Xem mẫu
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền con
người
NGUYỄN QUANG HIỀN
Phòng Đào tạo không chính quy trường ĐH Luật TP. HCM
Trong toàn bộ các vấn đề của loài người, quyền con người là
những vấn đề có lịch sử lâu đời về cả phương diện thực tiễn
cũng như lý luận. Đó luôn luôn là mối quan tâm của nhân loại ở
mỗi thời kỳ phát triển của nó. Mỗi thời kỳ phát triển của quyền
con người đều gắn liền và là thành quả của cuộc đấu tranh giai
cấp, cách mạng, xã hội, phản ảnh quá trình nhân loại tự giải
phóng mình. Do vậy hiển nhiên những vấn đề đó bao giờ cũng
là điểm nóng của cuộc đấu tranh giai cấp, đặc biệt thể hiện trên
bình diện đấu tranh tư tưởng. Đứng ở phương diện lợi ích giai
cấp giữ địa vị thống trị xã hội, các giai cấp cầm quyền luôn luôn
coi con người, quyền và lợi ích của họ là trong tầm chiến lược
và sách lược nhằm ổn định và phát triển xã hội mà nó đại biểu.
Đương nhiên do những giới hạn lịch sử khách quan, mỗi giai
cấp thống trị ở mỗi thời kỳ lịch sử chỉ có thể đáp ứng và đảm
bảo quyền con người ở một mức độ, một nấc thang nhất định.
- Sự phát triển của lịch sử đã biện minh cho sức mạnh vô định của
nhu cầu về quyền và tự do của con người. Quyền với tính cách
là một nhu cầu độc lập đã tạo ra động lực mạnh mẽ trong hoạt
động của con người, đặc biệt được thể hiện trong lịnh vực chống
áp bức, xây dựng một xã hội công bằng và tự do hơn.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề cập tới quyền con người rất sớm,
người đã đặt nền móng lý luận và thực tiễn bằng việc khẳng
định quyền con người gắn liền với quyền dân tộc, với độc lập
chủ quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ. Người đã chỉ ra rằng
quyền con người chỉ có thể có được bằng con đường đấu tranh
cách mạng chống áp bức, bóc lột của chủ nghĩa thực dân, giành
độc lập dân tộc và đoàn kết toàn dân xây dựng và bảo vệ tổ
quốc. Chỉ có như vậy thì các quyền cá nhân và quyền dân tộc
mới được bảo đảm bền vững.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền con người bắt nguồn sâu xa từ
lịch sử dân tộc, kế thừa có chọn lọc những tư tưởng nhân quyền
tiến bộ của các nước phương Đông cũng như các nước phương
- Tây. Đặc biệt là vận dụng có sáng tạo tư tưởng giải phóng con
người và xã hội của Chủ nghĩa Mác-Lênin.
Dân tộc Việt Nam đã có lịch sử lâu dài về dựng nước và giữ
nước từ đó đã hình thành nên những truyền thống cao quý với
những bản sắc văn hóa của riêng mình.
Quy luật lịch sử lớn nhất của dân tộc Việt Nam là xây dựng đất
nước gắn liền với bảo vệ tổ quốc. Độc lập dân tộc là tiền đề cho
sự phát triển đất nước và quyền con người. Tư tưởng nhân
quyền của Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng bắt nguồn từ những
truyền thống của dân tộc và được nâng cao khi tiếp nhận Chủ
nghĩa Mác-Lênin. Bên cạnh đó Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng
nghiên cứu và đánh giá cao thành tựu quyền con người của Cách
mạng tư sản Mỹ và Cách mạng tư sản Pháp, điều này đã được
thể hiện trong Tuyên ngôn độc lập do người soạn thảo và công
bố ngày 2/9/1945 khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Hồ Chí
Minh đã khẳng định một chân lý lớn của thời đại mới trong thế
kỷ XX đó là: “Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình
- đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và
quyền tự do”. Đây là một khái quát mới mà Hồ Chí Minh, chính
Người thừa nhận, suy rộng ra từ câu mở đầu bất hủ của Tuyên
ngôn độc lập Hoa Kỳ năm 1776: “Tất cả mọi người đều sinh ra
bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm
phạm được, trong những quyền ấy có quyền được sống, quyền
được tự do và quyền được mưu cầu hạnh phúc”.
