Xem mẫu
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về
xây dựng Nhà nước pháp
quyền của dân, do dân, vì dân
Xây dựng Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân là quan điểm tư tưởng
nhất quán của Chủ tịch Hồ Chí Minh, là kim chỉ nam định hướng cho toàn bộ quá
trình tổ chức, xây dựng và hoạt động của Nhà nước ta. Tư tưởng Hồ Chí Minh về
xây dựng Nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân là bước phát triển mới và
sự vận dụng sáng tạo của chủ nghĩa Mác - Lê nin kết hợp chủ nghĩa yêu nước,
truyền thống văn hóa Việt Nam, tinh hoa văn hóa phương Đông và phương Tây.
Nhà nước của dân, do dân và vì dân theo Hồ Chí Minh là Nhà nước thực hiện
quyền lực của nhân dân, dựa vào sức mạnh của nhân dân, trước hết là nhân dân lao
động. Nhân dân theo quan niệm của Hồ Chí Minh là toàn dân, là tất cả đàn ông, đàn
bà, người già người trẻ , không phân biệt giai cấp, dân tộc, đảng phái, tôn giáo,
Người cho rằng “ trong bầu trời không có gì quí bằng nhân dân. Trong thế giới
không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân”
Trong bản Hiến pháp đầu tiên của nước ta (1946) do đích thân Chủ tịch Hồ Chí
Minh soạn thảo, ngay từ Điều 1 đã khẳng định: "Tất cả quyền bính trong nước là
của toàn thể nhân dân Việt Nam, không phân biệt nòi giống, gái trai, giàu nghèo,
giai cấp". Xuất phát từ lòng tin sâu sắc vào truyền thống tốt đẹp của nhân dân ta,
cho dù trong hoàn cảnh cực kỳ khó khăn sau khi cách mạng mới thành công - giặc
đói, giặc dốt và giặc ngoại xâm đang hoành hành; Người đề nghị Chính phủ lâm
thời "tổ chức càng sớm càng hay cuộc tổng tuyển cử với chế độ phổ thông đầu
phiếu...", “Tổng tuyển cử là dịp cho toàn thể quốc dân tự do lựa chọn những người
có tài, có đức để gánh vác công việc Nước nhà . Trong cuộc tổng tuyển cử hễ là
những người muốn lo việc nước thì đều có quyền ra ứng cử, hễ là công dân thì
đều có quyền đi bầu cử…Do bầu cử mà toàn dân bầu ra Quốc hội, Quốc hội sẽ cử
ra Chính phủ, Chính phủ đó thật là chính phủ của toàn dân” . Tức là Người đã thực
hiện ngay dân chủ trực tiếp, điều mà nền dân chủ tư sản phải trải qua mấy trăm
năm mới đạt được, mà không đợi đến lúc có đủ những điều kiện về kinh tế - xã
- hội cho phép. Sự thành lập bộ máy nhà nước do dân cử bằng phổ thông đầu phiếu
là sự kiện đầu tiên trong lịch sử nhà nước của Việt Nam. Một Chính phủ như vậy
nhất định thể hiện được truyền thống đoàn kết dân tộc, thể hiện ý chí thống nhất
cao của toàn dân; Người nói: “Tôi có thể tuyên bố trước Quốc hội rằng, Chính phủ
này tỏ rõ tinh thần quốc dân liên hiệp, là một Chính phủ chú trọng thực tế và sẽ nỗ
lực làm việc, để tranh thủ quyền độc lập và thống nhất lãnh thổ, cùng xây dựng
một nước Việt Nam mới. Chính phủ này là chính phủ toàn quốc có đủ tài Trung,
Nam, Bắc tham gia” . Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, Nhà nước Việt Nam dân chủ
cộng hòa ngay từ khi ra đời là Nhà nước dân chủ kiểu mới – Nhà nước của dân, do
dân vì dân. Cơ sở xã hội của Nhà nước đó là toàn thể dân tộc Việt Nam, dựa nền
tảng liên minh giữa giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức dưới
sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam. Đó là Nhà nước thực hiện chức năng
chuyên chính vô sản nhằm bảo vệ thành quả cách mạng và xây dựng thành công
chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Xây dựng một Nhà nước của dân theo Bác Hồ nghĩa là: Tất cả quyền bính đều
thuộc về nhân dân, những vấn đề quan hệ đến vận mệnh quốc gia do nhân dân
phán quyết; tức là nhân dân phải là người thực hiện quyền lực, hoặc trực tiếp,
hoặc gián tiếp thông qua các đại biểu của mình “Chính quyền từ xã đến chính phủ
Trung ương do dân cử ra. Đoàn thể từ Trung ương đến xã do dân tổ chức nên” . Đó
là những hình thức cơ bản của nền dân chủ; dân chủ vừa là thành quả đấu tranh
cách mạng của dân tộc, vừa là giá trị văn hóa, do đó theo Người: Nhà nước ta phải
phát triển quyền dân chủ sinh hoạt chính trị toàn dân... làm cho mọi người công dân
Việt Nam thực sự tham gia vào công việc của Nhà nước. Như vậy, nền tảng xã hội
sâu rộng, ý thức chính trị và khả năng tham gia vào đời sống chính trị của nhân dân
là yếu tố đảm bảo cho nền dân chủ mới. Người coi yếu tố đầu tiên của dân chủ là:
Có việc gì thì ai cũng được bàn, cũng phải bàn. Khi bàn rồi thì bỏ thăm, ý kiến nào
nhiều người theo hơn thì được. ấy là dân chủ.
