Xem mẫu
- TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ VẤN ĐỀ DÂN TỘC
Sơ lược quan điểm của Mác, Ăngghen, Lênin về vấn đề dân tộc
Dân tộc là vấn đề rộng lớn, bao gồm những quan hệ về chính trị, kinh tế, lãnh thổ,
pháp lý, tư tưởng và văn hoá giữa các dân tộc, các nhóm dân tộc và bộ tộc.
- Theo quan điểm của Chủ nghĩa Mác-Lênin, dân tộc là sản phẩm của quá trình phát
triển lâu dài của lịch sử.
+ Mác-Ăngghen đã đặt nền móng tư tưởng cho việc giải quyết vấn đề dân tộc một
cách khoa học.
Hình thức cộng đồng tiền dân tộc như thị tộc, bộ tộc, bộ lạc. Sự phát triển của chủ
nghĩa tư bản dẫn đến sự ra đời của các dân tộc tư bản chủ nghĩa. Chủ nghĩa tư bản bước
sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa, các nước đế quốc thi hành chính sách vũ trang xâm
lược, cướp bóc, nô dịch các dân tộc nhỏ từ đó xuất hiện vấn đề dân tộc thuộc địa. Mác
và Ăngghen nêu lên quan điểm cơ bản có tính chất phương pháp luận để nhận thức và
giải quyết vấn đề nguồn gốc, bản chất của dân tộc, những quan hệ cơ bản của dân tộc,
thái độ của giai cấp công nhân và Đảng của nó về vấn đề dân tộc.
+ Lênin đã phát triển quan điểm này thành hệ thống lý luận toàn diện và sâu sắc về
vấn đề dân tộc, làm cơ sở cho cương lĩnh, đường lối, chính sách của các Đảng Cộng sản
về vấn đề dân tộc. Trong đó đáng chú ý là các vấn đề:
Vấn đề dân tộc theo tư tưởng Hồ Chí Minh là vấn đề dân tộc thuộc địa
Khi các nước đế quốc đi xâm chiếm thuộc địa để mở rộng thị trường, chúng thực
hiện sự áp bức về chính trị, bóc lột về kinh tế, nô dịch về văn hoá đối với các nước bị
xâm chiếm- thì vấn đề dân tộc trở thành vấn đề dân tộc thuộc địa.
Vấn đề dân tộc thuộc địa thực chất là vấn đề đấu tranh giải phóng dân tộc
thuộc địa nhằm thủ tiêu sự thống trị của nước ngoài, giành độc lập dân tộc, xoá bỏ
ách áp bức, bóc lột thực dân, thực hiện quyền dân tộc tự quyết, thành lập nhà
nước dân tộc độc lập.
Vấn đề dân tộc theo tư tưởng Hồ Chí Minh trong thời đại cách mạng vô sản đầu thế
kỷ XX có mấy luận điểm cơ bản sau:
1) Độc lập, tự do là quyền thiêng liêng bất khả xâm phạm của các dân tộc.
+ Tất cả các dân tộc trên thế giới phải được độc lập hoàn toàn và thật sự. Độc lập
trên tất cả các mặt kinh tế, chính trị, quân sự, ngoại giao, toàn vẹn lãnh thổ. Mọi vấn đề
của chủ quyền quốc gia do dân tộc đó tự quyết định. Theo Hồ Chí Minh độc lập tự do là
khát vọng lớn nhất của các dân tộc thuộc địa và theo nguyên tắc: Nước Việt Nam là của
người Việt Nam, do dân tộc Việt Nam quyết định, nhân dân Việt Nam không chấp nhận
bất cứ sự can thiệp nào từ bên ngoài. Trong nền độc lập đó mọi người dân đều ấm no, tự
do, hạnh phúc, nếu không độc lập chẳng có nghĩa gì. Hồ Chí Minh nói: “chúng ta đã hy
sinh, đã giành được độc lập, dân chỉ thấy giá trị của độc lập khi ăn đủ no, mặc đủ ấm”.
Tư tưởng này thể hiện tính nhân văn cao cả và triệt để cách mạng của Hồ Chí Minh. Độc
lập tự do là quyền tự nhiên của dân tộc, thiêng liêng và vô cùng quý giá. Hồ Chí Minh đã
tiếp xúc với Tuyên ngôn độc lập của Mỹ 1776 và Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền
của Pháp 1791, Người đã khái quát chân lý: “Tất cả các dân tộc trên thế giới sinh ra đều
có quyền bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”.
1
- Trong hành trình tìm đường cứu nước cho dân tộc khi còn ở Pháp Nguyễn Ái Quốc đấu
tranh để đòi các quyền cho nhân dân An Nam:
Một là, đòi quyền bình đẳng về chế độ pháp lý cho người bản xứ Đông Dương như
đối với châu Âu, xoá bỏ chế độ cai trị bằng sắc lệnh, thay thế bằng chế độ đạo luật.
Hai là, đòi quyền tự do dân chủ tối thiểu cho nhân dân, tự do ngôn luận, tự do báo chí,
hội họp, tự do cư trú ... Ngày 18/6/1919, Nguyễn Ái Quốc thay mặt những người Việt
Nam yêu nước tại Pháp gửi đến hội nghị Véc-xây bản yêu sách của nhân dân An-nam đòi
quyền bình đẳng cho dân tộc Việt Nam. Bản yêu sách không được chấp nhận, Nguyễn Ái
Quốc rút ra bài học: Muốn bình đẳng thực sự phải đấu tranh giành độc lập dân tộc- làm
cách mạng, muốn giải phóng dân tộc chỉ có thể trông cậy vào chính mình, vào lực lượng
của bản thân mình.
Điều này thể hiện ở mục tiêu của cách mạng Việt Nam là: Đánh đổ Đế quốc Pháp và
phong kiến, làm cho nước Nam hoàn toàn độc lập. Sau Cách mạng Tháng 8 thành công,
Hồ Chí Minh đã đọc bản tuyên ngôn độc lập và khẳng định: “Nước Việt Nam có quyền
hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do, độc lập. Toàn thể dân tộc
Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ quyền
tự do độc lập ấy”.
+ Hoà bình chân chính trong nền độc lập dân tộc để nhân dân xây dựng cuộc sống ấm
no hạnh phúc cũng là quyền cơ bản của dân tộc. Hoà bình không thể tách rời độc lập dân
tộc, và muốn có hoà bình thật sự thì phải có độc lập thật sự. Hồ Chí Minh đã nêu: “Nhân
dân chúng tôi thành thật mong muốn hoà bình. Nhưng nhân dân chúng tôi cũng kiên quyết
chiến đấu đến cùng để bảo vệ độc lập và chủ quyền thiêng liêng nhất: toàn vẹn lãnh thổ
cho Tổ quốc và độc lập cho đất nước”. Chân lý có giá trị cho mọi thời đại: “Không có gì
quý hơn độc lập, tự do”.