Là một nhà Mác xít-Lênin nít, Hồ Chí Minh đã thấu hiểu và vận
dụng sáng tạo những tư tưởng nhân quyền mang tính khoa học
và cách mạng nhân loại. Học thuyết Mác-Lênin cho rằng, các
quyền con người chỉ có được bằng con đường đấu tranh giải
phóng dân tộc và cải tạo xã hội. Hầu hết các phạm trù “dân
chủ”, “tự do”, “bình đẳng” dưới chế độ Tư bản chủ nghĩa đều bị
hạn chế bởi tình trạng bất bình đẳng về kinh tế. Mác cho rằng:
bình đẳng là một sản phẩm lịch sử, không có quyền bình đẳng
trừu tượng, muốn có bình đẳng thực sự, thì việc xóa bỏ đặc
quyền giai cấp là chưa đủ mà phải xóa bỏ bản thân giai cấp -
nguồn gốc sinh ra mọi sự bất bình đẳng. Và chỉ có một xã hội,
trong đó sự phát triển tự do của mỗi con người là điều kiện cho
- sự tự do của tất cả mỗi người - nói cách khác là trong xã hội
cộng sản, thì các quyền con người mới thật sự được đảm bảo,
con người mới được giải phóng hoàn toàn. Điều đó không có
nghĩa phủ nhận những giá trị nhân quyền hiện đại mà là một sự
nhắc nhở những vấn đề có tính nguyên tắc trong việc đảm bảo
và thúc đẩy nhân quyền. Quyền con người không thể thoát ly
tính lịch sử và tính giai cấp.
Ở nước ta Chủ tịch Hồ Chí Minh là người đầu tiên đề cập tới
khái niệm nhân quyền và dùng khái niệm nhân quyền trong các
lập luận đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân, bảo vệ và bênh
vực nhân quyền của các dân tộc thuộc địa. Trong quá trình hoạt
động cách mạng, Người đã sớm giành lại ngọn cờ dân chủ nhân
quyền từ trong tay chủ nghĩa thực dân, xem những quyền đó là
lý tưởng, là bản chất của nhà nước ta. Một điểm nổi bật khác là
Chủ tịch Hồ Chí Minh đề cập tới quyền con người từ truyền
thống dân tộc từ đặc điểm của thời đại và con người hiện thực.
Tuyên ngôn độc lập ngày 2/9/1945 đã đánh dấu một kỷ nguyên
mới của dân tộc Việt Nam - kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền
- với chủ nghĩa xã hội. Trên phương diện lịch sử tư tưởng nhân
loại, bản Tuyên ngôn độc lập đã kế thừa và phát triển lên một
tầm cao mới những tư tưởng nhân quyền của nhân loại, đặc biệt
là tư tưởng nhân quyền của cuộc cách mạng dân chủ tư sản của
Mỹ và cách mạng dân chủ tư sản Pháp đồng thời là sự vận dụng
sáng tạo Chủ nghĩa Mác-Lênin, nhất là tư tưởng của Lênin về
quyền tự quyết dân tộc. Việc tiếp thu những điểm văn minh, tiến
bộ của các nước trên thế giới chứng tỏ rằng Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã không xa lạ và không đọan tuyệt với những thành tựu
tư duy văn minh tiến bộ của nhân loại, nhưng có sự phát triển
sáng tạo của các tư duy đó. Cụ thể được thể hiện trong bản tuyên
ngôn độc lập đó là :
- Từ những quyền cơ bản của con người được mở rộng thành
quyền dân tộc, quyền con người trừu tượng thành quyền của
người dân được sống trong độc lập, tự do.
- Từ quyền dân tộc độc lập, quyền phân lập của dân tộc được
khái quát thành quyền độc lập của các dân tộc.
- - Dựa trên cơ sở pháp lý về quyền “tự nhiên” đến chỗ khẳng
định quyền đấu tranh “chống áp bức” của các dân tộc thuộc địa.
Tuyên ngôn có đoạn “dân ta đã đánh đổ các xiềng xích thực dân
gần 100 năm nay để gây dựng nên nước Việt Nam độc lập. Dân
ta lại đánh đổ chế độ quân chủ mấy mươi thế kỷ mà lập nên chế
độ dân chủ cộng hòa”.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, bản chất của Chủ nghĩa xã hội là
nhân đạo, là tôn trọng và bảo vệ các quyền con người - cốt lõi
của tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền cá nhân gắn liền với quyền
dân tộc tự quyết với độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia, toàn
vẹn lãnh thổ và quyền làm chủ xã hội của nhân dân lao động.
Việc khẳng định quyền độc lập dân tộc với quyền độc lập tự
quyết, quyền cơ bản của con người, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
góp phần to lớn trong việc xây dựng nền tảng tư duy triết học và
tư duy pháp lý hiện đại. Đối với Hồ Chí Minh, quyền sống
không chỉ là quyền được tồn tại, mà còn là quyền làm người.
