Xem mẫu

Tư tưởng Hồ Chí Minh . . .

TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA ĐẢNG
VỚI NHÂN DÂN VÀ Ý NGHĨA CỦA TƯ TƯỞNG ĐÓ ĐỐI VỚI
CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
Vũ Thị Thu Huyền*

TÓM TẮT

Là người sáng lập và rèn luyện Đảng ta, Hồ Chí Minh luôn luôn quan tâm đến vấn đề xây
dựng mối quan hệ giữa Đảng với quần chúng nhân dân. Người đã chỉ rõ: Không có quần chúng thì
không có lực lượng. Không có Đảng thì không có người lãnh đạo, hướng dẫn, chỉ đường. Vì vậy,
phải củng cố mối quan hệ giữa Đảng với quần chúng nhân dân. Trong công cuộc đổi mới đất nước
với thuận lợi và khó khăn đang đặt ra hiện nay thì việc phát huy mối quan hệ giữa Đảng với quần
chúng nhân dân trên cơ sở tư tưởng Hồ Chí Minh càng có ý nghĩa lớn lao.
Từ khóa: Mối quan hệ giữa Đảng với quần chúng nhân dân

HO CHI MINH’S IDEOLOGY ON THE COMMUNIST PARTY AND THE
MASSES’ RELATIONSHIP AND ITS SIGNIFICANCE TO THE COUNTRY
INNOVATION TASK IN VIETNAM NOWADAYS
ABSTRACT
Being the founder and the trainer of the Communist Party, Ho Chi Minh was always
interested in constructing the relationship between the Party and the masses. He pointed out: without
the masses, the force would not exist. Without the Communist Party, there would be no leader, no
guide. Therefore, it is a must to consolidate the relationship between the Party and the masses. In
the country innovation task with the favorable and difficulties, promoting the Party and the masses’
relationship, which is based on Ho Chi Minh’s ideology, becomes more and more significant.
Keywords: The communist party and the masses’ relationship

1. Đặt vấn đề
Sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn
khẳng định việc liên hệ, gắn bó mật thiết giữa
Đảng với quần chúng nhân dân là nguồn gốc
chủ yếu để tạo nên sức mạnh, là một trong
những nguyên nhân giữ vững vai trò lãnh
đạo của Đảng và làm nên những thắng lợi
của cách mạng Việt Nam. Người đã từng dạy
rằng: “Dân chúng đồng lòng, việc gì cũng làm
*

được. Dân chúng không ủng hộ, việc gì làm
cũng không nên” [5. tr. 293]. Cho nên “Giữ
chặt mối liên hệ với dân chúng và luôn luôn
lắng tai nghe ý kiến của dân chúng, đó là nền
tảng lực lượng của Đảng và nhờ đó mà Đảng
ta thắng lợi.” [5, tr. 286] Thực tiễn cách mạng
Việt Nam 82 năm qua cũng đã chứng minh
điều đó. Không có sức mạnh của “Ý Đảng,
lòng dân” chúng ta không thể có được Cách

GV. Trường Cao đẳng Công nghệ Thủ Đức, thành phố Hồ Chí Minh

55

Taïp chí Kinh teá - Kyõ thuaät

mạng Tháng 8/1945 thành công, đại thắng
Mùa xuân 1975 và ngày hôm nay chúng ta
vững vàng trên con đường xây dựng CNXH.
Ngày nay trong công cuộc đổi mới, mối
quan hệ máu thịt giữa Đảng với quần chúng
nhân dân trong sự nghiệp đấu tranh cách mạng
vẫn được Đảng và nhân dân ta tiếp tục củng cố
và phát huy trên hành trình hướng tới tương
lai. Gần 30 năm đổi mới, dưới ánh sáng của
tư tưởng Hồ Chí Minh, của Đảng, nhân dân
ta đã làm nên một đất nước Việt Nam ngày
càng có vị thế trên trường quốc tế. Tuy nhiên,
tác động của nền kinh tế thị trường cùng với
những diễn biến khó lường, phức tạp trên thế
giới, sự chống phá quyết liệt của các thế lực
thù địch bên ngoài đối với cách mạng nước
ta và đặc biệt là tình trạng suy thoái đạo đức,
quan liêu mệnh lệnh, xa rời quần chúng…
của bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên đã
khiến họ trượt dài trên con đường xa rời quần
chúng, phản bội lại lợi ích của dân, của Đảng.
Tất cả điều đó là nguyên nhân làm giảm sự
gắn bó của nhân dân đối với Đảng và Nhà
nước, tạo điều kiện thuận lợi cho chủ nghĩa đế
quốc và các thế lực thù địch thực hiện “diễn
biến hòa bình” chống phá cách mạng nước ta.
Trong điều kiện ấy, trở lại với tư tưởng
Hồ Chí Minh, nghiên cứu để hiểu biết, nắm
vững và vận dụng đúng đắn tư tưởng của
Người về mối quan hệ giữa Đảng với quần
chúng nhân dân là điều hết sức cần thiết, vừa
nhằm phát huy hơn nữa sức mạnh của Đảng
với nhân dân, vừa góp phần làm tránh được
những nguy cơ trong Đảng.
2. Nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về
mối quan hệ giữa Đảng và quần chúng
nhân dân
Với tính cách là một hình thái ý thức xã
hội, sự hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về
mối quan hệ giữa Đảng với quần chúng nhân