+ Độc lập dân tộc phải gắn liền với sự thống nhất toàn vẹn lãnh thổ quốc gia.
2) Chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc là một động lực to lớn của đất nước:
Do kinh tế lạc hậu, sự phân hoá giai cấp chưa triệt để, vì thế “cuộc đấu tranh giai cấp
không diễn ra giống như ở phương Tây”, điều này có ý nghĩa đối với các dân tộc phương
Đông: có sự tương đồng lớn, dù là ai, cũng đều là nô lệ mất nước. Chủ nghĩa dân tộc bản
xứ là chủ nghĩa yêu
3) Kết hợp nhuần nhuyễn dân tộc với giai cấp, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã
hội, chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế
Dưới ánh sáng của CNMLN khi Hồ Chí Minh bàn đến vấn đề dân tộc và cách mạng
giải phóng dân tộc thì độc lập dân tộc phải gắn với CNXH, mối quan hệ dân tộc và giai
cấp được đặt ra.
Vấn đề dân tộc bao giờ cũng được nhận thức và giải quyết theo lập trường của một
giai cấp nhất định. Theo quan điểm của CNMLN, chỉ trên lập trường của giai cấp vô sản,
cách mạng vô sản mới giải quyết đúng đắn vấn đề dân tộc. Trong Tuyên ngôn Đảng
cộng sản, Mác-Ăngghen đã đề cập mối quan hệ dân tộc và giai cấp: cuộc đấu tranh của
giai cấp vô sản nhằm lật đổ ách thống trị của giai cấp tư sản, ở giai đoạn đầu của nó là
mang tính chất dân tộc. Mác kêu gọi “giai cấp vô sản mỗi nước trước hết phải giành lấy
chính quyền, phải tự vươn lên thành giai cấp dân tộc, phải tự mình trở thành giai cấp dân
tộc,... không phải theo cái nghĩa như giai cấp tư sản hiểu”. Cũng theo Mác –Ăngghen, chỉ
có giai cấp vô sản mới thống nhất được lợi ích dân tộc- lợi ích của mình với các lợi ích
2
- của nhân dân lao động và của cả dân tộc. Chỉ có xoá bỏ áp bức, bóc lột giai cấp thì mới
xoá bỏ áp bức dân tộc, đem lại độc lập thật sự cho dân tộc mình và cho dân tộc khác. Tuy
nhiên, Mác và Ăngghen không đi sâu nghiên cứu vấn đề dân tộc vì ở Tây Âu vấn đề dân
tộc đã được giải quyết trong cách mạng tư sản, đối với Mác, vấn đề dân tộc chỉ là thứ
yếu so với vấn đề giai cấp.
Thời đại Lênin, khi CNĐQ đã trở thành một hệ thống thế giới, cách mạng giải phóng
dân tộc trở thành bộ phận của cách mạng vô sản, Lênin mới phát triển vấn đề dân tộc
thành học thuyết về cách mạng thuộc địa. Lênin cho rằng, cách mạng vô sản ở chính
quốc không thể giành thắng lợi nếu không liên minh với cuộc đấu tranh của các dân tộc
bị áp bức ở thuộc địa. Khẩu hiệu của Mác được bổ sung: “vô sản toàn thế giới và các dân
tộc bị áp bức, đoàn kết lại.” Lênin đã thực sự “đặt tiền đề cho một thời đại mới, thật sự
cách mạng trong các nước thuộc địa.”
Hồ Chí Minh, từ chủ nghĩa yêu nước đến với CNMLN, đã nhận thức được mối quan
hệ chặt chẽ giữa dân tộc và giai cấp, dân tộc và quốc tế, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã
hội, lựa chọn cách mạng giải phóng dân tộc theo con đường cách mạng vô sản. Hồ Chí
Minh nêu, các nước thuộc địa phương Đông không phải làm ngay cách mạng vô sản, mà
trước hết giành độc lập dân tộc. Có độc lập dân tộc rồi mới bàn đến cách mạng XHCN.
Từ thực tiễn của đấu tranh cách mạng, Nguyễn Ái Quốc đã phê phán quan điểm của các
đảng cộng sản Tây Âu không đánh giá đúng vai trò, vị trí, tương lai của cách mạng thuộc
địa, và Nguyễn Ái Quốc đi đến luận điểm: “Các dân tộc thuộc địa phải dựa vào sức mình
là chính, đồng thời biết tranh thủ sự đoàn kết, ủng hộ của giai cấp vô sản và nhân dân lao
động thế giới để phải đấu tranh giành độc lập cho dân tộc, từ cách mạng giải phóng dân
tộc tiến lên làm cách mạng XHCN.” Tư tưởng Hồ Chí Minh về kết hợp dân tộc với giai
cấp, dân tộc với quốc tế, độc lập dân tộc với CNXH thể hiện một số điểm sau:
+ Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Hồ Chí Minh thấy rõ mối quan
hệ giữa sự nghiệp giải phóng dân tộc với sự nghiệp giải phóng giai cấp của giai cấp vô
sản. “Cả hai cuộc giải phóng này chỉ có thể là sự nghiệp của CNCS và của cách mạng
thế giới”.
Năm 1930, trong chính cương vắn tắt, sách lược vắn tắt, Hồ Chí Minh xác định con
đường của cách mạng Việt Nam phải trải qua hai giai đoạn: làm “tư sản dân quyền cách
mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”.
Năm 1960, Hồ Chí Minh xác định “chỉ có CNXH, CNCS mới giải phóng được các dân
tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ”. Tư tưởng Hồ Chí
Minh về sự gắn bó giữa độc lập dân tộc và CNXH vừa phản ánh quy luật khách quan của
sự nghiệp giải phóng dân tộc trong thời đại cách mạng vô sản, vừa phản ánh mối quan
hệ khăng khít giữa mục tiêu giải phóng dân tộc với các mục tiêu giải phóng dân tộc, giải
phóng giai cấp, giải phóng con người. Do đó “giành được độc lập rồi phải tiến lên
CNXH, vì mục tiêu của CNXH là “làm sao cho dân giàu, nước mạnh”, “là mọi người
được ăn no, mặc ấm, sung
+ Độc lập cho dân tộc mình và cho tất cả các dân tộc khác . Hồ Chí Minh không chỉ
đấu tranh cho độc lập dân tộc mình mà còn đấu tranh cho tất cả các dân tộc bị áp bức.