Trong tác phẩm Đường công lý của chủ nghĩa thực dân Pháp ở
Đông Dương, Người viết “chưa có bao giờ ở một thời đại nào, ở
một nước nào, người ta bị vi phạm mọi quyền làm người một
- cách độc ác và trở tráo đến thế”. Như vậy theo Người quyền con
người không chỉ là cái vốn có, cái cần có mà còn là cái cần phải
giành lấy bằng đấu tranh để được làm người. Bởi vì, con người
không chỉ có ăn, mặc, đi lại, tự do… mà còn đòi hỏi những giá
trị khác đó là quyền được sống trong danh dự.
Ngay sau khi đất nước được độc lập, trong phiên họp đầu tiên
của Chính phủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề cập tới các chính
sách kinh tế, xã hội cấp bách như chống “giặc đói”, “giặc dốt”.
Lý tưởng của Người là vì hạnh phúc của nhân dân. Người viết:
“Tôi chỉ có một ham muốn, ham muốn tộc bực, là làm sao cho
nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do,
đồng bào ta ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”.
Kế thừa truyền thống nhân nghĩa của dân tộc, Chủ tịch Hồ Chí
Minh chủ trương thi hành một chính sách nhân quyền, khoan
dung đối với tù binh, những người lầm đường lạc lối. Ngay từ
năm 1946 tức là trước cả bản tuyên ngôn thế giới về nhân quyền
ra đời (1948) - phù hợp với luật nhân đạo và luật quốc tế về
quyền con người, trong quốc lệnh của Chủ tịch Chính phủ Việt
Nam do Hồ Chí Minh ký, Điều 7 ghi “vô cơ sát hại kiều dân
- ngoại quốc sẽ bị xử tử”. Trong Báo cáo chính trị tại Đại hội Đại
biểu toàn quốc lần thứ II do Người trình bày có đoạn: “Tính
mệnh và tài sản của kiều dân nước ngoài tuân theo pháp luật
Việt Nam, phải được bảo hộ”. Đây chính là tiền đề cho những
quy định về quyền dân sự của người nước ngoài trong Hiến
pháp và pháp luật Việt Nam. Như vậy là ngay cả trong điều kiện
chiến tranh ác liệt, quyền dân sự của ngoại kiều vẫn được ghi
nhận - tư duy pháp lý về quyền con người của Chủ tịch Hồ Chí
Minh chẳng những luôn phù hợp, không bị gián đoạn, trái lại
luôn luôn kế thừa truyền thống khoan dung nhân đạo cao cả của
dân tộc trong việc xử lý đối với người nước ngoài.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sớm đề ra chính sách đối ngoại, hòa
bình, hữu nghị và sẵn sàng hợp tác với các quốc gia, dân tộc
không phân biệt chế độ chính trị, tư tưởng này của Người đến
nay vẫn còn nguyên giá trị. Trong tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí
Minh “tự do” cùng với khái niệm “bình đẳng” và “bác ái” đã
làm hấp dẫn Người ngay từ khi còn học ở trường Quốc học Huế
và đó cũng chính là một trong những nguyên nhân khiến Người
ra đi tìm đường cứu nước. Trong Hiếp pháp năm 1946 do Chủ
- tịch Hồ Chí Minh trực tiếp soạn thảo đã ghi nhận: “Công dân
Việt Nam có quyền tự do ngôn luận, tự do xuất bản, tự do tổ
chức và hội họp, tự do tín ngưỡng, tự do cư trú, đi lại trong nước
và ngoài nước…”. Tuy nhiên, với Chủ tịch Hồ Chí Minh, tự do
một mặt ghi nhận về mặt pháp lý năng lực của con người, mặt
khác tự do bao giờ cũng có những nội dung xác định. Với
Người, quyền tự do thường gắn liền với quyền dân chủ, quyền
cá nhân đi đôi với trách nhiệm và nghĩa vụ xã hội của họ. Tự do
của mỗi người gắn liền với độc lập, tự do của tổ quốc, câu nói
vẫn luôn còn vang vọng của Người “Không có gì quý hơn độc
lập, tự do” tư tưởng đó đã trở thành một chân lý của mỗi thời
đại.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sớm nhận thấy các quyền con người
phải được bảo vệ và phải được ghi nhận bằng pháp luật. Chỉ sau
một ngày khi đọc Tuyên ngôn độc lập, ngay hôm sau (ngày 3
tháng 9 năm 1945) trong phiên họp đầu tiên của chính phủ lâm
thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xem việc tổng tuyển cử, xây
dựng Hiến pháp là một trong sáu nhiệm vụ cấp bách. Cốt lõi
quan niệm dân chủ của Chủ tịch Hồ Chí Minh là xác định mối
- quan hệ giữa nhân dân với toàn bộ các cơ quan thuộc hệ thống
chính trị, bao gồm Đảng, Nhà nước, các tổ chức Đoàn thể, trong
đó nhân dân lao động là người làm chủ xã hội.