dân không phải là hiện tượng ngẫu nhiên mà
là sự phản ánh nhu cầu của cách mạng Việt
Nam. Những biến động của thế giới và xã hội
Việt Nam cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX
cùng với việc kế thừa, phát triển những giá trị
truyền thống dân tộc, sự dung hợp những tinh
hoa văn hóa nhân loại, kết hợp nhuần nhuyễn,
sáng tạo quan điểm của chủ nghĩa Mác –
Lênin về vai trò của quần chúng nhân dân, cá
nhân trong lịch sử, về mối quan hệ giữa Đảng
với nhân dân lao động trong cách mạng xã hội
chủ nghĩa chính là điều kiện lịch sử xã hội và
tiền đề lý luận quan trọng cho sự hình thành
tư tưởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa
Đảng với quần chúng nhân dân.
Chính những giá trị tư tưởng được chắt
lọc, đã là yếu tố ảnh hưởng trực tiếp tới nhận
thức và hành động của Hồ Chí Minh nói
chung và cách nhìn nhận của Người về quần
chúng nhân dân, về Đảng và mối quan hệ giữa
Đảng với quần chúng nhân dân nói riêng.
Với Hồ Chí Minh, nhân dân là gốc của
nước, là cội nguồn của cách mạng; cách mạng
là sự nghiệp của nhân dân; dân là chủ, mọi
quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân. Nhờ
đó, nhân dân trong tư tưởng Hồ Chí Minh giữ
một vai trò to lớn trong mọi công cuộc cách
mạng Việt Nam.
Xuất phát từ nhân dân, vì nhân dân, Hồ
Chí Minh đã đến với cách mạng Tháng Mười
Nga, đến với chủ nghĩa Mác – Lênin, Người
đã vận dụng nhuần nhuyễn và sáng tạo quan
điểm về Đảng của học thuyết mác – xít để dẫn
đến sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Và, từ đó hình thành mối quan hệ máu thịt
giữa Đảng với quần chúng nhân dân như một
điều tất yếu.
Mối quan hệ giữa Đảng với quần chúng
nhân dân là một tất yếu khách quan, là sự
thống nhất và tác động qua lại biện chứng của
56

Tư tưởng Hồ Chí Minh . . .