“Chúng ta phải tranh đấu cho tự do, độc lập của các dân tộc khác như là đấu tranh cho
dân tộc ta vậy”. Chủ nghĩa dân tộc thống nhất với chủ nghĩa quốc tế trong sáng. Hồ Chí
3
- Minh nêu cao tinh thần tự quyết của dân tộc, song không quên nghĩa vụ quốc tế cao cả
của mình trong việc giúp đỡ các đảng cộng sản ở một
Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân tộc (29/06/2008)
Vấn đề dân tộc mà Hồ Chí Minh đề cập đến trong tư tưởng của mình được thể hiện
tập trung chủ yếu ở các nội dung về quyền dân tộc, quan hệ giữa dân tộc và giai cấp, và
quan hệ giữa Việt Nam với các quốc gia, dân tộc trên thế giới.
Về quyền dân tộc, Hồ Chí Minh cho rằng tất cả các dân tộc trên thế giới đều bình
đẳng; tức độc lập tự do là quyền thiêng liêng, bất khả xâm phạm của tất cả các dân tộc.
Sinh ra trong cảnh nước mất nhà tan, tận mắt chứng kiến sự chà đạp của ngoại bang lên
tự do độc lập của đất nước, được kết tinh, hun đúc từ tinh thần nồng nàn yêu nước của
người dân nước Việt, Hồ Chí Minh cho rằng: đối với một người dân mất nước, cái quí
nhất trên đời là độc lập của tổ quốc, tự do của nhân dân. Trên đường tiếp cận chân lý
cứu nước, Hồ Chí Minh đã tiếp nhận những tư tưởng bất hủ trong Tuyên ngôn độc lập
1776 của Mỹ và Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền 1791 của cách mạng Pháp. Từ
những tinh hoa của dân tộc và thế giới, Người đã khái quát nên chân lý bất di bất dịch, lẽ
phải không ai có thể chối cãi được: Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình
đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do. Đây là một tư
tưởng vĩ đại, chẳng những mang tính quốc tế, tính thời đại rộng lớn mà còn mang tính
nhân văn sâu sắc.
Độc lập dân tộc, theo Hồ Chí Minh, phải là độc lập thật sự và độc lập hoàn toàn. Tức
là, dân tộc đó phải có đầy đủ chủ quyền (về chính trị, kinh tế, an ninh, v.v.) và toàn vẹn
lãnh thổ, chứ không phải là chiếc bánh vẽ mà người khác (bọn thực dân, đế quốc) bố thí.
Độc lập thật sự, độc lập hoàn toàn, theo Người, phải được hiểu một cách đơn giản:
nước Việt Nam là của người Việt Nam, mọi vấn đề thuộc chủ quyền quốc gia Việt Nam
phải do người Việt Nam tự giải quyết. Và giá trị đích thực của độc lập dân tộc phải
được thể hiện bằng quyền tự do hạnh phúc của nhân dân, mà theo Người, độc lập dân
tộc là đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành. Tư tưởng độc lập dân
tộc, khát vọng độc lập dân tộc của Người được thể hiện ở tinh thần “thà hy sinh tất cả”,
“dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn” và vượt lên tất cả là tinh thần “không có gì quí
hơn độc lập tự do.”
Hồ Chí Minh luôn giương cao ngọn cờ đấu tranh vì độc lập dân tộc, song người cũng
là hiện thân của khát vọng hoà bình. Đó là tư tưởng độc lập dân tộc trong hoà bình chân
chính của Người. Tinh thần “chúng ta muốn hoà bình” đã dẫn dắt nhân dân ta chiến đấu
và chiến thắng mọi thế lực xâm lược ngoại bang.
4
- Có thể nói, tinh thần “không có gì quí hơn độc lập tự do” là tư tưởng và lẽ sống của
Hồ Chí Minh. Nó là nguồn sức mạnh làm nên chiến thắng không chỉ của dân tộc Việt
Nam mà còn của các dân tộc bị áp bức trên thế giới. Vì lẽ đó, Người không chỉ được tôn
vinh là “Anh hùng giải phóng dân tộc” của Việt Nam mà còn là “Người khởi xướng cuộc
đấu tranh giải phóng của các dân tộc thuộc địa trong thế kỷ 20”
Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc thể hiện sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa
dân tộc với giai cấp, độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội, và chủ nghĩa yêu nước với
chủ nghĩa quốc tế.
Trên cơ sở những quan điểm cơ bản của Mác-Lenin về mối quan hệ biện chứng giữa
dân tộc với giai cấp, Hồ Chí Minh đã đưa ra những luận điểm mới và sáng tạo, góp phần
bổ sung và phát triển lý luận của chủ nghĩa Mác Lenin. Theo Người, ở các nước thuộc địa
“chủ nghĩa dân tộc là một động lực lớn của đất nước”. Người phân tích, do kinh tế còn
lạc hậu, chưa phát triển nên sự phân hoá giai cấp ở nước ta và nhiều nước thuộc địa khác
chưa triệt để, mâu thuẫn chưa đến mức đối kháng quyết liệt. Ở những nước thuộc địa
như nước ta, mâu thuẫn giữa dân tộc với chủ nghĩa đế quốc quyết liệt hơn mâu thuẫn
giữa giai cấp nông dân với địa chủ, giữa công nhân với tư sản. Do đó, trong bối cảnh này
không thể giải quyết vấn đề giai cấp rồi mới giải quyết vấn đề dân tộc như ở các nước
tư bản phương Tây được, mà chỉ có thể giải phóng Dân tộc mới giải phóng được giai
cấp, quyền lợi dân tộc, đất nước phải đặt lên trên quyền lợi giai cấp. Xuất phát từ luận
điểm trên, Hồ Chí Minh từng kiến nghị Cương lĩnh hành động của Quốc tế Cộng sản
theo hướng phát động chủ nghĩa dân tộc bản xứ nhân danh Quốc tế Cộng sản, khi chủ
nghĩa dân tộc của họ thắng, nhất định nó sẽ biến thành chủ nghĩa quốc tế. Nguyễn Ái
Quốc đã đánh giá cao sức mạnh của chủ nghĩa dân tộc với chủ nghĩa yêu nước và tinh
thần dân tộc chân chính, coi đó là một động lực lớn mà những người cộng sản phải nắm
lấy và phát huy, không để ngọn cờ dân tộc rơi vào tay giai cấp nào khác, phải nhận thức
và giải quyết vấn đề dân tộc trên lập trường của giai cấp vô sản, kết hợp chủ nghĩa dân
tộc với chủ nghĩa quốc tế.