Nhà nước do dân bởi vì “ lực lượng bao nhiêu là nhờ dân hết”. Nhà nước muốn
điều hành quản lý xã hội có hiệu quả thì phải dựa vào dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh
nói: “dân như nước mình như cá”; phải “đem tài dân, sức dân, của dân làm lợi cho
dân…Chính phủ chỉ giúp kế hoạch cổ động” . Vì vậy Đảng ta luôn chủ trương dựa
vào dân, tạo điều kiện để nhân dân phát huy cao nhất quyền làm chủ , tham gia tích
cực vào việc quản lý Nhà nước .
- Nhà nước vì dân, theo Hồ Chí Minh có nghĩa là mọi hoạt động của Nhà nước đều
phải xuất phát và vì lợi ích của nhân dân; việc gì có lợi cho dân thì phải làm cho kỳ
được ; việc gì có hại cho dân thì phải hết sức tránh. Người chỉ rõ: chế độ ta là chế
độ dân chủ, nhân dân là chủ, Chính phủ là đầy tớ của nhân dân. Nhân dân có quyền
đôn đốc và phê bình Chính phủ. Chính phủ thì việc to, việc nhỏ đều nhằm mục
đích phục vụ lợi ích của nhân dân “Các công việc của chính phủ làm phải nhằm
vào mục đích duy nhất là mưu tự do hạnh phúc cho mọi người. Cho nên chính phủ
nhân dân bao giờ cũng phải đặt quyền lợi dân lên trên hết thảy. Việc gì có lợi cho
dân thì làm. Việc gì có hại cho dân thì tránh” . Xây dựng một Nhà nước vì dân là
một nhà nước không đặc quyền, đặc lợi, phục vụ nhân dân tận tụy, một nhà nước
trong sạch, chí công vô tư. Bác đã dạy rằng: Phải xây dựng một nền chính trị liêm
khiết, kiên quyết đấu tranh với ba thứ giặc nội xâm là: tham ô, lãng phí, quan liêu.
Một mặt Nhà nước phải thực hành dân chủ rộng rãi với nhân dân mặt khác phải
thực hành chuyên chính với mọi hành động xâm hại đến lợi ích của tổ quốc, quyền
làm chủ của nhân dân. Trong hàng loạt vấn đề được đề cập, Hồ Chí Minh thường
nhấn mạnh vấn đề bản chất xã hội chủ nghĩa, tính dân chủ, tính nhân dân, tính
nhân đạo của Nhà nước mà nhân dân ta xây dựng.
Là đại biểu của nhân dân, nên hiệu lực quản lý nhà nước đều dựa vào sự tín nhiệm
và sức mạnh của đông đảo nhân dân. Nhân dân là người theo dõi, giám sát mọi hoạt
động của nhà nước, của đội ngũ cán bộ công chức nhà nước và khi cần thì có
quyền bãi miễn nếu những đại biểu ấy tỏ ra không xứng đáng .
Quan niệm của Hồ Chí Minh về một nhà nước của dân và vì dân còn phải là nhà
nước “công bộc của dân, gánh vác công việc chung của dân chứ không phải để đè
đầu cưỡi cổ dân như thời Pháp, Nhật” . Người chỉ rõ: bất kỳ ở địa vị nào, làm công
tác gì, chúng ta đều là đầy tớ của nhân dân. Cơm chúng ta ăn, áo chúng ta mặc, vật
liệu chúng ta dùng đều do mồ hôi nước mắt của nhân dân mà ra. Vì vậy chúng ta
phải đền đáp xứng đáng cho nhân dân. Người dạy, để thực sự là “đầy tớ của dân”,
các cơ quan nhà nước từ trung ương đến cơ sở phải thực sự gần dân, biết lắng
nghe ý kiến nguyện vọng của nhân dân, làm việc gì cũng bàn bạc kỹ và học hỏi
kinh nghiệm của nhân dân, thực sự yêu dân kính dân, tin cậy và trọng dân, ăn ở
công bằng với dân và thực sự cần kiệm, liêm chính chí công vô tư.
Nhà nước của dân, do dân và vì dân không phải nhà nước siêu giai cấp mà là nhà
nước do Đảng Cộng sản - Đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo. Sự lãnh đạo của
Đảng Cộng sản là nhân tố quyết định bản chất giai cấp , bản chất cách mạng của
- nhà nước xã hội chủ nghĩa. Đường lối chính sách của Đảng là mục tiêu, phương
hướng hành động của nhà nước. Thể chế hóa và thực hiện đường lối của đảng là
chức năng cơ bản của nhà nước xã hội chủ nghĩa .