hai thực thể Đảng và quần chúng nhân dân.
Trong mối quan hệ này thì Đảng là một thực
thể chính trị, quần chúng nhân dân là một thực
thể xã hội, không đồng nhất. Giữa hai thực thể
đó vừa có sự thống nhất, vừa có sự tác động
qua lại lẫn nhau.
2.1. Sự thống nhất của mối quan hệ
giữa Đảng với quần chúng nhân dân được
thể hiện:
Thứ nhất, mục tiêu của Đảng và của dân
tộc, của nhân dân ta là thống nhất. Sự gắn bó
giữa Đảng với quần chúng nhân dân có cơ sở
sâu xa ở sự thống nhất về mục tiêu. Đó là độc
lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Khát khao ngàn đời của dân tộc ta là độc
lập dân tộc và chỉ thực hiện được độc lập dân
tộc thì mới có điều kiện để thực hiện ấm no,
hạnh phúc và công bằng. Trải qua hàng ngàn
năm bị xâm lược, đô hộ, thống trị của bọn
phong kiến, đế quốc ngoại bang, khát vọng
của dân tộc ta là độc lập, là thoát khỏi cảnh
nô lệ của kẻ thù ngoài nước. Nhưng, chỉ đến
khi có Đảng Cộng sản lãnh đạo thì khát vọng
độc lập của dân tộc mới thực hiện được. Với
sự dẫn đường và tiên phong của Đảng, nhiệm
vụ giải phóng dân tộc do nhân dân tiến hành
đã hoàn toàn thắng lợi. Trên con đường đi đó,
lý tưởng về một đất nước hoà bình, độc lập, tự
do, hạnh phúc, dân chủ, công bằng, văn minh
đã trở thành mục tiêu chung mà Đảng và nhân
dân cùng phấn đấu thực hiện.
Nhận thức được sức mạnh to lớn và vai
trò của nhân dân, ngay từ khi mới ra đời,
Đảng đã không ngừng đấu tranh cho nền độc
lập, tự do, hạnh phúc của nhân dân. Toàn bộ
nghị lực của Đảng, toàn bộ sự phấn đấu, hy
sinh của các thế hệ đảng viên đều hướng vào
mục tiêu giải phóng dân tộc, giải phóng nhân
dân, giành độc lập, tự do, hạnh phúc cho nhân
dân. Trong những khúc quanh co của lịch sử,

Đảng ta luôn thể hiện bản lĩnh chính trị vững
vàng, trách nhiệm to lớn đối với nhân dân, đối
với vận mệnh của dân tộc. Trong công cuộc
xây dựng đất nước, Đảng không ngừng chăm
lo đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân,
phát huy vai trò làm chủ của nhân dân trong
khối đại đoàn kết dân tộc. Đảng luôn ý thức
rằng, chăm lo nhu cầu, lợi ích của nhân dân
nhất là nhân dân lao động, là mục tiêu, động
lực to lớn của cách mạng nước ta.
Đảng thực hiên mục tiêu lý tưởng của mình
cũng chính là thực hiện mục tiêu lý tưởng của
nhân dân, của dân tộc, của Tổ quốc nên nó có
cơ sở khách quan bền vững. Vì thế mà nhân
dân gắn bó với Đảng, cùng với Đảng, thừa
nhận sự lãnh đạo của Đảng làm cách mạng
Thứ hai, lợi ích của Đảng, của quần chúng
nhân dân và của cả dân tộc là một, là thống nhất.
Không chỉ thống nhất về mục tiêu, mà
Đảng với quần chúng nhân dân còn có sự
thống nhất về lợi ích. Đảng ta là người đại
diện trung thành cho lợi ích của giai cấp công
nhân, của nhân dân lao động và của cả dân
tộc Việt Nam. Trong tác phẩm Sửa đổi lối làm
việc, Hồ Chí Minh đã thể hiện rõ tư tưởng của
mình về sự thống nhất lợi ích giữa Đảng với
quần chúng nhân dân. Người viết: “lợi ích
của dân tộc, gồm có lợi ích của Đảng”, “...
lợi ích của Đảng tức là lợi ích của dân tộc,
của Tổ quốc”, “ngoài lợi ích của dân tộc, của
Tổ quốc, thì Đảng không có lợi ích gì khác.
Cho nên Đảng phải ra sức tổ chức nhân dân,
lãnh đạo nhân dân để giải phóng nhân dân và
để nâng cao sinh hoạt văn hóa, chính trị của
nhân dân. Vì toàn dân được giải phóng tức là
Đảng được giải phóng” [3, tr. 250]. Vì vậy,
ngay từ khi mới ra đời đến nay, Đảng đã lãnh
đạo dân tộc chiến đấu, chấp nhận sự hy sinh
vì sự nghiệp giải phóng dân tộc, vì hạnh phúc
của nhân dân.
57