Độc lập dân tộc, theo Hồ Chí Minh, là phải gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Ngay từ
khi tiếp cận Luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa của Lênin, Hồ Chí Minh đã hình
thành đường lối cứu nước: giải phóng dân tộc theo con đường cách mạng vô sản, gắn bó
thống nhất giữa dân tộc và giai cấp, dân tộc và quốc tế, độc lập dân tộc và CNXH.
Người nói: “ Cả hai cuộc giải phóng này (dân tộc và giai cấp) chỉ có thể là sự nghiệp của
chủ nghĩa cộng sản và của cách mạng thế giới.” Tiếp đó, ngay trong Chánh cương, Sách
lược vắn tắt được thông qua tại Hội nghị thành lập Đảng cộng sảnViệt Nam tháng
2/1930, Hồ Chí Minh đã xác định Cách mạng Việt Nam trải qua hai giai đoạn: Làm tư sản
dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng (tức cách mạng dân tộc-dân chủ) để đi tới xã
hội cộng sản. Tư tưởng Hồ Chí Minh về sự gắn bó thống nhất giữa độc lập dân tộc và
5
- CNXH vừa phản ảnh quy luật khách quan của sự nghiệp giải phóng dân tộc trong thời
đại cách mạng vô sản, vừa phản ánh mối quan hệ khăng khít giữa mục tiêu giải phóng
dân tộc với mục tiêu giải phóng giai cấp và giải phóng con người. Xoá bỏ ách áp bức dân
tộc mà không xoá bỏ tình trạng bóc lột và áp bức giai cấp thì nhân dân lao động vẫn chưa
được giải phóng. Người nói: “Nếu nước độc lập mà dân không được hạnh phúc, tự do,
thì độc lập cũng chẳng có ý nghĩa gì.” Do đó giành được độc lập rồi, thì phải tiến lên
CNXH, vì mục tiêu của CNXH là dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh. Như vậy, ở Hồ Chí Minh, chủ nghĩa yêu nước truyền thống đã phát triển thành chủ
nghĩa yêu nước hiện đại, độc lập dân tộc gắn liền với CNXH.
Là một chiến sỹ quốc tế chân chính, xuất phát từ quan điểm độc lập tự do là quyền
thiêng liêng bất khả xâm phạm của tất cả các dân tộc, Hồ Chí Minh không chỉ đấu tranh
cho độc lập của dân tộc mình mà còn đấu tranh cho độc lập dân tộc của tất cả các dân
tộc bị áp bức. Ở Người, chủ nghĩa yêu nước chân chính luôn gắn liền với chủ nghĩa quốc
tế cao cả, trong sáng. Người nói: “ Chúng ta phải tranh đấu cho tự do độc lập của các dân
tộc khác như là tranh đấu cho dân tộc ta vậy.” Chủ trương “ giúp bạn là tự giúp mình”,
Hồ Chí Minh luôn nêu cao tinh thần dân tộc tự quyết song không quên nghĩa vụ quốc tế
cao cả của mình. Với Người, phải thông qua thắng lợi của Cách mạng mỗi nước mà
đóng góp vào thắng lợi chung của Cách mạng thế giới. Về quan hệ quốc tế, Người tuyên
bố với thế giới: “ Căn cứ trên quyền lợi chung, Chính phủ Việt Nam Dân chủ cộng
hòasắn sàng đặt quan hệ ngoại giao với chính phủ nước nào trọng quyền bình đẳng, chủ
quyền lãnh thổ và chủ quyền quốc gia của nước Việt Nam, để cùng nhau bảo vệ hoà
bình và xây đắp dân chủ thế giới.”
Tựu trung, tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc vừa mang tính khoa học đúng
đắn, vừa có tính chất cách mạng, mang đậm tính nhân văn sâu sắc, thể hiện sự kết hợp
nhuần nhuyễn giữa dân tộc và giai cấp, chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế trong
sáng, độc lập dân tộc cho mình đồng thời độc lập cho tất cả các dân tộc.
Ngày nay, trong xu thế toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế, sự nghiệp xây dựng
và bảo vệ đất nước cũng đang đứng trước những cơ hội và thách thức to lớn đòi hỏi
chúng ta phải chủ động đón lấy và sáng suốt vượt qua. Để làm được điều đó chúng ta
cần nghiên cứu, vận dụng tư tưởng của Người về mối quan hệ giữa dân tộc với giai cấp,
dân tộc và quốc tế, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội nhằm tạo ra những nguồn lực
mới, đưa sự nghiệp đổi mới vững bước tiến lên , giành những thắng lợi mới.
Trước hết, trong bất cứ hoàn cảnh nào cũng đều phải đặc biệt coi trọng và giữ vững
độc lập dân tộc. Lịch sử đấu tranh dựng nước và giữa nước của ông cha ta từ ngàn xưa
cũng như sự nghiệp giải phóng dân tộc do Đảng cộng sảnViệt Nam đứng đầu là Hồ Chí
Minh khới xướng từ 1930 đến nay được ghi lại bằng máu và nước mắt. Thế mới thấy
được ý nghĩa của độc lập dân tộc, mới thấu hiểu được tư tưởng bất hủ “Không có gì quí
hơn độc lập tự do” của Hồ Chí Minh. Trong xu thế toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế
quốc tế hiện nay, không một quốc gia nào có thể phát triển mà không gắn với những mối
6
- quan hệ đa dạng và đa phương với các quốc gia khác trong cộng đồng quốc tế. Việt Nam
cũng nằm trong xu thế ấy. Ngoài những lợi ích hiển nhiên, hơn bao giờ hết, nước ta đang
đứng trước rất nhiều nguy cơ có ảnh hưởng trực tiếp đến độc lập dân tộc. Đó là những
nguy cơ lệ thuộc vào nước ngoài về kinh tế, chính trị, nguy cơ phai nhạt bản sắc văn hoá
dân tộc, tiếp thu một nền văn hoá lai căng phi bẳn sắc. Bên cạnh những nguy cơ mang
tính hệ quả của toàn cầu hoá và tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, chúng ta còn phải
đối mặt với âm mưu diễn biến hoà bình. Các thế lực thù địch trong và ngoài nước đang
núp dưới những chiêu bài tự do, dân chủ, nhân quyền, dân tộc tôn giáo để chống phá sự
nghiệp cách mạng nước ta ( Sự biến Tây Nguyên 2/2001 và 4/2004). Trước những nguy
cơ ấy, Đảng và Nhà nước ta phải không ngừng khơi dậy sức mạnh của chủ nghĩa yêu
nước và tinh thần dân tộc, nguồn động lực mạnh mẽ để xây dựng và bảo vệ đất nước.