Nét nổi bật trong tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền tự do tôn giáo
tín ngưỡng, quyền bình đẳng của các dân tộc là ở chỗ: Người
không dừng lại ở việc ghi nhận những quyền đó mà còn phát
huy những mặt tích cực của tôn giáo - đó là tính hướng thiện, là
mưu cầu hạnh phúc cho loài người. Quyền tự do tôn giáo và
quyền bình đẳng dân tộc phải nhằm phục vụ cho việc xây dựng
khối đại đoàn kết toàn dân.
Về quyền trẻ em và phụ nữ đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc
biệt coi trọng. Tư tưởng đó của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trở
thành một nét đẹp trong truyền thống văn hóa của dân tộc, đồng
thời đã làm cho Việt Nam trở thành một quốc gia đi đầu trong
việc thực hiện công ước về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt với
phụ nữ (1979) và công ước về quyền trẻ em (1989).
Từ những tư tưởng của Người mà hệ thống chính trị xã hội cùng
Hiến pháp, pháp luật và các chủ trương, chính sách của Đảng và
- Nhà nước là cơ chế chung quản lý xã hội, đồng thời đó cũng là
cơ chế bảo đảm quyền con người ở Việt Nam. Đây là một di sản
của Chủ tịch Hồ Chí Minh về cơ chế đảm bảo quyền con người.
Tất cả quyền lực Nhà nước và xã hội đều thuộc về nhân dân, đây
là tư tưởng lớn nhất và nhất quán của Người trong việc đảm bảo
quyền con người. Sự lãnh đạo của Đảng, vai trò quản lý của Nhà
nước là nhằm bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân một trong
những quyền cơ bản của quyền con người. Với Chủ tịch Hồ Chí
Minh, đảm bảo quyền làm chủ của nhân dân, bảo đảm các quyền
con người là động lực quan trọng của sự phát triển xã hội. Bảo
đảm quyền con người không chỉ là trách nhiệm của Nhà nước,
của các cơ quan tư pháp mà còn là trách nhiệm của tất cả các tổ
chức hợp thành hệ thống chính trị. Đồng thời, mọi người dân
cần phải biết sử dụng những tổ chức đó để tự bảo vệ các quyền
của mình. Đây là nét đặc sắc, khác biệt của cơ chế bảo đảm
quyền con người ở Việt Nam so với các quốc gia khác.
Trong thư gửi đồng bào liên khu IV, Người viết: “Nước ta là
một nước dân chủ. Mọi công việc đều vì lợi ích của dân mà làm
công đoàn, hội nông dân cứu quốc, phụ nữ cứu quốc v.v…
- những đoàn thể ấy là tổ chức của dân, phấn đấu cho dân, bệnh
vực quyền của dân, liên lạc mật thiết nhân dân với Chính phủ.
Khi ai có điều gì oan ức, thì có thể do các đoàn thể tố cáo lên
cấp trên. Đó là quyền dân chủ của tất cả công dân Việt Nam.
Đồng bào cần hiểu rõ và khéo dùng quyền ấy”.
Tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về bảo vệ quyền con người,
đó là chỉnh đốn Đảng, chỉnh đốn hàng ngũ cán bộ trong bộ máy
nhà nước, chống quan liêu, tham nhũng, thoái hóa biến chất của
hàng ngũ cán bộ Đảng và Nhà nước. Người cho rằng: “Thắng
lợi của Chủ nghĩa xã hội không thể tách rời với thắng lợi của
cuộc đấu tranh trừ bỏ chủ nghĩa cá nhân”. Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã sớm nhận thức nguy cơ này và xem cuộc đấu tranh
chống thoái hóa trong hệ thống chính trị, duy trì mối quan hệ
mật thiết giữa nhân dân với Đảng và Nhà nước chẳng những là
những điều kiện cơ bản nhất bảo đảm quyền con người mà còn
là điều kiện để duy trì chế độ xã hội chủ nghĩa.
Tóm lại: tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền con người hết sức
phong phú và sâu sắc. Đó là sự kế thừa truyền thống nhân ái và
- dân chủ của dân tộc ta, là sự tiếp thu những tư tưởng về quyền
con người tiến bộ của các nước phương Đông và các nước
phương Tây. Đặc biệt tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền con
người là sự vận dụng và phát triển một cách có sáng tạo tư
tưởng của Các Mác, Ph Ănghen và V.I Lênin về sự nghiệp giải
phóng triệt để đối với giai cấp công nhân, nhân dân lao động,
các dân tộc bị áp bức và mọi sự tha hóa đối với con người. Bởi
vậy có thể nói tư tưởng đó là một trong những tư tưởng tiên tiến
nhất của thời đại và tư tưởng đó vẫn còn nguyên giá trị đối với
dân tộc ta và cả nhân loại.
nguon tai.lieu . vn