Taïp chí Kinh teá - Kyõ thuaät

Khi tiếng súng kẻ thù phương Tây xâm
lược nước ta, nhân dân ta lâm vào cảnh nước
mất, nhà tan. Thì khi ấy “độc lập cho dân tộc,
ruộng đất cho dân cày” là khẩu hiệu tranh đấu
của Đảng trong chặng đường đầu của cách
mạng, đã hàm chứa mục đích sống còn và
tiên quyết của Đảng là vì dân tộc và nhân dân.
Trên quan điểm giai cấp công nhân, ngoài
mục đích vì dân tộc, vì nhân dân, vì dân giàu,
nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn
minh, Đảng không có mục đích tự thân. Đấu
tranh vì lợi ích của giai cấp công nhân và của
nhân dân lao động là mục đích hoạt động, là
lý do để tồn tại và là lẽ sống của Đảng.
Thứ ba, Đảng với quần chúng nhân dân
cùng chung một cội nguồn
Quan hệ giữa Đảng với quần chúng nhân
dân là mối quan hệ hai chiều trong một chỉnh
thể thống nhất. Ở đó, Đảng với quần chúng
nhân dân cùng chung một cội nguồn. Theo
Hồ Chí Minh, Đảng không phải từ trên trời
sa xuống mà từ quần chúng nhân dân mà ra.
Đảng cũng ở trong xã hội. Người nói: “Đoàn
thể từ trung ương tới xã đều do dân tổ chức
nên” [3, tr. 299]. “Đoàn thể mình mạnh hay
yếu là ở dân”. Sở dĩ có Đảng anh hùng vì có
nhân dân anh hùng.
Đảng từ quần chúng nhân dân mà ra, nhờ
có quần chúng nhân dân mà có Đảng, Đảng
phải dựa vào quần chúng nhân dân để thực
hiện vai trò lãnh đạo của mình; quần chúng
nhân dân nhờ có sự dẫn dắt của Đảng, nhờ có
Đảng lãnh đạo thì mới có hướng đi đúng đắn
và cách mạng mới giành được thắng lợi.
Đảng với quần chúng nhân dân là hai thành
tố cơ bản gắn bó hữu cơ, là điều kiện cần và
đủ cho một cuộc cách mạng. Giữa Đảng với
quần chúng nhân dân phải có sự nương tựa
vào nhau. Lịch sử đã chứng minh chỉ có quần
chúng nhân dân mới là lực lượng trực tiếp làm

cách mạng và chỉ có Đảng Cộng sản lãnh đạo
thì quần chúng nhân dân mới tiến hành cách
mạng thành công. Hồ Chí Minh đã ví, Đảng
với quần chúng nhân dân như “người chèo” và
“người lái” trên con thuyền cách mạng. Nếu
chỉ có người chèo không có người lái cũng
không được. Cho nên người chèo và người
lái phải đoàn kết với nhau. Người chèo ở đây
là lực lượng, sức mạnh của quần chúng nhân
dân. Người cầm lái là Đảng, là Chính phủ, là
Nhà nước dưới sự lãnh đạo của Đảng.
2.2. Sự tác động qua lại giữa Đảng và
quần chúng nhân dân
Bên cạnh sự thống nhất, hai thực thể Đảng
và quần chúng nhân dân còn có những khác
biệt. Hai chủ thể này có sự tác động qua lại
nhau. Điều đó được thể hiện rõ ở vai trò của
Đảng đối với quần chúng nhân dân và vai trò
của quần chúng nhân dân đối với Đảng.
Trước hết, chúng ta xem xét vai trò của
Đảng đối với quần chúng nhân dân:
Trong mối quan hệ với quần chúng nhân
dân, Đảng là chủ thể lãnh đạo, còn quần chúng
nhân dân là đối tượng lãnh đạo. Đảng có vai
trò lãnh đạo quần chúng nhân dân trong sự
nghiệp cách mạng và xây dựng chủ nghĩa xã
hội, làm cho dân giàu nước mạnh.
Chúng ta biết rằng, cách mạng là sự nghiệp
của quần chúng nhân dân. Nhưng, sức mạnh
vĩ đại của quần chúng nhân dân chỉ có thể phát
huy và trở thành lực lượng vật chất khi có sự
lãnh đạo của Đảng. Sự nghiệp cách mạng cũng
chỉ có thể thành công được khi có Đảng dẫn
dắt. Lịch sử các phong trào giải phóng dân tộc
của Việt Nam ta đã chứng minh, con đường
giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp bao
giờ cũng đòi hỏi phải có một hệ tư tưởng khoa
học tiên tiến thay thế cho hệ tư tưởng phong
kiến đã lỗi thời lạc hậu. Song, hệ tư tưởng ấy
phải có một tổ chức tiên phong cách mạng tập
58

Tư tưởng Hồ Chí Minh . . .