Phát huy tối đa các nguồn nội lực, bao gồm con người, trí tuệ, truyền thống, đất đai, tài
nguyên,v.v để xây dựng và phát triển kinh tế, đưa đất nước từng bước bắt kịp các nước
phát triển. Đất nước phát triển, nền kinh tế hùng mạnh sẽ góp phần trực tiếp tạo sức
mạnh cho nhân dân ta giữ vững độc lập dân tộc. Độc lập dân tộc phải được xem là cái
bất biến trong sự thiên biến vạn hoá của nền kinh tế thế giới đang phát triển với xu thế
toàn cầu hoá; bản sắc văn hoá Việt Nam cũng phải được xem là cái bất biến trong sự đa
dạng các nền văn hoá thế giới, tiếp thu nhứng hay, cái đẹp, cái tiên tiến mà vẫn không
mất đi cái gốc, cái chất Việt Nam trong mỗi con người. Đó cũng là cách để giữ vững độc
lập dân tộc theo đúng nghĩa của nó.
Độc lập là tài sản thiêng liêng vô giá của cả dân tộc, là cái phải giữ cho dù mất tất cả,
“hy sinh tất cả”. Muốn thực hiện tốt tinh thần bất hủ ấy của Hồ Chí Minh, ngày nay
đường lối của Đảng và Nhà nước ta phải thể hiện rõ sự quan tâm, không ngừng chăm lo
đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân. Tiếp thu và phát huy tinh hoa của dân tộc với
truyền thống “lấy dân làm gốc” (Dân vi bản quốc gia trường thọ), sinh thời Hồ Chí Minh
đã không ngừng giáo dục cán bộ, đảng viên phải luôn luôn có tinh thần “vì dân phục vụ”.
Người nói: “ Gốc có vững cây mới bền, Xây lầu thắng lợi trên nền nhân dân” Chăm lo và
không ngừng nâng cao đời sống cho nhân dân là cách thiết thực nhất để bảo vệ độc lập
dân tộc, vì theo Người, dân như nước, chở thuyền cũng là nước mà lật thuyền cũng là
nước. Dân giàu thì nước mạnh, mà nước mạnh thì độc lập dân tộc còn. Chủ trương diệt
giặc đói và giặc dốt của Người năm 1945 về cơ bản chính là nền tảng của việc chăm lo
và nâng cao đời sống cho người dân về vật chất cũng như tinh thần. Và suy cho cùng,
mục tiêu của độc lập dân tộc, theo quan điểm của Hồ Chí Minh, là tự do, ấm no, hạnh
phúc của nhân dân; và dĩ nhiên là dân được ấm no tự do hạnh phúc sẽ ra sức bảo vệ nền
độc lập vốn mang lại những điều tốt đẹp đó. Như vậy, chăm lo, không ngững nâng cao
đời sống nhân dân vừa là mục tiêu vừa là cách thiết thực nhất để bảo vệ độc lập dân tộc
theo đúng tinh thần mà Hồ Chí Minh đã nêu rõ.
Thấm nhuần tư tưởng của người về vấn đề dân tộc, ta càng phải phát huy chủ nghĩa
dân tộc chân chính, tinh thần tích cực chủ động, sáng tạo và tự lực tự cường của mọi
người dân Việt Nam để góp phần xây dựng và bảo vệ tổ quốc, bảo vệ nền độc lập dân
tộc. Người Việt Nam vốn có truyền thống yêu nước, tinh thần đoàn kết cộng đồng, ý chí
7
- tự chủ kiên cường, sáng tạo, bất khuất, không chịu làm nô lệ, không cam phận nghèo hèn.
Những phẩm chất tốt đẹp ấy đã được phát huy cao độ trong hai cuộc kháng chiến thần
thánh của dân tộc, đưa đến thắng lợi vĩ đại Điện Biên và Đại thắng mùa xuân 1975, giải
phóng MN thống nhất đất nước, đưa cả nước quá độ lên CNXH. Ngày nay, truyền thống
quí báu ấy, chủ nghĩa dân tộc chân chính cần được tiếp tục khơi dậy mạnh mẽ, biến nó
thành một nguồn nội lực đưa đất nước vượt qua mọi khó khăn thách thức, vững bước
tiến lên cùng bè bạn khắp năm châu.
Minh Châu
Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc trong cách mạng
Việt Nam
GÓP PHẦN TÌM HIỂU TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ VẤN ĐỀ DÂN TỘC
TRONG CÁCH MẠNG VIỆT NAM
NGÔ QUANG ĐỊNH (*)
Sau khi tìm ra con đường cứu nước, giải phóng dân tộc cho nhân dân ta, Hồ Chí Minh
đã xúc tiến thành lập một chính Đảng cách mạng chân chính ở Việt Nam và Người đã
cùng Trung ương Đảng ta trực tiếp lãnh đạo cách mạng, đưa sự nghiệp đấu tranh cách
mạng của nhân dân Việt Nam vượt qua mọi gian khổ, khó khăn, đi từ thắng lợi này đến
thắng lợi khác.
Cả cuộc đời của Hồ Chí Minh đã dành trọn cho nhân dân, cho đất nước, cho sự
nghiệp đấu tranh giải phóng con người, giải phóng nhân loại cần lao, thoát khỏi mọi áp
bức, bất công, vươn tới cuộc sống ấm no, tự do và hạnh phúc. Cũng chính vì vậy mà vần
đề dân tộc và giải quyết vấn đề dân tộc trong cách mạng Việt Nam đã được Người quan
tâm, nung nấu suốt cả đời. Đề cập đến tư tưởng của Người về vấn đề nêu trên, chúng
tôi xin trình bày khái quát một số quan điểm lớn sau đây:
Thứ nhất, giải quyết vấn đề dân tộc ở Việt Nam - một nước thuộc địa nửa phong
kiến, trước hết phải tiến hành cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, đánh đuổi quân xâm
lược, đánh đổ bọn tay sai, giành độc lập cho dân tộc, tự do cho nhân dân, hoà bình và
thống nhất đất nước.
Độc lập, tự do, hoà bình và thống nhất đất nước là khát vọng cháy bỏng của người
dân mất nước. Bởi, mất nước là mất tất cả. Sống trong cảnh nước mất, nhà tan, mọi
quyền lực nằm trong tay quân xâm lược và bọn tay sai thì quyền sống của con người
cũng bị đe doạ chứ nói gì đến quyền bình đẳng, tự do, dân chủ của mọi người. Nếu có,
đó chỉ là thứ tự do cướp bóc, bắt bớ, giết hại và tù đày của quân xâm lược và bọn tay sai.
Chính vì vậy mà “Không có gì quý hơn độc lập tự do”, một trong những tư tưởng lớn của
Hồ Chí Minh trong cách mạng Việt Nam đã trở thành chân lý của dân tộc Việt Nam và
của cả nhân loại có lương tri.