Nhà nước của dân, do dân phải là một nhà nước được tổ chức và hoạt động trong
khuôn khổ của hiến pháp và pháp luật, thể hiện cho ý chí và nguyện vọng của
nhân dân. Ngay từ những năm 1922, trong bài "Việt Nam yêu cầu ca" có 8 điều thì
có một điều (Điêù7) NgươìViết:
“Bảy xin hiến pháp ban hành
Trăm điều phải có thần linh pháp quyền”
Theo Người: “Pháp luật là phép của dân, dùng để ngăn cản những hành động có
hại cho dân, để bảo vệ lợi ích chung của đại đa số nhân dân” .
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn luôn chủ trương đề cao việc quản lý nhà nước bằng
công cụ pháp luật. Trước khi có Hiến pháp, Người cho rằng, một xã hội không thể
sống một ngày không có pháp luật, cho nên Người đã ký Sắc lệnh giữ lại mọi luật
lệ của chế độ cũ, chỉ trừ những điều luật trái với nền độc lập, tự do. Đồng thời,
Người ký một loạt Sắc lệnh cấp bách: Sắc lệnh bảo đảm tự do cá nhân, Sắc lệnh
bãi bỏ thuế thân, Sắc lệnh tổ chức Tòa án độc lập với hành chính... Đó là nền tảng
trước mắt và lâu dài cho một nhà nước pháp quyền. Tư tưởng pháp quyền của Chủ
tịch Hồ Chí Minh thể hiện trong hoạt động của Chính phủ, của các cấp chính
quyền, của các tổ chức, Người đòi hỏi tất cả mọi tổ chức và cá nhân phải chấp
hành pháp luật, không ai được đứng trên, đứng ngoài pháp luật. Trong điều kiện có
chính quyền người đặc biệt quan tâm, nhắc nhở đội ngũ cán bộ công chức : Dù to
hay nhỏ, có quyền mà thiếu lương tâm là có dịp đục khoét, có dịp ăn của đút, có dịp
"dĩ công vi tư". Thực chất những căn bệnh đó là vi phạm quyền làm chủ của nhân
dân lao động, là độc tố phản văn hóa đi ngược lại bản chất nhà nước của dân, do
dân và vì dân. Ngoài việc giáo dục nâng cao phẩm chất đạo đức cách mạng, "Pháp
luật phải thẳng tay trừng trị những kẻ bất liêm, bất kỳ kẻ ấy ở địa vị nào, làm
nghề nghiệp gì".
Nội dung quan trọng của Nhà nước pháp quyền là khẳng định cội nguồn quyền lực
nhà nước là ở nhân dân, trong đó nhà nước là của nhân dân chứ không phải nhân
dân là của nhà nước; Nhà nước pháp quyền đề cao tính hợp hiến, hợp pháp trong
tổ chức và hoạt động của Nhà nước, Nhà nước chỉ được làm những điều pháp luật
cho phép, còn nhân dân được làm tất cả những điều pháp luật không cấm. Một
mặt, pháp luật bảo đảm cho sự phát triển tự do tối đa của nhân dân, mặt khác pháp
- luật xây dựng và duy trì xã hội trật tự, ổn định, trong đó không chỉ mỗi công dân,
mỗi cá nhân, mà bản thân nhà nước và những người đứng đầu chính quyền cũng
phải tôn trọng pháp luật . Hai mặt dân chủ và pháp luật trong Nhà nước pháp
quyền gắn bó hữu cơ, làm tiền đề tồn tại cho nhau và tạo nên bản chất của Nhà
nước pháp quyền trong lịch sử nhân loại; Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Nhà nước
bảo đảm quyền tự do dân chủ cho công dân nhưng nghiêm cấm lợi dụng các quyền
tự do dân chủ để để xâm phạm đến lợi ích của Nhà nước, của nhân dân” .
Mặc dù Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đi xa nhưng những tư tưởng của Người về xây
dựng Nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân vẫn còn nguyên giá trị. Giá trị
trường tồn của những luận điểm đó không chỉ soi sáng mà còn là sự tiếp sức quyết
tâm chính trị của Đảng và Nhà nước ta trong tiến trình xây dựng Nhà nước Pháp
quyền xã hội chủ nghĩa. Văn kiện Đại hội X của Đảng chỉ rõ: “Xây dựng cơ chế
vận hành của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, bảo đảm nguyên tắc tất cả
quyền lực nhà nước đều thuộc về nhân dân; quyền lực nhà nước là thống nhất, có
sự phân công, phối hợp giữa các cơ quan trong việc thực hiện quyền lập pháp,
hành pháp và tư pháp. Hoàn thiện hệ thống pháp luật, tăng tính khả thi của các qui
định trong văn bản pháp luật. Xây dựng, hoàn thiện cơ chế kiểm tra giám sát tính
hợp hiến hợp pháp trong các hoạt động và quyết định của các cơ quan công quyền”
- một trong những điều kiện và môi trường tiên quyết ở nước ta, bảo đảm phát huy
sức mạnh toàn dân tộc, tiếp tục đổi mới, đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước, vì mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân
chủ, văn minh./.
nguon tai.lieu . vn