hợp quần chúng nhân dân đông đảo, biến hệ
tư tưởng khoa học đó thành hiện thực. Hồ Chí
Minh coi “công nông là gốc của cách mạng”,
song công nông và dân chúng nói chung phải
giác ngộ, và muốn được giác ngộ, đi từ tự
phát đến tự giác, thì phải được trang bị bởi
hệ tư tưởng của giai cấp vô sản. Do đó, phải
có Đảng cách mạng - Đảng Cộng sản.
Khi Đảng Cộng sản lãnh đạo quần chúng
nhân dân tiến hành cách mạng vô sản, cách
mạng giải phóng dân tộc thành công, giành
được chính quyền, thì không thể dừng lại ở
đó. Mà, Đảng phải tiếp tục lãnh đạo nhân dân
tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa. Trong
sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa, vai
trò và trách nhiệm lãnh đạo không thuộc về ai
khác ngoài Đảng Cộng sản.
Đảng lãnh đạo quần chúng nhân dân ta
tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa là nhằm
xây dựng thành công chế độ xã hội chủ nghĩa
ở nước ta. Chủ nghĩa xã hội là con đường đi
lên, là mục tiêu phấn đấu mà Đảng và nhân
dân ta theo tư tưởng Hồ Chí Minh đã dứt
khoát lựa chọn.
Như vậy, cả trong sự nghiệp cách mạng
giải phóng dân tộc và cách mạng xã hội chủ
nghĩa đều thể hiện rất rõ vai trò lãnh đạo của
Đảng đối với quần chúng nhân dân. Ở đó,
Đảng là nhân tố thúc đẩy, phát huy, và nhân
lên sức mạnh của quần chúng, làm tăng hiệu
quả hoạt động của quần chúng, còn bản thân
sự nghiệp hoạt động cách mạng là của quần
chúng và do quần chúng quyết định.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh về mối quan
hệ giữa Đảng với quần chúng nhân dân, sự
tác động qua lại không chỉ là: Đảng lãnh đạo
quần chúng nhân dân thực hiện cách mạng giải
phóng dân tộc và cách mạng xã hội chủ nghĩa,
mà còn là Đảng dựa vào dân, gắn với dân thì
mới có sức mạnh, mới làm nên thắng lợi trong

cách mạng. Điều này, nói lên vai trò to lớn của
quần chúng nhân dân đối với Đảng, vai trò đó
được thể hiện ở những luận điểm sau:
Thứ nhất, quần chúng nhân dân là cội
nguồn và sức mạnh của Đảng.
Trong điều kiện đặc thù của nước ta, Đảng
Cộng sản Việt Nam ra đời từ sự kết hợp chủ
nghĩa Mác – Lênin với phong trào công nhân
và phong trào yêu nước. Giai cấp công nhân
Việt Nam, dân tộc Việt Nam và nhân dân Việt
Nam đã sinh ra Đảng Cộng sản Việt Nam. Do
đó, có thể nói mối quan hệ máu thịt giữa Dân
với Đảng là một trong những nhân tố cơ bản
dẫn đến sự ra đời của Đảng.
Hơn nữa, Đảng tồn tại và phát triển được
là nhờ dựa vào dân, lực lượng của Đảng có lớn
mạnh được hay không là do dân. Nhân dân
là người xây dựng đồng thời là người bảo vệ
Đảng, bảo vệ cán bộ của Đảng, Dân như nước
cán bộ như cá. Cá không thể sinh tồn và phát
triển được nếu như không có nước. Nhân dân
là người che chở, đùm bọc cho Đảng trước
mọi đàn áp, khủng bố của quân thù, trước mọi
tấn công của chủ nghĩa đế quốc.
Nhờ dựa vào quần chúng nhân dân, phát
huy sức mạnh tổng hợp của quần chúng nhân
dân, sức mạnh của Đảng ta đã trở thành vô
địch. Đảng đã tổ chức và lãnh đạo cách mạng
nước ta vượt qua mọi khó khăn, thử thách,
nguy hiểm, giành nhiều thắng lợi vẻ vang
trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân,
trong kháng chiến bảo vệ Tổ quốc và thành
tựu quan trọng trong sự nghiệp đổi mới. Đúng
như Người đã nói: “dân chúng biết giải quyết
nhiều vấn đề một cách đơn giản, mau chóng,
đầy đủ mà những người tài giỏi, những đoàn
thể to lớn nghĩ mãi không ra”. [3, tr.295]
Thứ hai, quần chúng nhân dân là lực
lượng cơ bản, có sức mạnh to lớn để thực
hiện chủ trương, đường lối, chính sách của
59

nguon tai.lieu . vn