Độc lập cho dân tộc, tự do cho nhân dân – tư tưởng đó của Hồ Chí Minh đã trở thành
mục tiêu hàng đầu của cách mạng Việt Nam. Tư tưởng đó được quán triệt trong toàn bộ
tiến trình cách mạng Việt Nam và nó được thể hiện nổi bật trong các thời điểm có tính
bước ngoặt lịch sử.
8
- Khi trả lời câu hỏi của nữ đồng chí Rôdơ, thư ký Đại hội lần thứ 18 của Đảng Xã
hội Pháp, họp ngày 29 tháng 12 năm 1920: Tại sao đồng chí lại bỏ phiếu cho Quốc tế III?
Hồ Chí Minh trả lời: “Rất giản đơn. Tôi không hiểu chị nói thế nào là chiến lược, chiến
thuật vô sản và nhiều điểm khác. Nhưng tôi hiểu rõ một điều: Quốc tế III rất chú ý đến
vấn đề thuộc địa… Tự do cho đồng bào tôi, độc lập cho Tổ quốc tôi, đấy là tất cả những
điều tôi muốn, đấy là tất cả những điều tôi hiểu.” (1)
Cũng ngay tại nước Pháp, giữa năm 1922, sau khi làm việc với Bộ trưởng Bộ Thuộc
địa Pháp Anbe Xarô, Hồ Chí Minh đã nói thẳng với ông ta mong muốn của mình và của
nhân dân Việt Nam rằng: “Cái mà tôi cần nhất trên đời là: Đồng bào tôi được tự do, Tổ
quốc tôi được độc lập…” (2)
Năm 1945, đứng trước thời cơ mới của cách mạng nước ta, khi nói chuyện với đồng
chí Võ Nguyên Giáp, Hồ Chí Minh khẳng định: “Lúc này thời cơ thuận lợi đã tới, dù phải
đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải cương quyết giành cho được độc lập.” (3)
Năm 1966, khi đế quốc Mỹ mở rộng chiến tranh phá hoại miền Bắc bằng không quân
và hải quân, Hồ Chí Minh kêu gọi: “Chiến tranh có thể kéo dài 5 năm, 10 năm, 20 năm
hoặc lâu hơn nữa. Hà Nội, Hải Phòng và một số thành phố, xí nghiệp có thể bị tàn phá,
song nhân dân Việt Nam quyết không sợ! Không có gì quý hơn độc lập tự do.” (4)
Hồ Chí Minh coi mục tiêu đấu tranh vì độc lập của Tổ quốc, tự do của đồng bào là lẽ
sống của mình. Quyền độc lập dân tộc không tách rời quyền con người và độc lập là
điều kiện tiên quyết để mang lại hạnh phúc cho mọi người dân của đất nước mình.
Đồng thời, độc lập dân tộc còn là điều kiện để dân tộc Việt Nam được quyền sống bình
đẳng với các dân tộc khác trên thế giới và các dân tộc trong nước ta được chung sống bên
nhau một cách bình đẳng, hoà thuận và cùng nhau đi tới cuộc sống ấm no, tự do, hạnh
phúc.
Thứ hai, sau khi giành được độc lập dân tộc phải đưa đất nước tiến lên xây dựng
chủ nghĩa xã hội, nhằm giải phóng con người, giải phóng xã hội, xoá bỏ nghèo nàn và lạc
hậu, vươn tới cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc cho mọi người, mọi dân tộc.
Giải quyết vấn đề dân tộc trong cách mạng Việt Nam nếu chỉ dừng lại ở cuộc đấu
tranh để giành độc lập cho dân tộc, tự do cho nhân dân thì sự nghiệp cách mạng đó mới
chỉ đi được một chặng đường ngắn mà thôi. Bởi có độc lập, có tự do mà nhân dân vẫn
đói khổ, thì nền độc lập tự do ấy cũng chẳng có ý nghĩa gì.
Hồ Chí Minh đã thấu hiểu cảnh sống nô lệ, lầm than, đói rét và tủi nhục của nhân dân
các dân tộc Việt Nam trong thời thực dân, phong kiến. Bởi vậy, một trong những nhiệm
vụ quan trọng có ý nghĩa quyết định của sự nghiệp giải phóng xã hội, giải phóng con
người, theo Hồ Chí Minh là phải xoá bỏ nghèo nàn và lạc hậu, vươn tới xây dựng cuộc
sống ấm no, tự do và hạnh phúc thật sự cho tất cả mọi người.
Đó là ước nguyện, là ham muốn tột bậc của Hồ Chí Minh và là ước nguyện mong
mỏi bao đời nay của nhân dân các dân tộc Việt Nam. Người nói: “Tôi chỉ có một sự ham
muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn
tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành.” (5)
Thực hiện được ước nguyện đó, theo Hồ Chí Minh chính là nhằm giải quyết một
cách triệt để và thiết thực vấn đề dân tộc ở một nước thuộc địa nửa phong kiến.
Thế nhưng đi về đâu và xây dựng một xã hội như thế nào để thực hiện được ước
nguyện đó nhân dân các dân tộc Việt Nam cũng như cho cả nhân loại bị áp bức, bóc lột?
9
- Đó là điều trăn trở, ưu tư không chỉ ở Hồ Chí Minh mà ở tất cả những người có lương
tri, trọng đạo lý, trọng nghĩa tình khác. Sự bắt gặp và điểm tương đồng trong tư duy giữa
Hồ Chí Minh với những người sáng lập ra học thuyết cách mạng và khoa học của thời
đại cũng chính là ở chỗ đó.
Chứng kiến cảnh sống lầm than, khổ cực, bị bóc lột tới thậm tệ của giai cấp công
nhân và nhân dân lao động ở thuộc địa và chính quốc, chứng kiến cảnh sống trái ngang
của bọn tư sản, thực dân giàu có và gian ác, nên con đường giải phóng xã hội, giải phóng
con người mà cả Hồ Chí Minh và C. Mác, Ph. Ăngghen, V. I. Lênin đều khẳng định là
phải tiến lên chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản, chứ không phải là đi theo con
đường tư bản chủ nghĩa, càng không phải là quay trở lại chế độ phong kiến.
Đối với Việt Nam, Hồ Chí Minh khẳng định trước sau như một, là chỉ có chủ nghĩa xã
hội mới có đủ cơ sở và điều kiện để thực hiện công cuộc giải phóng con người một cách
triệt để và thiết thực. Tức là thực hiện được đầy đủ các quyền của con người, trong đó
có quyền sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc của tất cả mọi người.
