Quý Đôn (1995), Quần thư khảo biện, NXB 5, NXB Chính trị Quốc gia Sự thật, Hà Nội. Khoa học Xã hội, Hà Nội. [11]. Trung tâm Unesco phổ biến kiến thức văn hóa, [6]. Lê Quý Đôn (2007), Phủ biên tạp lục, NXB Văn giáo dục cộng đồng, Hội khoa học lịch sử Việt hóa - Thông tin, Hà Nội. Nam (2006),Trí thức Việt Nam xưa và nay, NXB Văn hóa - Thông tin, Hà Nội. THÔNG TIN VỀ TÁC GIẢ Phạm Văn Dự - Tóm tắt quá trình đào tạo, nghiên cứu (thời điểm tốt nghiệp và chương trình đào tạo, nghiên cứu): + Năm 2008: Tốt nghiệp chuyên ngành Lịch sử triết học, Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội. + Năm 2013: Tốt nghiệp Thạc sĩ chuyên ngành Triết học tại Trung Tâm đào tạo, bồi dưỡng giảng viên lý luận chính trị, Đại học Quốc gia Hà Nội. + Năm 2018: Nhận bằng Tiến sĩ chuyên ngành Triết học tại Học viện Khoa học xã hội, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam. -Tóm tắt công việc hiện tại: Trưởng Phòng Công tác sinh viên, giảng viên, khoa Giáo dục chính trị và thể chất, Trường Đại học Sao Đỏ. - Lĩnh vực quan tâm: Lịch sử tư tưởng Việt Nam. - Email: phamvandu84@gmail.com. - Điện thoại: 097 6181949. 112 Tạp chí Nghiên cứu khoa học, Trường Đại học Sao Đỏ, ISSN 1859-4190, Số 2 (69) 2020
nguon tai.lieu . vn