Cũng chính vì vậy mà con đường đi lên chủ nghĩa xã hội và độc lập phải gắn liền với
chủ nghĩa xã hội trở thành nội dung cốt lõi trong tư tưởng Hồ Chí Minh, và là mục tiêu
chiến lược trong sự nghiệp cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam suốt hai phần ba
thế kỷ và mãi mãi về sau.
Xuất phát từ hoàn cảnh của Việt Nam, đi lên chủ nghĩa xã hội từ một nước nông
nghiệp nghèo nàn, hậu quả của bọn thực dân, phong kiến để lại rất nặng nề nên Hồ Chí
Minh cho rằng: “Chủ nghĩa xã hội là làm sao cho nhân dân đủ ăn, đủ mặc, ngày càng sung
sướng, ai nấy được học hành, ốm đau có thuốc, già không lao động thì được nghỉ, những
phong tục tập quán không tốt dần dần được xoá bỏ… tóm lại, xã hội ngày càng tiến, vật
chất ngày càng tăng, tinh thần ngày càng tốt, đó là chủ nghĩa xã hội.” (6)
Thứ ba, phải thực hiện quyền bình đẳng giữa các dân tộc và đoàn kết, giúp đỡ lẫn
nhau cùng tiến bộ trong đại gia đình các dân tộc Việt Nam.
Lịch sử của Việt Nam đã chứng minh trong cộng đồng các dân tộc ở nước ta khồng
hề có dân tộc lớn (dân tộc nhiều người) đi áp bức, bóc lột dân tộc nhỏ (dân tộc ít người),
mà quan hệ giữa các dân tộc với nhau là quan hệ anh em, ruột thịt. Truyền thống quý báu
đó của dân tộc Việt Nam như Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh: “Đồng bào Kinh hay Thổ,
Mường hay Mán, Giarai hay Êđê, Xơđăng hay Bana… đều là con cháu Việt Nam, đều là
anh em ruột thịt. Chúng ta sống chết có nhau, sướng khổ cùng nhau, nó đói giúp nhau.”(7)
Bên cạnh việc lên án thủ đoạn đê hèn của bọn thực dân, phong kiến dùng chính sách
“chia để trị” nhằm chia rẽ các dân tộc Việt Nam và để kìm hãm các dân tộc trong vòng
nghèo nàn và dốt nát, Hồ Chí Minh đã chỉ rõ tính ưu việt của chế độ mới để nhằm giải
quyết đúng đắn vấn đề dân tộc ở Việt Nam: “Chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước
ta là: Các dân tộc đều bình đẳng và phải đoàn kết chặt chẽ, thương yêu giúp đỡ nhau như
anh em. Đồng bào miền xuôi phải ra sức giúp đỡ đồng bào miền ngược cùng tiến bộ về
mọi mặt.” (8)
Hậu quả của chế độ thực dân phong kiến và các thế lực thù địch chống phá cách
mạng để lại ở Việt Nam là rất nặng nề; để khắc phục hậu quả đó nhằm thực hiện
quyền bình đẳng giữa các dân tộc và xây dựng cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho đồng bào
miền xuôi cũng như miền ngược, Hồ Chí Minh luôn coi trọng tình đoàn kết, thương yêu
giúp đỡ lẫn nhau giữa các dân tộc anh em ở trong nước. Bởi, chỉ có trên cơ sở đoàn kết
10
- mới tạo nên sức mạnh to lớn cho cách mạng Việt Nam để thực hiện thắng lợi các mục
tiêu của cách mạng đã đề ra.
Sau khi chủ trì Hội nghị Trung ương lần thức Tám (5 – 1941), nhận thấy cơ hội cứu
nước đang đến gần, Hồ Chí Minh đã gửi thư cho đồng bào cả nước, trong thư Người
viết: “…Hỡi các bậc phú hào yêu nước, thương nòi! Hỡi các bạn công nông, binh, thanh
niên, phụ nữ, công chức, tiểu thương! Trong lúc này quyền lợi dân tộc giải phóng cao
hơn hết thảy. Chúng ta phải đoàn kết lại đánh đổ bọn đế quốc và bọn Việt gian đặng
cứu giống nòi ra khỏi nước sôi lửa bỏng.” (9)
Hồ Chí Minh chẳng những là người quan tâm đến đoàn kết dân tộc, mà chính Người
là hiện thân của sự đoàn kết đó, là người trực tiếp tổ chức khối đại đoàn kết toàn dân,
kiên quyết đấu tranh chống lại mọi biểu hiện gây chia rẽ, hiềm khích, kỳ thị dân tộc để
thực hiện tình đoàn kết trong đại gia đình các dân tộc Việt Nam. Bài học kinh nghiêm về
đoàn kết trong cách mạng Việt Nam được Người tổng kết thành 14 chữ vàng như sau:
“Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết
Thành công, thành công, đại thành công”
Để thực hiện quyền bình đẳng và xây dựng tình đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến
bộ trong đại gia đình các dân tộc Việt Nam, xuất phát từ hoàn cảnh và điều kiện sống
của các dân tộc ở Việt Nam, Hồ Chí Minh đã đặc biệt quan tâm đến đồng bào dân tộc ít
người, sống ở miền núi, vùng sâu và vùng xa của đất nước. Bởi, theo Người so với đồng
bào sống ở miền xuôi, vùng đồng bằng và đô thị, thì đời sống của đồng bào ở miền núi,
xét trên mọi phương diện, còn thấp và gặp rất nhiều khó khăn. Thực tế cho thấy, miền
núi và vùng sâu, vùng xa của đất nước ta, là nơi có điều kiện tự nhiên không thuận lợi,
trình độ sản xuất và văn hoá của nhân dân nơi đây còn rất thấp. Nơi ăn, chốn ở, trường
hợc, cơ sở y tế và giao thông đi lại còn nhiều khó khăn và thiến thốn. Bên cạnh đó, do
trình độ dân trí thấp nên những thủ tục lạc hậu, mê tín, di đoạn còn rất nặng nề.
Hơn nữa, khu vực miền núi nước ta – nơi làm ăn sinh sống chủ yếu của đồng bào các
dân tộc ít người, là nơi giáp biên giới với số nước láng giềng, xa đồng bằng, địa bàn
hiểm trở, dân cư thưa thớt, nhiều vùng vốn là căn cứ địa cách mạng quan trọng của cách
mạng Việt Nam trước đây. Bởi vậy, quan tâm đến đồng bào dân tộc ít người vừa thể
hiện tính nhân văn sâu sắc của Hồ Chí Minh trong chế độ mới, vừa có ý nghĩa kinh tế và
quốc phòng to lớn đối với cả hiện tại và tương lai của đất nước.
Sự quan tâm, giúp đỡ đối với đồng bào các dân tộc ít người theo Hồ Chí Minh, là trách
nhiệm của toàn Đảng và toàn dân, của tất cả các cấp, các ngành, từ Trung ương đến địa
phương, bằng những việc làm cụ thể và thiết thực.
Thứ tư, phải đoàn kết, thương yêu người Việt Nam sống ở nước ngoài và thân thiện
với người nước ngoài sống ở Việt Nam.
Vì nhiều lý do khác nhau, dẫn đến một thực tế của đời sống thế giới, là người dân
của nước này đến cư trú và làm ăn sinh sống ở nước khác và ngược lại. Giải quyết thực
trạng đó ở mỗi quốc gia, dân tộc và mỗi chính đảng, thậm chí với từng nhà lãnh đạo có
những quan điểm và chủ trương chính sách khác nhau.
Đối với người Việt Nam sống xa Tổ quốc, Hồ Chí Minh chủ trương đoàn kết,
thương yêu họ, kêu gọi họ hướng về quê hương đất nước, nơi quê cha, đất tổ của mình,
vì tất cả bà con đều là “con Lạc cháu Hồng” của đất Việt. Đồng thời, Người cũng kêu
gọi và khuyên nhủ bà con phải giữ mối quan hệ thân thiện với nhân dân các nước và thực
11
- hiện tốt luật pháp của họ. Trong những năm chiến tranh và cách mạng, với lòng yêu
nước, thương dân, Hồ Chí Minh đã thu phục được nhiều trí thức tài ba về nước phục vụ
Tổ quốc, phục vụ nhân dân, trong đó có người đã trở thành anh hùng của Việt Nam.
Đối với người nước ngoài sống ở Việt Nam, Hồ Chí Minh luôn thể hiện thái độ ôn
hoà và thân thiện với họ. Trong Lời tuyên bố với quốc dân sau khi đi Pháp về (23 tháng 10
năm 1946), Hồ Chí Minh nêu rõ:
“Người Pháp ở Pháp đối với ta rất thân thiện, thì người Việt ở Việt đối với người
Pháp cũng nên thân thiện. Đối với quân đội Pháp ta phải lịch sự. Đối với kiều dân Pháp ta
phải ôn hoà. Để tỏ cho thế giới biết rằng ta là một dân tộc văn minh. Để cho số người
Pháp ủng hộ ta càng thêm đông, sức ủng hộ càng thêm mạnh. Để cho những kẻ thù khiêu
khích muốn chia rẽ, không có thể và không có cớ mà chia rẽ. Để cho công cuộc thống
nhất và độc lập của chúng ta chóng thành công.” (10)
Đối với người Hoa sống ở Việt Nam, Hồ Chí Minh cũng thể hiện quan điểm trước
sau như một là đoàn kết, thân thiện và bảo vệ tài sản, tính mạng cũng như quyền làm ăn
chính đáng của họ trên đất nước Việt Nam, như công dân Việt Nam. Theo Người, chẳng
phải hôm qua hôm nay người Hoa kiều mới đến Đông Dương. Họ đã ở đây, họ đã luôn
giữ một địa vị rất quan trọng trong đời sống kinh tế của Đông Dương. Nhưng chưa bao
giờ lại có những cuộc xung đột giữa người Việt Nam với người Hoa trên đất nước Việt
Nam.
Trong “Thư gửi anh em Hoa kiều” nhân ngày Độc lập 2 – 9 – 1945, Hồ Chí Minh nêu
rõ: “Hai dân tộc Trung - Việt chúng ta, mấy ngàn năm nay, huyết thống tương thông,
chung nền văn hoá, trong lịch sử vẫn được gọi là hai nước anh em; hơn nữa, đất nước
liền kề, núi sông kế tiếp, càng như môi vớI răng che chở cho nhau. Ngót trăm năm nay, đế
quốc xâm lược Viễn Đông, giặc Pháp cưỡng chiếm nước ta, lấy đó làm bàn đạp xâm
lược Trung Quốc. Hai dân tộc anh em phương Đông chúng ta lại chịu chung nổi khổ cực
bị áp bức và xâm lược.”
Xuất phát từ quan hệ đặc biệt giữa hai dân tộc và hai nước anh em, trong thư, Hồ Chí
Minh đã nhấn mạnh đến chính sách cơ bản của Đảng và Nhà nước ta đối với bà con Hoa
Kiều đang làm ăn, sinh sống ở Việt Nam: “Chính phủ nhân dân lâm thời Việt Nam đã lập
tức tuyên bố xoá bỏ mọi luật pháp của Pháp trước đây áp đặt lên Hoa kiều, xác định
chính sách cơ bản là bảo đảm tự do, hoan nghênh Hoa kiều cùng nhân dân Việt Nam
chung sức xây dựng nước Việt Nam mới.
Mong rằng anh em hai nước chúng ta thân mật đoàn kết, có việc gì thì giải quyết với
nhau theo nguyên tắc hợp pháp lý với thái độ kính trọng nhường nhịn lẫn nhau, không
được vì những việc tranh chấp nhỏ của cá nhân mà gây điều bất hạnh ngăn cách giữa hai
dân tộc…” (11)
Ngoài ra, đối với các dân tộc và quốc gia khác trên thế giới, quan điểm của Hồ Chí
Minh là tôn trọng nền độc lập dân tộc, không can thiệp vào công việc nội bộ của các
quốc gia, dân tộc khác, đồng thời thực hiện quyền bình đẳng giữa các quốc gia, dân tộc
với nhau. Quan điểm đó của Người được khẳng định trong bản Tuyên ngôn Độc lập bất
hủ, ngày 2 – 9 – 1945 rằng: “… tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân
tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do” (12)
Chẳng đường lịch sử hơn 70 năm qua kể từ ngày ra đời đến nay, Đảng Cộng sản Việt
Nam luôn trung thành với những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin và những
12
- quan điểm tư tưởng của Hồ Chí Minh về dân tộc và giải quyết vấn đề dân tộc đề ra
chính sách dân tộc đúng đắn cho cách mạng Việt Nam. Chính sách đó vừa phù hợp với
hoàn cảnh cụ thể của cách mạng Việt Nam, vừa phù hợp với xu thế phát triển tiến bộ
của nhân loại, nên nó đã được cộng đồng 54 dân tộc Việt Nam đón nhận với niềm phấn
khởi và đầy tin tưởng, cũng bởi lẽ đó mà cách mạng Việt Nam có được sức mạnh to lớn
để hoàn thành thắng lợi sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc trước đây cũng như sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa ngày nay.
13
nguon tai.lieu . vn